
Chương XVII
Con cáo áo xanh
Từ hôm ấy, mắt tôi chỉ trông thấy một vật, là tiền! Ngoài đồng tiền, không còn cái gì hơn. Nhân, đức, lễ, nghĩa... vứt đi, vứt đi hết.
‘‘Trước đây, có tiền, bác ngồi bệ vệ trên xe, chửi mắng người ta, bắt người ta kéo bác. Bây giờ hết tiền, bác phải tụt từ trên xe xuống, cắm đầu cắm cổ kéo cho người khác để nghe những tiếng chửi mắng của người ta.
‘‘Ở đời này, thằng nào coi rẻ đồng tiền là thằng ngu. Thiên hạ nó đã lấy lực đồng tiền sai khiến mình thì mình có chịu nó sai, cũng phải nhổ vào mặt nó mà lấy đồng tiền của nó.
‘‘Thế là những việc trước kia tôi cho là khốn nạn, tôi đã dúng tay làm cả. Làm mà không hối hận.
Mà hối hận cũng không có nghĩa gì.
‘‘Cũng như những nghề của nhiều người khác, cái nghề xe kéo của tôi nó chỉ là một nghề mượn để che lấp một nghề. Thằng này làm nghề ô-tô hàng để buôn thuốc phiện lậu, thằng kia mở cửa hàng ảnh để buôn giấy bạc giả, thằng nọ làm thông ngôn ký lục nhưng phất về nghề chứa gái, thì tôi làm nghề cu li cũng còn đèo thêm một nghề khác nữa: nghề ma cô.
‘‘Buôn bán bằng nước bọt, nghề này nào có mất công phu vốn liếng gì. Đêm, cầm cái tay xe đón mấy thằng mất dạy mà tán phiệu rồi dắt chúng nó đi, thế là mình ăn cả vào lưng gái lẫn lưng chúng nó. Mỗi đồng bạc ăn hai hào hoa hồng về tiền đĩ, dắt được cảnh sộp, còn thêm bổng ngoại ngoài khoản tiền xe. Một đêm vớ được hai đám là mình đã phè phưỡn say sưa, rượu nốc hàng chai, phiện hút thả cửa...
‘‘Đã ba bốn năm nay, tôi không mấy khi đi kéo ngày nữa. Kéo ngày rét mướt, nắng nôi vất vả. Đêm thì không khó nhọc mấy, mà kiếm ăn cũng dễ; trừ tiền ăn tiêu thuế má, mỗi ngày cũng còn được dăm ba hào, đồng bạc để ra".
... Sao những người khác không làm theo ông? Cái cách kiếm tiền như ông nói, xem ra cũng chẳng khó khăn gì.
- Phải, nghe nói thì dễ, nhưng có làm mới biết là khó. Cái nghề ăn sương ấy nó cũng nhiều cách, nhiều khóe. Không những phải láu phải bịp, lại còn phải biết nhiều sòng nhiều thổ, chỗ nào có những tay chơi sộp, chỗ nào có những bò lạc mới ở đâu về. Biết đến chốn đến nơi mười mươi đấy, lại còn phải biết cách lừa dắt dụ dỗ nó đi. Đứa không nghe, phải dọa nạt cho nó phải nghe; đứa khát kê 1 phải lấy chuyện kê ra dử nó.
‘‘Những con gái hàng phố hư thân mất nết, phải khấu bộp nó thế nào; những bọn buôn thúng bán mẹt, phải thả ngón với chúng nó thế nào; những con gái nhà quê phải thuốc chúng nó thế nào; mỗi cách một khó.
‘‘Biết được hết những cái khó đó, ít cũng phải là hạng cáo già, già đời đi làm xe.
‘‘Đây, tôi kể một chuyện năm trước cho bác nghe, bác mới rõ.
‘‘Một người con gái ở phố nọ hay trốn nhà đi với nhân tình đến một săm kia từ quãng bảy giờ tối đến chín giờ. Vì một lần theo dõi cô ta từ cửa săm đi, rồi lại kéo cô ta từ giữa phố về nhà, tôi mới dò biết đích cả tên và chỗ ở. Lần sau, tôi dò luôn tên và nhà người nhân tình cô ta mà cũng làm theo cách thế. Biết rõ cả hai người rồi, từ đấy cứ buổi tối là tôi dắt xe lảng vảng qua phố đó. Bắp chợp được nhiều lần họ đi ngang về tắt với nhau như thế, một hôm, tôi bày kế với cai săm đánh nhựa cô ta. Xếp đặt đâu đấy rồi, tôi kéo xe đi, lại lảng vảng ở đầu phố cô ta ở. Chập tối, cô ta đi đâu không rõ, tôi cũng dắt xe theo đi. Vừa ngoắt sang phố khác, tôi đi sát gần ngay vào bờ hè, gọi tên cô ta ra, rồi cứ làm bộ thân thuộc, nói:
‘‘Thưa cô, cậu Z. đang đợi cô ở săm phố Y. có nhờ cháu đưa thằng bé kia đến nói với cô. Hôm nay cậu ấy có việc vội, không kịp cho tin trước để cô biết. Mời cô lên xe, cháu kéo đến’.
‘‘Tôi bịa chuyện ra như thế mà đúng vì mấy lần kéo cho cô ta hay cậu ta hai xe đi kèm, họ hẹn hò với nhau thế nào, tôi nghe lóng được hết. Nào những: viết mạo chữ đàn bà, mỗi lúc một khác; giả làm thơ chị em bạn mời đến nhà chơi; trong thư bất cứ viết bằng giấy gì, bao giờ cũng in dấu cái đầu xe điếu vào cho khỏi nghi ngờ, mỗi lần thuê riêng một đứa, bất cứ thằng bé hay con bé cầm thư đến giả làm con sen hay thằng nhỏ, cho người nhà khỏi nghi.
‘‘Lúc mới nghe tôi nói, cô ta còn như lấy làm lạ ra ý ngờ. Lập tức tôi gọi ngay thằng bé con đang đi hè bên kia, bảo nó đưa thư ra, rồi tôi nói luôn, không để cô ta hỏi: ‘‘Cháu không dám nói dối, cậu Z. có dặn cháu nếu cô chưa tin thì cứ nói: cậu ở phố Y. là cô hiểu ngay’.
... Thằng bé ấy, là con nhà ai?
- ‘‘Chính con cai săm, nó mới chừng 11, 12 tuổi. Tôi bảo nó đi theo xe tôi, hễ tôi bảo làm gì thì làm, mà cô kia có hỏi thì chỉ nói: ‘Cậu Z. thuê con một hào bảo đưa giấy này đến cho cô; con lạ con không dám lại, cậu ấy lại bảo con đi theo bác xe này’.
‘‘Cô ta cầm lấy giấy, hỏi nó, nó cũng cứ câu thuộc lòng ấy trả lời. Đến một góc đèn sáng, trông trước trông sau không có ai, cô ta giở giấy ra xem, xem đi xem lại đến ba bốn lần, rồi tần ngần bỏ giấy vào túi.
‘‘Tôi lại nói: ‘Cô lên xe cháu kéo, cậu ấy dặn mời cô đến ngay’.
‘‘Ngập ngừng một lúc, cô ta bước lên xe tôi, lại cho thằng bé con một hào, bảo nó cứ về, rồi giục xe tôi chạy.
‘‘Kéo thẳng vào tận sân săm, tôi đưa cô ta lên gác, gọi bồi. Thằng bồi mở cửa một phòng đã thắp sẵn đèn điện, lại có hai chai nước chanh, một chai uống dở, một chai còn nguyên với hai cái cốc trên bàn; ở mắc áo lại có chiếc áo tây; ở trên lò sưởi, một chiếc quạt điện đương vù vù quạt.
‘‘Thằng bồi săm nhanh miệng vì chủ nó là cai săm đã dặn trước: nó vừa nói vừa kéo ghế mời cô ta ngồi: ‘Cậu ấy xuống nhà ra sau, mời cô ngồi chờ đây, tôi xuống gọi’. Cô ta như có ý nghi ngại, sau chừng muốn đỡ ngượng, vờ sờ sờ trong túi, rồi chắc bấy giờ mới nhớ còn phải trả tiền xe tôi. Đưa cho tôi đồng ván, cô ta bảo tôi ra ngoài. Tôi cứ ngồi lì ở cửa buồng, nói còn chờ cậu Z. lên cho thêm tiền theo như lời cậu hẹn.
‘‘Một lúc, một người mặc tây rất bảnh bước vào buồng cô ta. Thằng ấy chính là thằng cai săm đội lốt công tử. Nó vào, tôi cũng vào theo nó. Cô ta thấy người lạ, vội đứng lên, hoảng hốt toan chạy ra. Nhưng cái cửa, lúc vào, thằng cai săm đã vặn đi một vòng khóa. Nó vừa nói vừa cười, nhe hàm răng trắng nhởn có hai chiếc răng vàng ở cửa.
‘‘Đừng, cô cứ ngồi xuống, chỗ quen biết cả. Cụ Ký với anh Tham nhà mạnh khỏe chứ? Hôm nọ xuôi Nam tôi cũng gặp cụ bà’. Những câu nói khấu bộp ấy, chính tôi mớm cho nó vì tôi đi dò hỏi ra nhưng bấy giờ tôi cứ giả vờ nằng nặc đòi tiền, như không dính gì vào chuyện ấy cả.
‘‘Làm mặt sộp, cai săm vứt cho tôi đồng bạc, mở cửa, bảo tôi ra. Rồi nó lại còn bảo tôi hãy đứng lại, hỏi vờ: ‘Mày đã biết rõ nhà cô này rồi chứ?’ Tôi cũng đáp: ‘Vâng, tôi đã biết rõ’. Nó bảo: ‘Thôi, thế được, cho phép mày ra’.
‘‘Tôi ra khỏi thằng cai săm đóng cửa lại, rồi chẳng biết chập tối hôm ấy, nó giở những trò trống gì. Tôi chỉ biết lúc bước ra, tôi nghe rõ tách tách hai vòng khóa.
‘‘Sáng hôm sau tôi đến hỏi nó, nó nói mọi việc đã cần câu cả. Rồi tôi với nó tính phân phì, cứ mỗi bận có khách mà gọi được cô kia thì cứ trừ tiền buồng tiền gái, mỗi đồng bạc, tôi ăn ba, nó ăn ba, còn tiền khách cho riêng ai, không kể.
‘‘Đụng vào cảnh sộp này phải là những tay sừng kền cả. Một tháng vài ba món hẩu như thế là mình nê".
... Nhưng ngộ người con gái ấy nó không đi?
- ‘‘Không đi, có mà tù! Cai săm nó vờ làm công tử vài lần rồi nó mới nói rõ nó ra. Nó đã bộp nó biết cả cha mẹ cửa nhà, hễ không nghe thì nó dọa rồi nó làm vỡ chuyện. Cái nghề con gái hàng phố, con nhà danh giá, con ông kia, em ông nọ, lại càng phải giữ. Muốn giữ cho khỏi tai tiếng thì phải nghe nó. Bước bước này, rồi bước bước nữa. Bước đâu khó, bước thứ hai đã dễ, đến bước thứ ba... Khôn ba năm, dại một giờ. Có khó gì, chỉ quá trớn tí nữa, rẽ cái đầu ngôi lệch, đánh bộ răng trắng, kẻ đôi lông mày, gí một nốt ruồi, mặc cái cô sê là đâm giăng hồ giăng há, có thiên lôi giữ.
‘‘Đấy mới là cảnh con gái hàng phố, còn bắt nhựa bọn bán tài lồng ộp, bọn trứng ung, thịt ôi ở chợ, mỗi đứa mỗi cách, mỗi cách một khó, không thể nói ra được cả, còn phải liệu mà tùy.
‘‘Có một cách này nữa kể cũng dễ kiếm xu. Kéo sáng sớm hay kéo đêm, cứ thấy con nào tử tế phất phơ, mình có ý nghi, là lúc về đến phố, xin thêm bừa; nó không cho thì làm ầm lên, bảo đi với nhân tình ở nhà này ra, đi với công tử ở săm kia ra, bắt nọn như thế là các cô ả phải lời thêm xu, sợ mang tiếng bêu với hàng phố.
‘‘Đã mấy năm nay, ngoài thì mượn tiếng làm xe, mà trong, tôi chỉ ăn bám vào lưng gái, đĩ. Đứa nào bỏ nhà bỏ cửa, đứa nào bị bắt giam lục xì cũng thây xác chúng nó; mình chỉ biết có một điều là: Xu! Mà chúng nó cũng chẳng thiệt thòi gì, đánh đĩ thì kiếm tiền, động đĩ thì chơi ngang, có bị đội con gái nó tóm được thì đã có nhân tình hay mấy thằng ma cô xé giấy hộ. Đời bây giờ chỉ tiền, trinh tiết mà làm gì, nhân nghĩa mà làm gì, tiền! Chỉ có tiền là hơn cả.
‘‘Tôi như người ta, đáng nhẽ bây giờ tôi đã phú quý. Nhưng mắc cái đâm nghiện vào nên cũng khổ, có hôm không gặp món, phải nuốt cả xái xảm, xái tro.
‘‘Nhưng khổ cái kiếm ăn về nghề ấy, không nghiện cũng không làm được trò gì.
‘‘Đây, tôi kể cho mà nghe cái đoạn trường lúc tôi mới mắc nghiện..."
--------------------------------
1 Kê nghĩa là tiền. Tiếng lóng của tụi Càn Long.
Chương XVIII
Món canh đen của mẹ cai đen
Quả thật mãi đển hôm ấy tôi mới biết... ra thuốc phiện nó vật người ta cũng mạnh.
‘‘Buổi tối cắm đầm 1 ở đường La ga Hàng cỏ, tôi còn đang ngồi nói chuyện dông dài với mấy anh em. Bỗng tôi thấy lạnh toát cả mình, rồi mồ hôi đổ ra, xương thịt, chân tay thấy nhức buồn như dòi nhúc. Tôi ngáp. Trước còn ngáp vặt từng cái một, sau ngáp hàng hồi, mỏi cả quai hàm, nước mắt nước mũi đổ ra, lau xỉ ướt cả hai vạt áo mà không hết.
‘‘Lúc mới, tôi cũng cố ngồi chờ để kiếm lấy một chuyến. Nhưng ngáp vặt được chừng một chốc thì thấy người bủn rủn, hai con mắt đổ đóm lên.
‘‘Mấy đứa cùng cắm một chỗ với tôi, vẫn tưởng tôi trúng phong. Sau, có một thằng khác kéo qua, thấy thế chỉ đứng cười, rồi lại còn nói bông: Thôi, cứ lại lạy sống con mẹ Cai Đen ở Cửa Nam là khỏi hết. Bông đùa chán, thằng ôn vật ấy mới bảo tôi đói nghiện. Bụng tôi cho nó nói có lẽ đúng, nhưng tôi vẫn chưa chịu, còn lấy cái bao diêm khoét lỗ, cố kéo cho được một hơi thuốc lào.
‘‘Điếu thuốc ấy, tôi kéo riết một hơi cũng chẳng thấm vào đâu, người lại càng lảo đảo. Lúc ấy tôi mới chịu, nhưng mới có bảy xu trong túi, cũng không biết làm thế nào. Tôi kéo xe đi, cũng chưa định đi đâu. Sau nhớ chỗ mấy thằng chủ chứa nó vẫn cho tôi hút ghẹ mọi khi, tôi đến ngay nhà thằng Hai Pháo.
‘‘Lần này không như những bận trước, thằng Pháo bảo tôi muốn hút phải bỏ ra một hào. Tôi đưa cả bảy xu, nhất định nó không nghe. Tôi chỉ xin hút xái cũ nó cũng không cho, rồi tắt phụt ngọn đèn đi, thu xếp tiêm móc đút ngay xuống chiếu.
‘‘Mọi tối tôi đến gọi con em nhà nó đi khách, nó vẫn mời tôi hút dăm ba điếu. Tôi chối, nó cứ khăng khăng mời nài mà bảo: làm vài điếu, thức đêm không mệt; hút ít đã nghiện được thế nào.
Tôi nghe nó, hút vào. Quả thật thức đêm có dai, lại không ngại kéo. Tôi mắc nghiện vì thằng Hai Pháo. Hôm ấy đến xin nó cho hút, vẫn tưởng như mọi bận, nó cũng mời chào, không ngờ thiếu có ba xu mà nó đuổi tôi như đuổi tà, tôi làm lợi cho nó nhiều, nó xử tệ với tôi, thật quân đểu.
‘‘Bỏ nhà Hai Pháo, tôi phải kéo đến phố Cửa Nam, hỏi thăm nhà con mẹ Cai Đen. Mấy anh em cu li ngồi ở hè đường trỏ một cái nhà con, ngoài có cửa hàng bán nước.
‘‘Nghe thằng ở Hàng Cỏ nói, tôi vẫn chắc nhà ấy có bàn đèn cho cu li hút. Thì ra không phải, họ chỉ bán nước thuốc cho những người nghiện ít tiền.
‘‘Tôi hỏi giá rồi bỏ năm xu ra đưa cho mẹ Cai Đen. Bác có biết nó đưa cho tôi cái gì không? Một chiếc bát đàn trong có một thứ nước đen như nước gạo rang, nó gọi là nước thuốc.
‘‘Tôi cầm lên nhấp, thấy đắng như bọ nẹt. Nhưng ngửi thấy hơi thuốc phiện trong bát, tôi đã tỉnh, nên nốc thẳng một hơi. Làm liều thuốc nước ấy rồi, tôi tráng miệng một trinh chè tươi. Một lúc, quả nhiên thấy thứ nước ấy nó dẫn đi khắp người, ngấm đến đâu, khỏi đau buồn đến đấy. Rồi người nóng bừng lên, mình lại trông thấy hai mắt mình đỏ ngầu như mắt chó dại. Bấy giờ tôi như thằng điên cuồng chỉ muốn cởi trần ra mà chạy, hay đánh đá ai cho đỡ ngứa chân tay.
‘‘Phải như thế một chốc rồi sức trong mình lại hồi. Đêm ấy tôi thấy tôi cũng kéo khỏe, thức dai không kém gì những đêm có thuốc hút. Tuy đúng nghiện nhưng đến hôm sau, ruột gan xót lắm. Người thì khô mà nóng, giá có đứa nào đánh cái diêm cầm gí, mình tưởng cả người đến cháy bùng lên.
‘‘Sau, đi lại nhà mẹ Cai Đen nhiều lần tôi mới biết cái nồi bọng nước của nó nấu mất nhiều công phu lắm. Những giẻ lau khay đèn diện tẩu, những giẻ quấn chân điện, những mặt tẩu đã vỡ giập vụn ra từng mảnh, những xe tẩu hở giập người ta đã quẳng đi không hút đem chẻ nhỏ ra như tăm, những hộp đồng hến thuốc vét chưa sạch lòng..., tất cả chừng ấy thứ, mẹ Cai Đen đem bỏ cả vào một cái nồi đất tướng, đổ nước ninh lên. Ninh chưa sôi được một lần, nó đã bắc ra, sợ cạn.
‘‘Tôi còn quên chưa nói, pha vào cái nồi bọng đủ cả mấy thứ: kim, mộc, thạch, thủy, hỏa ấy, mẹ Cai Đen còn cho thêm một món gia vị: Xái xảm! Cái xái củ tỉ đen như than, vụn như cám ấy, nó rón năm đầu ngón tay bốc bỏ vào nồi một cách dè dặt như mấy bà Hàng Bạc làm cỗ bát, bày vậy. Có trông thấy, rồi ngồi nghĩ mới ghê người. Ngoài những cái trông được, còn bao nhiêu cái mình không nom thấy như: dầu thắp, nước dãi, mồ hôi.
‘‘Bắc cái nồi bọng ra khỏi bếp rồi, mẹ Cai Đen gạn nước ra, cầm cái bơ sắt tây hớt hết những váng bẩn đóng trên mặt nước. Cái cặn ở đáy nồi, nó vét bán làm thuốc ghẻ; vỏ hộp thuốc, nó bán cho hàng đồng nát, cái nước nấu trăm thức bà dằn ấy nó bán cho cu li nghiện, mỗi bát năm xu.
‘‘Mẹ Cai Đen! Tên ấy, không biết bố mẹ nó hay ai đặt cho. Người nó đã đen, nó lại bán canh đen, tên nó là Cai Đen thì đúng quá!
‘‘Cu li xe nghiện mà thiếu thuốc hay chưa kịp hút, anh nào cũng phải đến hàng nó. Nổi cơn nghiện mà chưa được một bát thì ông vải hiện lên đấy mà có gọi kéo, cũng không buồn đi".
... Cu li cu leo như mình mà đã trót mắc nghiện, tôi cứ tưởng mỗi ngày làm một bát như thế, vừa đỡ tốn, lại vừa đỡ mất ngày giờ.
- Uống vào mà được yên lành thì còn nói làm gì. Lắm đứa đã uống trừ mà sau chẳng chết về chứng nọ cũng chết về bệnh kia, sợ nhất là bệnh táo rồi lại đi ra máu. Ăn thứ canh đen ấy vào rồi sau bị bệnh tiện huyết thì có Trời cứu. Mà lúc đã nghiện nó thì có hút đến hàng lạng một lúc cũng không đủ, vì hút chỉ bắt được có khói, còn uống lại khác, nó ngấm vào đến tận ruột non ruột già. Người nghiện nước ấy, lâu dần nước da không sạm mà đen đi, hai mắt trũng vào, cổ thì ngẳng ra, ăn không được, ngủ không được, đến lúc đi ra máu loãng như nước vỏ nâu là... về, về với ông bà ông vải. Hút thuốc phiện cũng có hại, nhưng nó hại ở phổi, lúc giở về già nó chỉ có ho thôi. Cứ trông ngay tôi đây, nghiện hút đã hơn bốn năm trời, người nom tuy gầy nhưng vẫn khỏe mạnh, nhất là thức dai, không thức dai, làm nổi thế nào được cái nghề đi đêm về tối...
Anh Tư nói rồi lại hút, rồi lại nói, tuy anh ta phàn nàn nghiện ngập đâm túng bấn, nhưng vẫn khen thuốc phiện có nhiều công dụng hay.
Những câu khen ngợi ả phù dung, tôi đã nghe nói nhiều lần ở cửa miệng những người tôi gặp trước anh Tư rồi. Nên từ lúc ấy tôi cũng chẳng buồn để ý đến những lời anh tán tụng dông dài, cứ để mặc anh ta nói.
Ba ngày ngoài bãi Cơ Xá, tính đến hôm nay, tôi chỉ còn được ở với anh Tư nửa buổi nữa thôi.
Nhưng chiếc thìa khóa của nghề xe kéo tôi đã nắm được ở trong tay rồi.
Mà chính anh Tư, người chủ trọ ba hôm của tôi, đã vô tình đánh rơi chiếc thìa khóa ấy.
--------------------------------
1 Cắm đầm, cắm tây: tiếng của cu li xe thường nói những lúc đỗ xe đâm càng vào cửa những nhà Tây để chờ chuyến.
Chương XIX
Tôi không thọc gậy
Đây, tôi lại nhắc lại:
Chắc đã có lần ông can bạn:
- Thôi! Dây làm gì với quân cu li xe ấy!
Tôi cũng xin thú thật đã có lần tôi bảo với bạn:
- Quân cu li cu leo ấy, cãi nhau với chúng làm gì cho rỗi hơi!
Tôi với ông, chúng ta cùng chung một óc: khinh bỉ cái hạng người kéo người.
Thật ra, họ có đáng khinh không? Tôi với ông, tôi muốn hôm nay chúng ta cùng nghĩ lại.
Bây giờ, phỏng thử có một người hỏi:
- Ở xã hội An Nam mà có hạng người kéo người là lỗi tại ai?
Đấy, mời ông trả lời.
Nếu ông đã cạn suy, tôi dám chắc mười mươi ông phải nói thật rằng:
- Lỗi tại xã hội.
Xã hội, theo nghĩa hẹp của nó, là hết thảy những người cùng chung một cội rễ, cùng sống chung dưới một chế độ, mà trong đó, gồm có cả ông với tôi.
Phải, các ông với tôi, nghĩa là hết thảy chúng ta đều có lỗi.
Hạ một người anh em hèn yếu từ cái chỗ thằng người xuống đến chỗ con ngựa, đưa hai cái tay gỗ cho anh em rồi bảo: "Tao ngồi lên cho mày kéo" tức là mình bảo anh em: "Mày không phải là người".
Bị người một giống khinh thị một cách bất công rồi, người phu xe có cần gì phải tự trọng?
Chúng ta cướp nhân phẩm của anh em mà chúng ta không biết. Anh em làm những việc không có nhân cách, chúng ta còn khinh trách gì anh em?
Tôi nhiều lần đọc báo thấy đăng những việc: người phu xe nọ bắt được ngoài đường cái ví bạc đã đem ngay đến bóp trình; người phu xe kia gặp người đàn bà đẻ đường đã cởi áo ra đùm bọc lấy đứa bé lọt lòng, rồi đỡ người sản phụ lên xe, kéo về đến nơi đến chốn.
Nhà báo khen: Những tấm lòng vàng trong manh áo rách.
Phu xe, nào phải đâu cái hạng không có tấm lòng vàng?
Người cu li xe này kéo mình, vừa chạy vừa đánh bậy trước mặt mình; người cu li kia đứng giữa đường thay quần hay vạch quần tiểu tiện trước mặt mình là tại mình bảo họ: cứ tiểu tiện, cứ trung tiện.
Xã hội thử đem cái nhân phẩm trao trả lại họ, nghĩa là lôi họ từ chỗ con ngựa lên đến chỗ thằng người, rồi xã hội xem!
Tôi dám nói bạo một câu rằng: từ xưa đến nay bao nhiêu những chuyện tầm bậy mà những cu li xe kéo đã làm, một phần lớn là lỗi ở bọn trung lưu thượng lưu trí thức mình. Ngồi lên lưng người ta mà: "Ếp, nhong nhong!" bảo người ta không đi bằng bốn chân sao được?
Người để người kéo người là loài người ôm chung một cái nhục.
Con ngựa kéo xe vì Trời sinh ra nó bốn cẳng.
Thằng người không làm cái việc của con ngựa vì Trời cho thằng người có hai chân.
Bởi thế, tôi nói: người để người kéo người là người tự ôm lấy một cái nhục chung.
Nếu chẳng coi là một cái nhục thì hội Nhân quyền đã chẳng can thiệp vào câu chuyện xe kéo ở cuộc đấu xảo thuộc địa Vincennes, mà ngót bốn chục cái đồ "thổ sản của Đông Dương" đã chẳng đến nỗi phải bỏ chỏng gọng trước con mắt người vạn quốc.
Ngay lúc mới được tin này, lòng cảm động đã bảo tôi biết kính phục người Pháp, nhất là hội Nhân quyền Pháp.
Chẳng phân biệt màu da với nòi giống, người Pháp đã che cái nhục cho dân An Nam.
Người thượng quốc còn biết lấy việc người kéo người làm ngượng mắt, cố bưng cái nhục cho mình.
Còn mình?
Cổ cứ cao, mặt cứ vênh, ngồi xe còn lấy dáng lấy điệu, coi việc nhục nhằn ấy là thường, không ai chịu để tâm suy xét.
Ông Phi Bằng, viết một bài nói về vấn đề xe kéo, có câu sau này đăng trong báo Trung Lập:
"Ở đời, người ta hay thận trọng những việc bao la to tát, cần nhắc từng li từng tí mà hay khinh suất những việc nhỏ nhen, không thèm để ý đến có biết đâu rằng những việc vụn vặt ấy có ảnh hưởng lớn cho ta, cho xứ sở và cả đến nòi giống của chúng ta".
Lại còn câu sau này cũng nói về chuyện xe kéo đăng trong Pháp Việt tạp chí của ông E. Babut:
"Có nên mong cho nghề ấy mất hẳn?"
Rồi ông Phi Bằng lại viết:
"Nếu muốn bỏ xe kéo đi thì ít nào cũng phải kiếm chỗ làm trước cho mấy ngàn dần ngựa người kia mới đặng".
Mà trong Pháp Việt tạp chí, ông Babut cũng viết:
"Khi nước ta được giàu có hơn, chắc người ta không còn thấy người nào chịu làm cái nghề ấy nữa. Nhưng tiếc rằng chúng ta chưa đến thời kỳ đó; nghề xe kéo là một nghề kiếm gạo rất cần ngày nay". Kiếm gạo!
Hiện nay ở Hà Nội có tới ngàn rưởi người chỉ vì bát gạo mà làm cái nghề kéo người.
Bất cứ trời rét hay trời nóng, đang mưa như trút nước hay đang nắng như hun trời, đút đầu qua hai cái càng gỗ, anh em phu xe phải thúc tay co vó, chạy bở hơi tai, mình mẩy nhễ nhại mồ hôi, áo quần ướt như dúng nước.
Họ khó nhọc như thế để kiếm cái gì? - Năm ba xu, một hào, một cuốc. Vừa đúng số tiền để mua ít cơm đút miệng, cái thứ cơm thổi bằng gạo hẩm trộn với ít nước hàng.
Ăn để mà sống, ta không cần nói đến cái ăn!
Nhưng sống nào đã được yên? Họ còn phải nghe những lời thô bỉ của người ngồi xe chửi rõ vào lỗ tai, chịu những cái dùi khui của các ông cảnh sát, những cái càng xe bắt ốc của cai xe đánh đập vào mình là khác.
Thế nghĩa là ăn để mà sống, sống để co chân mà chạy, chạy cho tiêu để lại ăn.
Muốn giảm bớt những nỗi khổ trong cái sống kéo co của nghề xe kéo, gần đây, đã có ông bàn:
"Lệ đi xe đôi, nên cấm".
Một ông khác, trông nghề xe kéo ở một mặt khác, muốn cho anh em cu li lúc nào cũng đắt khách lên tiếng:
"Không nên cấm đi xe đôi".
Nói chuyện xe kéo, hôm nay còn có tôi.
Tôi thì tôi khác cả hai ông ở chỗ này:
"Nên bỏ đứt nghề xe kéo!"
Nói thế tôi chắc có ông đã sắp lên giọng kẻ cả bảo: cầm gậy thọc vào bánh xe, anh chàng này khéo chỉ được cái đâm pha, tán hão.
Không, tôi không thọc gậy mà tôi cũng không tán hão!
Đây, tôi xin nói tại sao:
Chương XX
Một lời yêu cầu
Chiều hôm qua, lang thang trong phố, tôi chợt đi đến đầu Hàng Đào.
Một cái màn vải dọc trắng dọc đỏ căng trên bốn chiếc gọng sắt lừ lừ tiến đến tận trước mặt tôi; tôi nhìn lại thì là chiếc xe đạp hòm ba bánh đem bán rong đường những đồ giải khát của hiệu Đầu con Gấu.
Từ phía nhà Nhạc hội đi lại, lướt trên đường nhựa, chiếc xe Đầu Gấu chạy veo veo. Cùng một lúc ấy, chiếc xe đạp hòm ba bánh chở hàng của nhà ảnh Hương ký cũng vừa đến đầu Hàng Đào, người ngồi trên giơ tay ra hiệu cho xe Đầu Gấu. Hai xe cùng hãm, hai người cùng đạp cho xe sát đến gần nhau. Một người xuống xe, bỏ ra ba xu; một người cũng xuống xe, hí hoáy làm một cốc nước đá bào đưa cho người kia uống. Xong việc mua bán, cả hai người lại ngồi lên xe, đạp. Cái Hương ký thì đi về mạn Hàng Trống; cái Đầu Gấu ngược lên phía Hàng Đào.
Đứng trên bờ hè, tôi nhìn hai chiếc xe ấy xa nhau. Rồi cũng ngay lúc ấy, óc tôi nảy ra một mối nghĩ: người ta có thể đem những thứ xe đạp này dùng thay cho xe kéo.
Ba chiếc bánh cao su lắp vào một cái gióng bằng sắt, hai bánh để trước, một bánh để sau. Giữa hai bánh trước, đặt một cái giỏ mây vào, sau lưng giỏ dựng một cái cần cao để làm cọc chống đỡ lấy cái mui; vành sau giỏ lắp một cái tay xe cho người ngồi đạp đằng sau cầm lái.
Đấy, phác qua, chỉ có bấy nhiêu cái.
Bấy nhiêu cái khéo đặt cho tiện mưa tiện nắng, nhà đóng xe đã có thể chế ra được một thứ xe người đạp người.
Tôi chẳng dám nhận công là một nhà sáng kiến, vì thứ xe đạp người ấy, hiện ở Thượng Hải, người ta đã cho đem chạy khắp các phố rồi.
Người đạp xe cho người, coi nó lịch sự mà có vẻ nhân đạo hơn vì người đạp cũng được ngồi, không phải co hai chân, cắm cổ cắm đầu mà chạy.
Ông có tiền lại vội việc, ông ngồi lên cho tôi đạp. Tôi không tiền, tôi đạp hộ cho ông chóng đến chốn đến nơi. Trên chiếc xe ấy, có một cái trông không trái mắt là: ông ngồi, tôi cũng ngồi. Phải, tôi với ông, chúng ta cùng là người. Ông ung dung ngồi trước, không mất công khó nhọc, vì ông có tiền thuê tôi; tôi ngồi sau, vì lấy tiền thuê của ông, tôi phải lên gối xuống gối. Có phải đổ mồ hôi vì đạp, tôi cũng bằng lòng vì tôi đã tự nguyện làm việc ấy. Mà bỏ tiền thuê tôi làm việc ấy, ông cũng không có quyền được gọi tôi là người ngựa vì nghề của tôi là đạp người chứ không phải kéo người.
Bàn chuyện bỏ xe kéo, tôi chắc đã sắp có ông chủ xe ghé vào tai tôi mà bảo: Anh định để chết ai?
Đối với những người coi đồng tiền hơn ruột thịt ấy, tôi không dám đáp nửa lời. Đây, tôi chỉ xin nói với những ai có tầm con mắt rộng hơn, những người có tâm giải quyết các vấn đề xã hội.
Nghề xe kéo sản xuất ở nước ta mới hơn nửa thế kỷ nay. Trước khi người Pháp sang đây, đường sá chưa tiện giao thông, ta chỉ có cách đi cáng, đi võng, hai người phải cáng, võng một người. Đến ngày các đường trong xứ đã mở rộng ra, và sửa lại cho bằng phẳng hơn, cái xe kéo men từ đất tổ nó là nước Nhật qua Tàu, vượt thang sang đây, rồi khoác cái lốt xe bọ ngựa mà in vết bánh ở khắp đường, khắp lối. Trong năm mươi năm trời, từ cái hình bọ ngựa, chiếc xe kéo mới tiến lên được đến chỗ có hai vành bánh cao su bom hơi. Nó tiến chậm như thế vì nó chưa chạy được trước người, vẫn phải lẽo đẽo theo sau người chạy.
Cuộc tiến bộ của nó, có lẽ chỉ đến được bước ấy, vì trong vòng mười năm nay, nghề xe kéo không có chút gì thay đổi, chiếc xe cao su vẫn chỉ là chiếc xe cao su thôi.
Ở thời đại cạnh tranh tiến hóa này, cái gì đã không tiến, là rồi có ngày phải sa vào vòng đào thải.
Nghề xe kéo, trước sau rồi cũng đến ngày ấy.
Ta nên để nó tự giết nó, hay ta giết trước nó đi cho rồi?
Đối với cái nghề có nhục đến quốc thể, chẳng nên cho nó sống dằng dai... Giết chết nó đi mà phải giết ngay vì nó sống ngày nào còn để nhục cho mình ngày ấy.
Bỏ xe kéo người lấy xe đạp người thay vào, ta vẫn để công việc cho anh em phu xe đâu có đấy. Ngàn rưởi người ở Hà Nội hàng ngày sống về ngàn rưởi chiếc xe kéo hai bánh, thì ngàn rưởi chiếc xe đạp ba bánh, hàng ngày cũng vẫn nuôi sống được cả ngàn rưởi người.
Xin ra lệ cấm đi xe đôi, xin bỏ lệ cấm đi xe đôi, các ông hội viên thành phố Hà Nội, Hải Phòng đừng mất công yêu cầu những việc... loanh quanh ấy.
Đã làm, các ông hãy làm cho ra việc, việc xin bỏ xe kéo nó chẳng phải việc... mò trăng đáy nước hay khều sao trên trời.
Nói thế, không phải tôi dám thúc các ông hội viên yêu cầu với hội đồng thành phố lập tức bỏ xe kéo ngay. Không có chiếc gậy tiên, hội đồng làm gì có tài mà gõ cho mấy ngàn chiếc xe kéo thay được hình luôn trong một lúc.
Chúng tôi chỉ xin bàn với các ông một việc: yêu câu với quan Đốc lý ra lệnh cho Sở Cảnh sát lần lượt đi khám các xưởng chứa xe trong thành phố xem chiếc nào đã hư hỏng, bắt bóc "số tai" ra, không cho phép sửa chữa nữa; những xe ấy không được cho thuê chở người, chỉ được phép cho thuê để tải đồ. Chủ xe nào muốn có thêm xe chở người để kiếm lợi, phải đóng xe mới theo kiểu xe đạp ba bánh đúng với mẫu của hội đồng thành phố đặt ra; mẫu ấy phải đơn giản để số tiền chủ xe bỏ ra đóng xe kiểu mới cũng sầm si với số tiền trước đã tiêu dùng vào việc đóng xe kiểu cũ.
Cách đó cũng chẳng có gì là khó khăn, mới lạ.
Nó cũng như điều lệ đang thi hành ở thành phố: nhà tranh hay nhà đã cũ nát không được phép sửa chữa, chủ nhà phải phá đi làm nhà mới đúng với mẫu của Sở Vệ sinh thành phố đã ký nhận cho.
Chỉ làm như thế trong ba năm, tôi dám chắc ở thành phố không còn tìm đâu được một chiếc xe kéo nữa, mà trong thời gian ấy, anh em phu xe vẫn ngày ngày kiếm được đủ ăn hai bữa, chủ xe vẫn kiếm được lợi, thành phố cũng vẫn thu được thuế xe.
Đem vùi dần nghề xe kéo, ta vẫn gây được đất sống cho anh em phu xe; anh em sống mà không mất nhân phẩm vì nghề, không phải lao lực vì nghề, hai chân tuy phải làm luôn, nhưng việc làm ấy không phải việc làm của con trâu, con ngựa.
Một lời yêu cầu không để thiệt cho ai, lại có thể nâng cao được cả phần hồn và phần xác của một hạng người, lời yêu cầu ấy, có khi nào bị bỏ.
Cái khóa rào ngăn bọn ngựa người, từ trước đến nay vẫn có một chiếc thìa khóa.
Chiếc tôi bắt được ở nhà Tư S. ngoài bãi Cơ Xá Nam, chính là chiếc thìa khóa đó.
Nó đã cũ.
Nhưng cũ chưa hẳn là vô dụng nên hôm nay tôi cứ đưa nó cho các ông hội viên ta.
~
Hà Nội, Juin, 1932
➖➖➖