Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 31 đăng ngày 2020-05-16
***
Người thày học
Tác giả: Thanh Khê

Tôi gặp Phượng nơi nhà một người bạn ở Liège nhân một buổi tiệc giữa bạn bè. Phượng ít nói, cả buổi ăn chỉ thấy Phượng cười đôi ba lần vì một câu pha trò vui nào đó. Không phải là tại Phượng nhút nhát, bằng cớ là chị đã sẵn lòng hát cho mọi người nghe một bài hát thật buồn và gợi nhiều nhớ nhung: "Phố chiều, bao tà áo trắng...".

Nhưng không phải vì thế mà tôi chú ý đến chị. Khi tiệc tàn, vài anh đòi khiêu vũ, tôi thấy Phượng vội vàng đứng dậy lễ phép xin ra về trước, viện cớ chuyến xe lửa cuối cùng đi Bruxelles sắp chạy. Thì ra chị học ở Bruxelles mà tôi nào có biết. Tôi cũng xin ra về luôn để có dịp làm quen với Phượng mặc dù thằng bạn nài nỉ ở lại chơi với nó tối hôm sau.

Lần thứ nhì tôi gặp lại Phượng ở nơi thư viện, chị vui vẻ chào tôi và đón nhận một cuốn báo sinh viên tôi trao, bằng một cái nháy mắt cười tinh nghịch như có ý bảo: "Biết ngay mà, các anh hoạt động ghê lắm".

Từ đó, chúng tôi gặp nhau thường hơn và trở nên thân thiết sau những câu chuyện về quê hương, về những người còn ở lại quê nhà.

Có hôm, Phượng kể cho tôi nghe một mẩu chuyện của đời chị bằng một nỗi ngùi ngùi thương cảm:

"Năm đó tôi thi rớt tú tài Pháp. Nhà tôi giàu, học lại một năm cũng chẳng có gì khó khăn. Nhưng ba má tôi lại muốn tôi đi du học sớm chừng nào hay chừng nấy. Ông bà liền bắt tôi phải thi tú tài Việt. Khổ nổi vốn liếng lịch sử, văn chương Việt Nam của tôi chẳng có là bao, nhiều từ ngữ tôi còn không hiểu nữa là.

Ba tôi hỏi thăm nhiều nơi, cuối cùng tìm được một ông thầy dạy kèm cho tôi mỗi ngày bốn giờ, chia làm hai buổi. Nói là ông thầy chớ thật ra đó là một sinh viên năm thứ ba ban sử địa trường Đại học sư phạm Sài Gòn, còn rất trẻ, chỉ lớn hơn tôi vài ba tuổi. Anh Mẫn quê ở miền Trung nghèo khổ. Nhớ hôm đến nhận việc anh cẩn thận thắt cà vạt lên trên chiếc áo sơ - mi cụt tay cổ đã sờn, trông vụng về làm mấy đứa em tôi cứ lén nhìn và cười khúc khích. Da mặt anh xạm nắng, lốm đốm nhiều vết mụn trứng cá làm anh trông khắc khổ. Bù lại là vầng trán thông minh và cặp mắt thật hiền, chắc là giống cặp mắt của mẹ anh, tôi nghĩ vậy để rồi tự nhiên có cảm tình với anh ngay lần đó.

Ngày ngày anh đạp xe từ nhà ở đầu cầu Bông tới nhà tôi ở đường Tự Đức. Con đường không xa nhưng khói xe, bụi đường và nắng trưa của mùa hè làm nhiều hôm anh mệt lả. Nhìn gương mặt xương xương gầy yếu và tấm lưng áo ướt đẫm mồ hôi, tôi xúc động thật lòng. Chắc là vì vậy nên từ ly nước mát quy ước cho thầy, một hôm nào đó tôi đổi bằng ly nước cam vắt mang ít nhiều săn sóc của một đứa em gái cho người anh trai. Nhưng đó lại là một chuyện khác.

Bài học lịch sử đầu tiên Mẫn dạy tôi không có ghi trong sách. Anh hỏi:

- Chị Phượng có biết nguồn gốc dân tộc Việt Nam ta ở đâu không?

- Dạ, theo Phượng học thì có hai thuyết. Thuyết thứ nhứt cho rằng tổ tiên chúng ta ngày xưa là một bộ lạc ở tỉnh Triết Giang bên Tàu, bị người nước Sở đuổi đánh phải chạy về phương Nam lập nghiệp. Thuyết thứ hai có vẻ khoa học hơn, cho rằng dân Việt là thuộc các giống dân Mélanésien, Polynésien, Mông Cổ pha trộn lẫn nhau...

- Như vậy chúng ta hoặc là người Trung Hoa, hoặc là người Nam Dương mà thành ra chớ gì?

- Dạ, Phượng thấy sách nói như vậy.

Mẫn im lặng một lúc như muốn suy xét thật kỹ những điều anh sắp nói rồi nghiêm trang nhìn tôi:

- Ở trường, tôi cũng được dạy như vậy. Nhưng sự thật là từ mấy chục ngàn năm trước, đồng bằng sông Hồng, sông Mã đã là một trong ba nơi phát sinh ra loài người tại châu Á, sinh sống bằng săn bắt, hái lượm. Qua làm việc, người dân ở đây tiến bộ lên dần và đạt đến trình độ văn minh đồ đồng thau sớm nhứt trong lịch sử nhân loại; cách đây 4000 năm. Đó là thời đại dân ta đúc nên những chiếc trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ tuyệt đẹp mà ngày nay người ta đào được hàng loạt cùng với cả ngàn mũi tên đồng trong các hang động ở Thanh Hóa. Triều đại Hùng Vương là một sự thật lịch sử chớ không phải là truyền thuyết và chúng ta là con cháu của những vị vua anh hùng đã có công dựng nên một đất nước giàu đẹp và kiên cường mang tên Việt Nam đó.

Ngừng một lát, nhìn gương mặt chăm chú theo dõi của tôi, anh nói tiếp:

- Phong kiến Trung Hoa sau khi chiếm được nước ta vào đầu Công nguyên có ý đồ đồng hóa dân Việt nên đã viết sử dạy chúng ta rằng người Việt thật ra cũng chỉ là người Tàu, vậy đất Việt có thành phủ huyện của Trung Hoa cũng chẳng có gì trái lẽ. Thế nhưng hai bà Trưng, bà Triệu, Mai Hắc Đế rồi Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền đã cùng dân tộc ta trả lời lại bọn chúng bằng những cuộc khởi nghĩa giành độc lập đầu tiên trong lịch sử. Sau đó đại tướng Lý Thường Kiệt đã khẳng định rằng: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư, tuyệt nhiên định phận tại thiên thư..." trong trận thắng giặc oai hùng trên sông Như Nguyệt.

Đến thời Pháp thuộc, bọn xâm lược da trắng dựng nên câu chuyện hoang đường khác, nghe có vẻ khoa học hơn, nhưng đại để cũng muốn dạy cho chúng ta rằng dân tộc Việt Nam chỉ là một giống dân phiêu bạt từ một hải đảo xa xôi nào đó đến sanh sống nơi đây. Bây giờ có làm dân Pháp hay dân của một thuộc địa của Pháp thì cũng không có gì xấu hổ mà phải vùng lên đòi giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc!

Mẫn đã chạm đến tự ái của tôi vì tôi còn có tên Pháp là Jacqueline. Nhưng lòng tự ái nhỏ đó tan biến đi rất mau, nhường chỗ cho một niềm tự hào dân tộc đang dâng lên thanh thoát trong lòng theo nhịp điệu những lời lẽ hết sức giản đơn và say sưa Mẫn nói. Có khi tôi mơ màng tưởng tượng thấy những gương mặt uy nghiêm của công chúa Tiên Dung, của nàng Tây Thi, của hai bà Trưng..., của những người phụ nữ Việt Nam như tôi vào thời xa xưa dựng nước và giữ nước đó.

Uống một ngụm nước ngọt ngào, Mẫn nói tiếp:

- Cũng may là nửa triệu quân Mỹ đã phải rút gần hết về Mỹ, nếu không, vài trăm năm nữa đây nước ta có hàng triệu đứa con lai Mỹ và lịch sử "do nhân dân Hoa Kỳ tặng thiếu niên Việt Nam" dạy ở tiểu, trung học chắc sẽ viết rằng dân Việt Nam còn có dòng máu Yankee trong huyết quản bên cạnh máu Indonésie, Đại Hàn... Chừng đó nước Việt có đứng vào Hiệp chủng quốc như  Hạ Uy Di thì cũng có gì là lạ đâu Phượng nhỉ?

Tôi không trả lời anh ngay vì tâm hồn bỗng dưng xao động mạnh mẽ.  Tôi bắt đầu nghĩ tới những cái không dính dấp trực tiếp tới "tôi". Nghe Mẫn nói, tôi đã liên tưởng tới vài ba đứa bạn ham đô la đi lấy chồng Mỹ nửa chừng. Giờ đây, ôm những đứa con mũi lõ mắt xanh hay mắt lồi tóc xoắn chắc chúng ngậm ngùi nuối tiếc những ngày còn con gái. Xã hội quanh tôi sao có nhiều chuyện đáng buồn quá.

- Anh nói Mỹ rút đi là may cho nước mình, Phượng thì cứ nghe ba má than là Mỹ về xứ làm ăn hết được, không như những năm trước đây.

- Cái đó tùy Phượng xét. May hay rủi ở đây thật ra gắn liền với vấn đề quyền lợi tối cao của đất nước và quyền lợi riêng tư. Nói như vậy cũng không thật đúng. Tôi dám chắc rằng dù quân Mỹ rút về, gia đình Phượng bớt giàu sang nhưng sẽ hạnh phúc hơn. Một đứa con giải ngũ trở về. Những đứa cháu lớn lên không còn phải lo đi lính. Và nơi nhà quê, bà con trở lại ruộng vườn xưa không còn nơm nớp lo bom đạn, thuốc khai quang. Với lại, nỗi vui lớn nhất là được làm dân một nước độc lập phải không Phượng?

- Phượng cũng mong có hòa bình lắm chớ. Nhưng thú thật Phượng vẫn sợ sợ cái gì không rõ. Người ta nói mai mốt hòa bình nhà của Phượng sẽ bị nghèo đi mà Phượng thì không quen sống trong cảnh nghèo.

- Phượng thành thật lắm. Tôi quý trọng những người thành thật như vậy bởi vì tôi cũng rất thành thật khi nói với ai điều gì. Phượng sẽ không nghèo đâu vì không làm ăn với Mỹ khi Mỹ rút đi, hai bác vẫn có thể làm ăn giữa người Việt mình với nhau, nếu không thì ai làm? Người mình phải biết mở nhà máy chế tạo thực phẩm, đồ dùng hàng ngày cho đẹp và rẻ hòng cạnh tranh lại với hàng ngoại nhập chứ. Tôi chưa hề nghe ai, kể cả chánh phủ cách mạng, cấm những nhà tư sản dân tộc bỏ vốn khuếch trương kinh tế, đồn điền... Miễn là biết quí trọng những người nghèo khổ đem sức lao động góp phần làm giàu cho mình, biết nghĩ đến đất nước để đừng đầu cơ, tích trữ, bán quá giá v.v...

Đại để những buổi học của tôi với Mẫn là như vậy, nó hay lạc đề nhưng tôi lại rất say mê. Từ lòng say mê đó, tôi tìm kiếm sách vở đọc thêm và thấu suốt chương trình một cách mau chóng. Có đâu như ngày nào, đụng đến môn Sử, Địa, Việt văn là chán ngấy.

***

Năm đó tôi đậu bằng tú tài Việt hạng bình thứ. Ba má tôi cho tôi đi Đà Lạt chơi với lũ bạn học trên những chiếc xe nhà bóng lộn.

Nhưng tôi đổi khác rồi! Những cuộc vui đùa trưởng giả hồi nào mê mải, bây giờ sao nhạt phèo, vô vị. Những đứa bạn trai hào phóng theo đuổi, tôi bắt đầu coi như nợ nần. Tôi thấy nhớ một cái gì. Một cành thông chợt gãy vụn giữa buổi trưa hè yên tĩnh, một tiếng ve kêu ran bên hồ Than thở, một màu hoa pensée tím tím... tất cả đều đã gây trong lòng tôi những cảm giác rạo rực ngây say. Tôi nhớ Mẫn! Tôi nhớ dáng Mẫn gầy gò nhưng cương nghị, mắt sáng long lanh mỗi khi anh nói với tôi về quê hương, đất nước. Có hôm tôi thẫn thờ hàng giờ bên song cửa, nhìn mưa bụi bay lang thang trên những dãy đồi chiều xa, nhớ bài thơ TTKH "Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng, dải đường xa vút bóng chiều phong..." rồi nước mắt tự nhiên dâng trào. Tôi yêu Mẫn mất rồi. Tôi ủy mị, trưởng giả quá phải không anh? Nhưng tôi có yêu Mẫn vì cái gì khác hơn là vẻ đẹp của tâm hồn Mẫn đâu. Tôi sắp đi, yêu để rồi xa có nên không? Hay là cố quên ngay đi, như chẳng có gì đã xảy ra trong đời con gái của mình? Những câu vấn đáp như vậy cứ trở đi trở lại khiến tôi quên ăn mất ngủ.

Sau cùng tôi đã khuất phục trước những lý lẽ của con tim.  Tôi trở về Sài Gòn trong sự ngạc nhiên cùng cực của bạn bè.

Tôi đến thăm Mẫn vào một buổi trưa hè oi bức. Nhà Mẫn ở trong cùng một ngõ hẻm phía sau trường Lê Văn Duyệt. Tôi mặc chiếc áo dài màu xanh đọt chuối thật đơn sơ, tay xách giỏ đựng đầy mận Trại Hầm và lá artichaut, lòng rộn ràng như đã xa Mẫn từ lâu lắm. Thấy tôi vào, Mẫn lúng túng vui mừng:

- Nghe nói Phượng đi nghỉ hè trên Đà Lạt mà.

- Dạ, Phượng vừa về hôm qua, đem cho anh một ít quà và mớ lá artichaut anh uống. Má Phượng nói lá artichaut uống đắng nhưng trị được bịnh đau gan của anh.

- Cám ơn Phượng nhiều lắm. Trời nực quá, Phượng ngồi đây một lát tôi đi mua nước ngọt về uống nhé.

Mẫn đi rồi, tôi đưa mắt nhìn quanh nhà. Chiếc ghế bố có bốn cây trụ mùng nằm kề bên vách lá, cái bàn nhỏ tôi đang ngồi đặt bên cửa sổ làm tủ sách và nơi học; rương đựng quần áo xếp trong một góc nhà, trên bốn viên gạch; đôi giày săng - đan nằm trên nền đất khô cứng. Đó là tất cả những gì thuộc về Mẫn trong căn nhà này. Không, tôi nói sai rồi. Còn có cả một người đang tha thiết yêu Mẫn nữa chứ.

 Mẫn về, đem theo hai cái ly và chai nước cam vàng, rót mời tôi uống.

- Anh ở đây rồi làm sao nấu cơm ăn?

- Không, buổi trưa tôi ăn ở các quán cơm lao động gần trường, chiều thì về ăn chung với gia đình bác tư xích lô bên cạnh nhà.

Trái với điều tôi e ngại, Mẫn không hề mặc cảm về cái nghèo của anh. Sống, ăn, ở với đồng bào của mình bằng đồng tiền mồ hôi nước mắt thì có gì quý hơn, anh vẫn nói thế. Anh yêu cuộc đời cần lao vì đó là cuộc đời trong sạch nhất, xứng đáng nhứt. Hỏi về gia đình anh, anh kể:

- Tôi sinh ra đời nơi một làng quê nằm bên bờ sông Trà Khúc vào cái năm giặc Pháp còn đầy dẫy trên quê hương ta. Cha tôi cày thuê, cuốc mướn. Mẹ tôi trồng một vườn rau, buôn bán kiếm lời. Ngày còn nhỏ chiều chiều tôi thường theo xem mẹ gánh nước tưới rau, đùa nghịch vóc hai bàn tay đất cát vào thùng nước trong mát để rửa và vui cười.

Khi tôi bắt đầu đi học, trong một trận càn mùa khô năm 1953, quân Pháp bắt ba tôi, đánh đập tàn nhẫn rồi đem giam ở nhà lao Quảng Ngãi. Mẹ tôi oằn vai gánh lấy gánh nặng gia đình, nuôi đàn con còn thơ dại.

Sau hiệp định Genève chấm dứt 80 năm nô lệ giặc Tây, ba tôi về nhà với cơn bịnh suyễn kinh niên. Vui chưa được mấy năm, ông lại bị gọi lên chi công an quận tống giam vì tên tuổi còn nằm trong hồ sơ đen mà bọn Pháp để lại cho chính quyền. Lại nhà tù, lại bị tra khảo, cơm thiu, cá mục. Ba tôi chết lần mòn trong ngục tối cái năm tôi còn học lớp nhứt. Tôi đã lẳng lặng khóc và nuôi oán hờn trong lòng ngay từ thuở ấy.

Tôi lớn lên trong cảnh nhà khốn khó. Mẹ tôi già đi nhiều theo năm tháng chồng chất khổ đau, tủi nhục. Phượng ở thành phố không biết hết được đâu. Bọn cường hào, ác bá ở nông thôn mình như một lũ quân ôn dịch, không để ai yên ổn làm ăn. Chúng dìm cuộc đời dân ta trong máu lệ hờn căm. Mỗi lần về thăm mẹ, thăm quê, tôi lại được nghe kể thêm vài tội ác của bọn chúng. Bắt người vu là thân cộng để đòi tiền chuộc mạng, hãm hiếp phụ nữ trong phòng giam, độc quyền mua rẻ bán đắt những thứ cần dùng, tổ chức bài bạc gian lận, chưởi mắng, hiếp đáp cả những người già cả... Và giờ phút chúng ta trò chuyện nhau đây, chắc mẹ tôi vẫn còn đang ngậm đắng nuốt cay, lom khom cúi mái đầu tóc bạc của người xới đất trồng lớp rau mới cho cháu đem lên chợ bán.

Mẫn ngừng nói khi thoáng thấy hai giọt lệ long lanh trên khóe mắt tôi. Tôi khóc vì thương cảm và cũng vì tủi hổ. Đồng bào tôi khổ cực như vậy; còn tôi, biết bao nhiêu lần rồi tôi phung phí tiền bạc trong thương xá Tax, hành lang Eden một cách vô tư đáng trách. Tôi đã đối xử rất không phải với những người giúp việc chỉ vì họ nghèo, tôi giàu. Tôi đã... trời ơi, làm sao xóa được trong cuộc đời nhung lụa của tôi những vết đen ấy?

-Đừng buồn Phượng ạ. Không phải lỗi ở chúng ta đâu. Chiến tranh rồi cũng sẽ chấm dứt. Chế độ nào tham tàn thì rồi sẽ bị lật đổ, đó là một quy luật tự nhiên. Ngày ấy, chúng ta sẽ quên hết đau buồn cũ để xây dựng lại một xã hội công bằng nhân đạo, ấm no.

Tôi say đắm nhìn Mẫn, nghĩ đến cái ngày ấy mà anh nói. Với Mẫn, ngày ấy là ngày vui của dân tộc. Tôi chưa đủ sức để hiểu như anh nhưng tôi hoàn toàn tin ở anh và nguyện gắng sức đi theo con đường ai đi. Cái ngày ấy, đối với tôi, đơn giản là ngày tôi được theo anh về miền Trung, đứng bên anh bên dòng sông Trà Khúc và yêu kính gọi mẹ anh bằng mẹ.

 

***

Câu chuyện đến đó thì dừng vì Phượng bận học bài thi. Cho đến bây giờ tôi cũng chưa gặp lại Phượng để nghe chị kể tiếp.

Dẫu sao tôi vẫn tin rằng cái ngày quê hương ta đổi mới, Mẫn đưa Phượng về thăm quê mình bên bờ sông Trà Khúc rồi sẽ đến. Để cho cô thiếu nữ Sài Gòn giàu sang, có trái tim biết yêu thương nòi giống, đồng bào, đến quỳ bên một người mẹ Việt Nam suốt đời nghèo khổ, thủ thỉ kể cho mẹ nghe những ngày cô bắt đầu vắt nước cam cho con mẹ uống. Ngày đó cô vẫn tưởng rằng mình như em gái chăm sóc người anh trai gầy ốm, cho tới hôm ngồi thơ thẩn một mình hàng giờ bên song cửa, nhìn mưa bụi bay lang thang trên những dãy đồi chiều xa, nhớ thương ai mà nước mắt tự nhiên dâng trào.

THANH KHÊ

Bruxelles mùa tựu trường 1972

Để tặng những người nữ sinh viên Việt Nam trên xứ Bỉ.

(tập san Về Nguồn, Bruxelles, 1972)

 

➖ ➖ ➖