Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 5 đăng ngày 2019-11-16
***
Lãng du cùng bài thơ “Hai sắc hoa ti-gôn”
Tác giả: T.T.Kh & Thanh Châu

Hai sắc hoa ti-gôn

Tác giả: T.T.Kh

Ngày 23 tháng 9 năm 1937

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn,

Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,

Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,

Tôi chờ người đến với yêu đương.

~

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng

Dải đường xa vút bóng chiều phong,

Và phương trời thẳm mờ sương, cát,

Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.

~

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,

Thở dài trong lúc thấy tôi vui,

Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ,

Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”

~

Thuở đó nào tôi đã hiểu gì

Cánh hoa tan tác của sinh ly,

Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng

Là chút lòng trong chẳng biến suy.”

 

         *

 

Đâu biết lần đi một lỡ làng,

Dưới trời đau khổ chết yêu đương.

Người xa xăm quá! - Tôi buồn lắm

Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...

~

Từ đó thu rồi thu lại thu,

Lòng tôi còn giá đến bao giờ?

Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ

Người ấy cho nên vẫn hững hờ!

~

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời

Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,

Mà từng thu chết, từng thu chết,

Vẫn giấu trong tâm bóng “một người”.

 

         *

 

Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết

Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa

(Nhưng hồng) tựa trái tim tan vỡ.

Và đỏ như màu máu thắm pha!

~

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi

Một mùa thu trước rất xa xôi:

Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,

Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

~

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,

Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu

Gió về lạnh lẽo, chân mây vắng,

Người ấy ngang sông đứng ngóng đò...

~

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,

Trời ơi! người ấy có buồn không?

Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ

Tựa trái tim, phai tựa máu hồng...?

***

Bài “Hai sắc hoa ti-gôn” ra đời như thế nào?

-

T.T.Kh là bút danh của một nhà thơ ẩn danh trong phong trào Thơ mới (1930–1945), là tác giả bài “Hai sắc hoa ti-gôn” nổi tiếng. Nhiều người đã suy đoán lai lịch thật của T.T.Kh nhưng chưa có giả thuyết nào thuyết phục được công chúng.

-

T.T.Kh chỉ đăng trên tờ Tiểu thuyết thứ bảy có 3 bài thơ, đó là:

 

·      “Hai sắc hoa ti-gôn” (đăng ngày 23 tháng 9 năm 1937) – Như trên

·      “Bài thơ thứ nhất” (đăng ngày 23 tháng 11 năm 1937) – Xem trích đăng trước cuối bài

·      “Bài thơ cuối cùng” (đăng ngày 30 tháng 10 năm 1938) – Xem trích đăng cuối bài

 

Dị bản 1:

Có một tâm sự mà nhà văn Ngọc Giao giữ mãi trong lòng hơn nửa thế kỷ. Đó chính là hoàn cảnh ra đời của bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn. Ông kể rằng vào một buổi trưa, cuối mùa thu năm 1937, ở toà soạn báo Tiểu thuyết thứ bảy, khi những đồng nghiệp trong toà soạn đã về nghỉ gần hết, chỉ còn lại Trúc Khê Ngô Văn Triện và ông. Trúc Khê Ngô Văn Triện còn nán lại để dịch Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ra quốc ngữ. Còn ông thì đã tiến đến chỗ mắc áo để lấy mũ và ra về. Nhưng đúng lúc đó có tiếng kèn đám ma. Đám tang đang đi qua phố Hàng Bông, ông là người rất sợ nghe tiếng kèn đám ma, nên ông mới nán lại thêm cho xe tang đi qua đã. Đã khoác áo, đội mũ chỉnh chu, ông không muốn quay vào phòng trong mà kéo ghế ngồi tạm lại chỗ gần cửa, gần nơi để cái sọt đựng giấy loại. Không biết điều gì xui khiến, ông đưa tay vào sọt giấy loại, nhặt lên mấy tờ bị vo tròn và quẳng vào đó chờ đi đổ xe rác. Tẩn mẩn, ông vuốt một tờ ra và đọc. Đó là một tờ giấy học trò khổ nhỏ. Một bài thơ. Chữ viết bằng bút chì nguệch ngoạc, nét run, nét mờ, như thể viết ra một lần là xong và gửi luôn cho toà báo. Theo quy định của báo là bài lai cảo phải viết trên một mặt giấy sạch sẽ. Còn bài thơ nét chữ bút chì này lại viết trên cả hai mặt giấy. Nhưng bài thơ đã khiến ông xúc động lạ thường, đó là Hai sắc hoa ti-gôn của T.T.Kh. Và ông đã ngồi lặng đi trong mối rung cảm đặc biệt. Rồi ông bước vội đến đưa bài thơ cho Trúc Khê, yêu cầu đọc ngay. Trúc Khê thấy ông đang quá xúc động, cũng bỏ bút, cầm đọc bài thơ. Và Trúc Khê cũng ngồi lặng đi, rồi đọc lại lần nữa. Ông già Trúc Khê vỗ tay xuống bàn, nói với ông: “Sao lại có bài thơ tuyệt đến thế này...!” Rồi ngay sau đó, Ngọc Giao gọi ông cai thợ sắp chữ nhà in lên, bảo sắp chữ ngay bài thơ ấy cho số báo sắp ra. Vậy là Hai sắc hoa ti-gôn đi vào đời sống thơ ca Việt Nam...

-

 Kể câu chuyện tâm sự mấy mươi năm xưa cũ, nhà văn Ngọc Giao còn cầm bút ghi vào cuốn sổ lưu niệm của một bạn văn cùng thời là nhà văn Phạm Văn Kỳ cũng từng làm thư ký toà soạn tuần báo Tiểu thuyết Thứ năm. Những dòng lão nhà văn Ngọc Giao ghi vào sổ lưu bút của lão nhà văn Phạm Văn Kỳ có đoạn: “... Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh bị bỏ rơi sọt rác như vậy đó. Nó càng được bạn đọc nhắc đến bao nhiêu, tôi càng ân hận về lỗi làm ăn cẩu thả, sơ xuất bấy nhiêu... Nếu không có cái đám ma qua phố thổi kèn rầu rĩ đó thì tôi đã đội mũ lên đầu, không cúi xuống sọt rác... thì đoá hải đường Hai sắc hoa ti-gôn đành an phận nằm trong đó, rồi người ta mang đi theo thường lệ, người ta phóng lửa đốt cả... Trong đó, rất có thể cả những áng văn hay mà cái anh thư ký toà soạn quan liêu, nhác lười, cẩu thả đã ném đi!...”.

***

Dị bản 2:

Tháng 7 năm 1937, tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà Nội đăng truyện ngắn “Hoa ti-gôn” của nhà văn Thanh Châu. khoảng 2 tháng sau, thì “tòa soạn nhận được một phong bì dán kín do một thiếu phụ trạc 20 tuổi, dáng bé nhỏ, thuỳ mị, nét mặt u buồn mang đến gửi cho chủ bút tờ báo trên, trong ấy chỉ vỏn vẹn có bài thơ ‘Hai sắc hoa ti-gôn’, dưới ký tên là T.T.Kh…Có thể nói đây là lần duy nhất người thiếu phụ ấy xuất hiện“…

***

Tiếp theo, mời anh/chị đọc truyện ngắn "Hoa ti-gôn" của nhà văn Thanh Châu đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy. Truyện ngắn này được tác giả T.T.Kh tham chiếu bằng 2 câu thơ:

Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết

Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa

--

 

Hoa ti-gôn

Tác giả: Thanh Châu

*

“… Hoa leo ti-gôn sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người…” KHÁI HƯNG (Gánh hàng hoa)

-

Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa ti-gôn. Đó là thói quen của họa sư mà không một người bạn hay người học trò thân nào là không biết rõ. Đến mùa hoa ti-gôn nở nhiều nhất, trong nhà họa sư Lê người ta chẳng còn thấy một thứ hoa nào khác. Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ, họ sẽ phải cho lời nhận xét của họa sư Lê là đúng: Hoa ti-gôn hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuốm máu đào. Rồi người ta phải tự hỏi thầm: “Tại sao họa sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá một ngày đã rụng rồi? Chắc lại có điều tâm sự chi đây”.

 

*

 

Một buổi trưa – hồi đó Lê Chất hai mươi bốn tuổi, còn là một họa sĩ nghèo mới ở trường ra – một buổi trưa đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe. Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh vẽ. Mà cảnh đẹp đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.

-

Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ, trông ra dáng biệt thự của một ông quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi, Chất hãm xe, nghễnh cổ nhìn qua một hàng rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất sắp đạp xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nứa. Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khỏe mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ. Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vầng trán, cảnh “con gái hái hoa” ấy như một bức tranh linh động, khiến người họa sĩ phải dừng chân ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất là đôi môi có một nét vẻ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi, ai trông thấy một lần đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô tình, bận gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Đến khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng nhìn mình, mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng.

-

Nhưng từ hôm đó, hôm nào họa sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà.

-

Lê Chất chỉ được trông thấy nàng vài lần nữa rồi thôi bởi ngôi nhà hình như sau đó không có người ở nữa, ngày nào cũng chỉ nhìn thấy có một ông già cuốc cỏ trong vườn.

-

Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đã vẽ nhiều croquis cất trong album để ghi giữ lại rồi dần dần cũng quên đi…

-

Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa anh lên một địa vị mà nhiều người ghen tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán với giá cao: Anh đã bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người, nhất là tranh vẽ đàn bà đã khiến các bạn Chất tặng cho cái tên: “Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp”. Họa sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính. Lê Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ lâu không còn là gã họa sĩ nghèo huýt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà Thành đi tìm cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp.

-

Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi của tòa lãnh sự Pháp, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đã gặp người này. Ở đâu? Chất giật mình. Có thể nào? Nhưng quên làm sao được khuôn mặt ấy, đôi môi ấy? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ: Thiếu phụ là vợ một viên chức trong tòa lãnh sự.

-

Trong khi nhảy với thiếu phụ một bản tăng-gô, Lê Chất đột nhiên hỏi:

- Bà vẫn thích hái hoa ti-gôn chứ?

Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên:

- Ông nói gì… tôi không hiểu.

- Có lẽ bà đã quên Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa…

 

Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh:

- Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không?

 

Nàng nói tiếp:

- Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng tự nghĩ không biết đã gặp ở đâu rồi. Tám chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau…

-

Mai Hạnh – tên thiếu phụ – rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó lại đã dự vào dĩ vãng tươi đẹp của mình, một họa sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được? Hạnh thường đến chỗ họa sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận cho chàng vẽ một bức chân dung.

-

Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo đỉnh núi, Lê Chất nói:

- Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể thành đôi bạn thôi ư? Hạnh có đoán được lòng tôi lúc này không?

-

Mai Hạnh, giọng run run tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất đã ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại:

- Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.

 

Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.

 

Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn Lê Chất thì lo ngại, tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại sau cùng cũng nhận lời.

-

Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc, lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đã sẵn sàng, thì phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh: “Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Đừng giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn như anh đã tưởng. Đến phút cuối cùng, em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai… Em thấy rằng: nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy chưa? Em là một đứa hèn! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy! Nhưng còn em thì chẳng bao giờ, chẳng bao giờ! Vì em biết em sẽ không bao giờ tự an ủi được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh…”

-

Trong thư, một dây hoa ti-gôn nhỏ ép rơi ra: những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.

-

Lê Chất đặt một cái hôn trên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch xứ Phù Tang có một mình.

 

    *

 

Bốn năm sau, một hôm họa sư Lê Chất thấy trên bàn giấy mình một phong thư viền đen báo tang. Ông mở ra xem thì đó là của người chồng Mai Hạnh báo tin nàng đã chết.

-

Họa sư đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa quen thuộc. Rồi trở về Hà Nội, ông mới sực nhớ ra rằng đã quên không hỏi xem Mai Hạnh đã chết vì một bệnh gì, một cơn cảm sốt…, hay vì sầu muộn…

-

Ngày nay, họa sư Lê Chất đã già, nhưng cứ đến mùa hoa ti-gôn nở, không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế hoa cũ trong phòng vẽ, vì thứ hoa ấy chóng tàn.

***

Bài thơ thứ nhất

Tác giả: T.T.Kh

Ngày 23 tháng 11 năm 1937

*

Thuở trước hồn tôi phơi phới quá,

Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương...

Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại,

Êm ái trao tôi một vết thương.

~

Tai ác ngờ đâu gió lại qua,

Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,

Thổi tan tâm điệu du dương trước

Và tiễn người đi bến cát xa.

~

Ở lại vườn Thanh có một mình,

Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh;

Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo,

Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.

~

Và một ngày kia tôi phải yêu

Cả chồng tôi nữa lúc đi theo

Những cô áo đỏ sang nhà khác,

Gió hỡi! Làm sao lạnh rất nhiều?

~

Từ đấy không mong không dám hẹn

Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm,

Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ,

Người ấy ghi lòng: “Vẫn nhớ em!”

~

Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên,

Bỗng ai mang lại cánh hoa tim

Cho tôi ép nốt dòng dư lệ

Rỏ xuống thành thơ khóc chút duyên?

~

Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ

Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ!

Tóc úa giết dần đời thiếu phụ...

Thì ai trông ngóng, chả nên chờ!

~

Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá

Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:

“Cố quên đi nhé, câm và nín

Đừng thở than bằng những giọng thơ!”

~

Tôi run sợ viết, lặng im nghe

Tiếng lá thu khô xiết mặt hè

Như tiếng chân người len lén đến.

Song đời nào dám gặp ai về!

~

Tuy thế tôi tin vẫn có người

Thiết tha theo đuổi nữa, than ôi!

Biết đâu... tôi: một tâm hồn héo,

Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.

***

 

 

Bài thơ cuối cùng

Tác giả: T.T.Kh

Ngày 30 tháng 10 năm 1938

*

Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ!

Một mùa thu cũ, một lòng đau...

Ba năm ví biết anh còn nhớ,

Em đã câm lời có nói đâu!

~

Đã lỡ, thôi rồi! Chuyện biệt ly,

Càng khơi càng thấy luỵ từng khi.

Trách ai mang cánh "ti-gôn" ấy,

Mà viết tình em, được ích gì?

~

Chỉ có ba người đã đọc riêng,

Bài thơ “đan áo” của chồng em.

Bài thơ “đan áo” nay rao bán,

Cho khắp người đời thóc mách xem...

~

Là giết đời nhau đấy, biết không?

...Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung,

Giận anh, em viết dòng dư lệ,

Là chút dư hương: điệu cuối cùng!

~

Từ nay, anh hãy bán thơ anh,

Còn để yên tôi với một mình,

Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét,

Thì đem mà đổi lấy hư vinh.

~

Ngang trái đời hoa đã úa rồi,

Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi...

Buồng nghiêm thơ thẩn hồn eo hẹp,

Đi nhớ người không muốn nhớ lời!

~

Tôi oán hờn anh, mỗi phút giây,

Tôi run sợ viết, bởi rồi đây

Nếu không yên được thì tôi... chết

Đêm hỡi! làm sao tối thế này?

~

Năm lại năm qua cứ muốn yên

Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;

Và người vỡ lỡ duyên thầm kín,

Lại chính là anh, anh của em!

~

Tôi biết làm sao được hỡi trời?

Giận anh, không nỡ! Nhớ không thôi!

Mưa buồn, mưa hắt, trong lòng ướt...

Sợ quá đi, anh... “có một người”!...

***

 

➖ ➖ ➖