Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 4 đăng ngày 2019-11-09
***
Bên dòng sông Phố
Tác giả: Đỗ Phước Bình

Cuối mùa hè năm ấy, tôi rời quê lên Sài Gòn trọ học.  Khi chiếc xích lô chở mẹ tôi ra bến xe đò về tỉnh khuất dạng trên con đường Thành Thái rộng thênh thang, tôi đã tủi thân đứng khóc bên vỉa hè như một đứa trẻ mồ côi.

 

Nhưng rồi cuộc sống của đứa học trò có nhiều bạn bè tứ xứ cũng làm tôi vui dần. Ngày nghỉ, tôi về thăm quê, thường hay đem sách ra bên bờ sông ngồi đọc, lặng lẽ một mình.

Mấy mùa hạ trôi qua, mỗi năm mỗi lên lớp, bấy giờ tôi cũng đường hoàng là một cậu học trò đệ tam rồi. Tôi làm thơ, tôi chép thơ, tôi viết những dòng nhựt ký chỉ để riêng mình đọc. Tôi yêu màu hoa phượng đỏ rực rỡ trước sân trường, yêu ánh trăng khuya soi căn gác trọ.

Tình yêu chớm nở trong đời tôi một cách lặng lẽ và đẹp như làn khói lam chiều nào cũng tỏa lên từ những mái tranh nghèo của miền quê hương tôi hằng yêu dấu. Phải, tôi đã gặp lại Thắm cuối mùa hè năm ấy. Thắm là một người bạn học chung trường thuở nhỏ nhưng nhà nghèo nên không được tiếp tục cắp sách đến trường, nhà ở bên kia cánh đồng rộng mênh mông của gia đình tôi. Ngày đó, khi cơn nắng nữa chiều còn trải lên dòng sông sóng nhấp nhô màu bạc, Thắm chèo xuồng ngang qua chỗ tôi ngồi đọc sách, mái tóc đen óng ả xỏa dài như một lời thề và đôi má ửng hồng vì dang nắng lại hồng thêm vì thẹn thùa khi bắt gặp cái nhìn say đắm của tôi. Thắm khẻ nghiêng vành nón mỉm cười chào tôi rồi khua dầm chèo xuồng đi mau. Tôi nhìn theo bóng dáng thon nhỏ của Thắm, bồn chồn trong lòng như đã đánh mất phân nửa hồn mình trong đôi mắt dịu hiền của người con gái ấy. Những lần gặp sau, tôi dạn dĩ hơn, mượn cớ hỏi thăm các bạn học thời thơ ấu bắt Thắm phải dừng xuồng trò chuyện. Thỉnh thoảng Thắm cũng đem cho tôi những trái cây ngon trong vườn nhà.

Tôi đã kể chuyện đời tôi cho Châu, người bạn ở trọ chung nhà.  Nó học ban văn chương, tối ngày đọc sách, ngâm thơ và theo dõi báo chí để biết chuyện xảy ra hàng ngày trên thế giới. Chúng tôi vẫn cải nhau về đủ mọi chuyện, phần nhiều là tôi cải bướng cho được nhưng nằm đêm suy nghĩ lại mới thấy nó có lý, nhứt là từ khi tôi phục nó vì cách nó nói về tình đời.

- Chuyện giữa tao với Thắm mày nghĩ sao?

- Thì sao nữa, mày thương con người ta rồi còn làm bộ hỏi. "Người ấy" thùy mị và có duyên quá hả!

Chết rồi, nó đã đọc lén hết cuốn nhựt ký của tôi. Không giấu được gì nữa, tôi tâm sự:

- Tao vẫn biết là tao yêu Thắm. Lần nào ngồi trên xe về thăm quê, tao cũng nôn nao khôn tả. Chiều chủ nhựt trở lên Sài Gòn, tao nghe như phải đi đày. Tao mơ ước sau này được sống mãi bên nàng. Nhưng...

- Tao biết rồi, mày còn ngại cô ta ít học, không hợp với cách sống, cách suy nghĩ như bọn mình. Thắm không có dịp học cao hơn vì xã hội này vẫn còn là một xã hội đầy rẫy bất công, nên đành cam phận quê mùa. Bọn mình nhờ có tiền của, được tiếp xúc với văn hóa Âu Tây, có những thói quen, kiểu cách tạm gọi là văn minh.  Nếu mày đồng ý với cái thứ tự sẳn có từ thời xa xưa nào đó này thì tốt hơn mày nên quên Thắm. Ngược lại nếu mày muốn thay đổi tận gốc rể cái hệ thống xã hội áp bức này, dầu chỉ là trong lòng mà thôi, mày sẽ nhìn Thắm một cách khác. Thắm sẽ được học cao lên thêm ngày quê hương mình đổi mới.

Châu nói say sưa với tất cả lòng nhiệt thành của nó. Nó đã thật sự gỡ rối được những mối tơ lòng của tôi. Nó đã gieo vào tri thức của tôi một ý tưởng mới đẹp đẽ vô cùng. Từ đó Châu, rồi anh Phước đã dìu tôi đi, đi giữ truyền thống bất khuất của trường tôi, giữ thơm cho quê mẹ. Những ngày vui ấy, hình ảnh Thắm rực rỡ hơn bao giờ hết. Tôi thường mơ thấy cùng Thắm bơi thuyền trên dòng sông Đồng Nai, mái tóc Thắm xõa dài bay lồng lộng trong gió chiều thơm mát.  Tôi hái một chùm hoa bằng lăng tím đỏ trao cho Thắm, Thắm với tay tát nước lên đó để giữ cho hoa tươi và cả lên tôi rồi cười tinh nghịch.

 

Năm 1969, tôi học lớp đệ nhứt B2. Tháng năm, trời nắng chang chang. Buổi sáng vừa vào lớp, trong hộc tủ bàn học đã có sẵn những tấm truyền đơn, những lời kêu gọi của các bạn Gia Long, Trưng Vương, Cao Thắng. Buổi trưa ngồi trong lớp tôi lại hay ngóng nhìn ra ngoài. Những con chuồn chuồn ma đo đỏ vẫn bay cao bay thấp như thuở nào tôi còn là một chú bé ngờ nghệch. Nhưng không phải tôi nhìn chúng. Bên kia dãy nhà để xe đạp là trường đại học khoa học, các anh lớn đang bãi khóa, hội thảo, xuống đường ca hát vang trời. Tôi thấy Châu vẫn cười đùa, đi thăm hết người này tới người khác.  Ngày 12 tháng 6, cả bốn ngàn học sinh các lớp ngày cũng như đêm, đồng phục chỉnh tề, xuống sân trường đương đầu với lựu đạn cay, phi tiễn, dùi cui. Trong làn khói phủ sân trường, tiếng hát cất lên, cao vút và hùng hồn.  Châu ơi, có phải đó là tiếng hát mừng ngày quê hương ta đang chuyển mình đổi mới, để cho Thắm, cho bà con ở ruộng đồng, cho đồng bào nghèo khó ở thành thị có được ngày mai tươi sáng?

 

Tôi rời khỏi mái trường thân yêu giữa những ngay sôi sục đó. Lần cuối cùng nhìn lại những dãy bàn ghế, những tấm bảng đen, tôi nghe quặn đau trong lòng. Nơi đây tôi đã trải qua chuỗi ngày tươi đẹp nhất của đời người. Nơi đây các bạn học cùng trường đã truyền được cho tôi dòng máu hào hùng của anh Ơn, người đã vinh quang gục ngã hai mươi năm về trước.

Cầm chứng chỉ tú tài hai, tôi trở về nghĩ hè ở quê nhà. Mẹ tôi âu yếm nhìn tôi, hãnh diện vì con trai của mẹ bây giờ đã lớn khôn, giỏi giắn:

- Ai coi mới hồi nào nó còn ghẻ chốc đầy đầu, bây giờ nhờ Trời Phật độ cho thi đậu thiệt là nhà mình có phước. Má nguyện ăn chay một tháng rồi đó con.

Đã từ lâu, tôi không còn bực bội vì sự mê tín, quê mùa của mẹ tôi. Trái lại tôi vui sướng có được người mẹ chơn chất, cả đời chỉ biết có hy sinh, khuyên con mình điều hiếu nghĩa. Nhìn mái tóc mẹ điểm sương tôi không ngăn được xúc động. Tôi muốn nói lên điều gì để cảm ơn mẹ tôi, nhưng có lời nói nào đầy đủ bằng tiếng lặng thinh suy nghĩ, nén tình cảm mình thật sâu trong lòng? Một lát, tôi nói đùa:

- Con thi đậu, má thưởng con cái gì đi.

Mẹ tôi cười:

- Để má đi nói con Thắm cho con nghen.

Tôi mắc cở vùng chạy ra bến sông, chợt có cảm giác vui vui là Thắm đã đến thật gần trong cuộc đời mình.

Nhưng không, câu chuyện không quá giản dị như thế. Lần tôi quyết định gặp Thắm để ngõ lời là một đêm sáng trăng.  Cây bưởi vườn bên nở bông thơm ngào ngạt cả bầu trời. Bên bờ sông, tiếng sóng vỗ rạt rào lên bờ đất nghe như tiếng thì thầm của những người yêu nhau từ ngàn muôn thuở trước. Thắm tựa lưng vào gốc dừa, nhìn sang bên kia sông, nơi có ánh lửa nấu bếp nhà ai, tôi nói:

- Trăng sáng quá hả Thắm, bởi vậy người ta vẫn hay làm thơ ca tụng cảnh trăng thanh gió mát.

- Dạ

- Có nhà thơ còn coi trăng là của riêng mình và mang ra rao bán.

- Thắm không bao giờ dám nghĩ cái gì là của mình hết

- Sao lại không dám, cứ coi như trăng là của riêng cũng chẳng sao. Có điều là ai lại mang đi bán bao giờ.

Thắm thơ ngây hỏi:

- Sao vậy anh?

- Tại vì đối với anh, trăng là để người ta tặng nhau cho đẹp lòng người mình yêu mến.

Rồi tôi nói thật dịu dàng, tiếng nói tan biến đi trong cơn gió thoảng mùi hoa bưởi:

- Anh tặng Thắm vầng trăng đó, Thắm có nhận không?

Con gái, lần đầu tiên có người con trai xứng đáng thành thật nói yêu mình, tôi nghĩ là Thắm đang nghe lòng xao động lắm. Nhưng kìa, sao Thắm lặng nhìn tôi rồi nước mắt lưng tròng?

-Thắm hiểu ý anh từ lâu lắm rồi, bạn bè Thắm cũng nói là chắc anh nghĩ đến Thắm. Thắm cũng rất mến anh nhưng Thắm mong là anh sẽ quên Thắm đi. Anh còn phải đi học ở nước ngoài lâu lắm, còn Thắm chỉ là một cô gái quê mùa.

Tôi cố thuyết phục Thắm bằng nhiều lý lẽ nhưng không sao lay chuyển được nàng để rồi cuối cùng phải nói như để an ủi chính mình:

- Hiểu được lòng Thắm là anh sung sướng lắm rồi. Còn việc Thắm muốn anh quên, anh có muốn quên chắc cũng không dễ được. Anh hứa sẽ cố hết sức góp phần làm thay đổi cuộc sống bất công này, trả lại cho những người con gái như Thắm những ước mơ lẽ ra phải có. Ngày đó anh sẽ xin tìm lại Thắm, tặng cho Thắm mảnh trăng thề kia và cả cuộc đời anh nữa.

Tôi nắm lấy tay Thắm xiết thật chặt trong lòng tay mình. Thắm để yên và nhìn tôi như muốn thu cả hình bóng tôi vào trong con tim nàng đang thổn thức. Tôi nghe Thắm nói ngọt ngào bên tai:

- Vài hôm nữa Thắm đi.

Tôi ngạc nhiên:

- Thắm đi đâu vậy?

- Thắm cũng đã nghỉ như anh là phải tìm cách thoát ra cảnh đời bùn lầy nước đọng này. Thắm đi theo con đường cha ông mình đã vạch sẵn từ ngàn xưa. Nơi nào là quê hương, nơi đó Thắm sẽ đến. Ngày nào quê hương mình đổi mới Thắm sẽ trở về và chừng đó Thắm sẽ xin đón nhận lấy ánh trăng vàng anh tặng.

Tôi hiểu Thắm muốn nói với tôi điều gì. Tôi không thấy Thắm quyết định như vậy là sai, bởi vì đối với tôi có con đường tranh đấu khác, trong khi Thắm chỉ có một con đường ấy.

 

Rồi chúng tôi xa nhau biền biệt, tôi ra đi du học ở một thành phố châu Âu, Thắm như con chim trời bay nhảy qua ruộng đồng, làng mạc, rừng núi, thị thành. Mỗi lần nghe hát bài “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn” hay xem phim về những người nữ thanh niiên xung phong ở miền Bắc, tôi luôn nhớ Thắm và tin chắc rằng không có đội quân xâm lược nước nào có thể chiếm được nước tôi, nơi có muôn triệu người con gái như Thắm.

 

Năm 1982, lần đầu được về thăm quê sau ngày giải phóng, tôi đã ứa nước mắt khi nhìn thấy lại ngôi nhà ngói ba gian của thời thơ ấu và đã bật khóc khi mẹ tôi ôm trọn khuôn mặt tôi vào trong hai lòng bàn tay gầy guộc của người để vuốt ve và nhìn cho thật rỏ, miệng cười mà nước mắt chảy ròng ròng. Rồi người dắt tôi đến trước từng bàn thờ, bảo tôi đốt nhang cắm vào lư hương, quì lạy ông bà, Trời Phật. Tôi làm theo lời mẹ không phải chỉ vì muốn làm vui lòng người mà còn vì ý thức được nét đẹp của truyền thống thờ cúng ông bà mà nới rộng ra là yêu kính tất cả những bậc tiền nhân đã gầy dựng nên gia đình, quê hương, đất nước mình từ ngàn năm trước. Ba tôi thì mừng con về theo cách của người, sai em tôi xách gào mên ra thị xã mua mì về, rồi ngồi kề bên nhìn tôi ăn, y như ngày xưa mổi chiều thứ bảy.

Mấy ngày đầu tiên, tôi đi thăm và tặng qùa cho bà con và người quen trong làng, không quên một ai để không làm ai buồn lòng, theo thói quen tốt đẹp của dân mình.  Cuối cùng tôi bảo đứa cháu gái chèo xuồng đến thăm nhà Thắm. 

Mẹ tôi đã cho tôi biết là Thắm đã có chồng trong chiến khu, rồi chồng hi sinh trong những ngày cuối của chiến tranh, nay công tác trong ngành y tế huyện nhà.

Gặp lại Thắm sau mười mấy năm, ngở nàng rắn rỏi, dạn dày vì nắng mưa, gian khổ.  Nhưng không, Thắm vẫn dáng người thon thả và có phần đẹp hơn xưa.

Thắm rót nước mời tôi uống, nét mặt vui mà nghiêm. Tôi lúng túng không biết mở lời sao cho phải. Cuối cùng cũng trấn tỉnh được:

- Cô Thắm cho tôi thắp nhang cho hai bác và anh Quang.

Thắm dạ, làm theo lời tôi, rồi ngồi xuống ghế đối diện với tôi, kể chuyện đời Thắm từ khi chúng tôi xa nhau, đàng hòang xưng em thay vì xưng tên như thuở còn con gái.

- Em được phân công đi học làm y tá rồi chuyển lên tuyến trên phục vụ chiến trường.  Ở đó em gặp anh Quang, một chiến sĩ can trường và vô cùng yêu thương đồng đội. Em đã lỗi hẹn với anh, nhận lời cầu hôn của anh ấy. Được mấy năm, chẳng may....

Tôi không để Thắm phải nhắc đến chuyện buồn nên vội nói lên sự thông cảm với nàng và lòng kính trọng đối với người đã khuất. Thắm cũng hỏi thăm tôi, tò mò muốn biết tôi đã có ai chưa?  Không khí thân vui lần lần làm tôi dạn xưng anh với Thắm.

- Nơi anh sống không có nhiều nữ sinh người Việt, còn người Âu thì sợ ba má anh rầu vì hai người luôn ao ước muốn sau này có người lo nhang khói. Có lẽ anh sẽ nhờ ba má tìm giúp. Với lại, ...

Chúng tôi chợt im lặng. Tôi chợt nhớ đến hình ảnh Thắm chèo xuồng trên sông, mái tóc xỏa dài bay bay trong gió chiều thơm mát. Còn Thắm, em đang nghĩ gì?

- Anh Quang thường hái hoa lan rừng tặng em mỗi lần hành quân trên chiến khu Đ. Anh ấy cũng từng là một học sinh ở nội thành và cũng lãng mạng y như các anh vậy.

Rồi như thấu hiểu lòng tôi, Thắm nói thật nhanh và thật khẻ:

- Đối với em, anh ấy vẫn như còn sống, anh à.

Vậy đó, tôi không còn ở trong trái tim Thắm nữa rồi! Bất giác tôi nhìn lên ảnh Quang lung linh cuời sau làn khói đang bay lên từ những nén nhang còn cháy bỏng.

Trên chiếc xuồng tam bản chở tôi về, tôi suy nghĩ miên man. Kể ra Thắm chặn tôi dừng lại đúng lúc cũng phải, như Thúy Kiều đã dừng Kim Trọng tại lằn ranh giữa lã lơi và âu yếm, hai điều tưởng gần nhau mà thật ra khác xa trời vực!

Trở lại trời Âu, tôi lao vào công việc giúp nước của phong trào, quyên góp tiền xây bệnh xá, trường học, mua thuốc men, sách vỡ.  Cứ như là để được bình yên với tâm hồn mình và được chia xẻ nhọc nhằn với người mình thương nhớ.

Mấy năm sau, nhân dịp về thăm nhà, tôi đi giao quà tặng cho một xã nghèo.  Xe đưa chúng tôi đi theo những con đường xuyên rừng. Chợt nhìn thấy một chùm hoa lan tím ngát trên cao, tôi xin dừng xe lại, đứng lên vai một người bạn để trèo lên một rồi hai ba cành cây, vói tay hái cho kỳ được.

Về đến quê nhà, ngay chiều hôm đó tôi đến thăm Thắm, đặt vào hai cánh tay gầy của Thắm lẳng hoa rừng và nói thỏang nhẹ như ru người yêu dấu:

- Anh tự tay hái chùm bông lan này ở chiến khu Đ về tặng em. Nhận cho anh vui nha Thắm.

Thắm bối rối, lặng nhìn tôi rất lâu làm tôi như nghẹt thở cho đến khi đôi môi em nở một nụ cười hiền dịu thay cho lời hứa ngọt ngào mà tôi đợi chờ từ năm em mười tám tuổi.

Mười năm nữa trôi qua, tôi về ở luôn trong nước, ngày ngày hai vợ chồng đi làm trên thành phố. Gặp kỳ nghỉ lễ dài hay ngày giổ ba má, tôi lại chở Thắm về quê, chiều chiều ra bờ sông hóng mát, nhắc cho nhau nghe những chuyện đẹp ngày xưa.

 

Bruxelles 2-8-2011

Đỗ Phước Bình

 

➖ ➖ ➖