Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 105 đăng ngày 2021-10-16
***
Quê Mẹ (Quê Mẹ, Bến Nứa, Chú tôi)
Tác giả: Thanh Tịnh
Tựa (Thạch Lam viết lời tựa)
Quê mẹ
Bến nứa
Chú tôi

 

Tựa

Thanh Tịnh có lẽ là nhà văn đầu tiên ở miền Trung đã trình bày các mối dây liên lạc nơi ông với đồng nội quê hương, những dây liên lạc nhẹ nhàng như tơ đồng ngày thu, nhưng không vì thế mà kém phần vương vít và quyến luyến. Gió mùa của cả một vùng làng mạc và đồng ruộng ấy, chúng ta thấy lướt qua trong tác phẩm của ông, trong những truyện ngắn mà hầu hết khung cảnh là lũy tre của một xóm nhỏ, hoặc dòng sông con chẩy qua ruộng lúa xanh tươi. Cốt truyện chỉ là những việc xảy ra trong đời thường ngày của các nhân vật vẫn sống trong các làng, bến rải rác theo dọc sông, hoặc đã rời bỏ các nơi ấy đi làm ăn phương xa, nhưng mà trong lòng lúc nào cũng tưởng nhớ cái Tình Quê-hương đằm thắm.

Làng Mỹ-lý (một dặm đẹp) có lẽ không phải là một làng có thật trên bản đồ. Nhưng mà lại thật hơn, nếu tôi có thể nói thế, — đầy đủ và hoạt động hơn bất cứ một làng nào. Làng Mỹ-lý có lẽ chỉ là biểu hiệu cho tất cả các làng mạc trong một miền, nhưng cái tài của tác giả đã khiến cho gần gụi và thân mật; chúng ta tưởng đâu như sống đã lâu năm ở trong đó, cùng với người làng tham dự vào các công việc hàng ngày và cùng chia xẻ những nỗi buồn, vui.

Và chúng ta được chứng kiến những công việc rất thôn quê và mộc mạc. Một ngày gặt lúa, một buổi ra làng, hay một chuyến đò dọc từ chợ làng Thiện đến đầu làng Viễn-trình. Những cảm tình cũng giản dị như cuộc đời sống ấy, và chỉ đầy đủ hương vị trong lũy tre hay trên đồng ruộng ấy mà thôi. Có lẽ, linh hồn người ở đấy còn nhiều màu sắc khác, trong cuộc sống còn nhiều bi kịch khác, nhưng mà tác giả chỉ tả có cái vẻ êm ả và nên thơ. Tâm hồn ưa thích cái gì vừa đẹp đẽ, vừa nhè nhẹ, tác giả không lách đi sâu, nhưng dừng lại ở một làn gió, ở một cái thoảng hương thơm của hoa cỏ bốn mùa. Chiều trong Quê Mẹ thật dịu dàng, và bóng trăng trong Quê Bạn cũng hiền lành êm ả. Tình quê hương của cô Thảo là một cái tình man mác và An-nam lắm. Cũng như cái tình yêu trung thành và kín đáo của cô Sương, an phận và nhẫn nại ngay từ trước khi yêu. Và trong những tình đó, có cái gì nho nhỏ xinh xinh, một cái gì đáng yêu thương khiến chúng ta cảm động; và chúng ta chú ý lắng nghe cái giọng hò mái đẩy (trong câu truyện hay Tình trong câu hát) ngân dài trên phá Tam-giang giữa cánh đồng bát ngát và dưới « trời một vùng đêm dài không hạn». Đó là tiếng nói của những tâm hồn quê mùa kia, bài ca hát của đất nước một miền đồng ruộng, nhờ tác giả mà nhịp điệu và giọng buồn đến thắm thía chúng ta.

Thanh Tịnh đã muốn làm người mục đồng ngồi dưới bóng tre thổi sáo để ca hát những đám mây và làn gió lướt bay trên cánh đồng, ca hát những vẻ đẹp của đời thôn quê. Ông có đạt được chăng cái ý muốn ấy, và tiếng sáo kia có uyển chuyển du dương không, tôi xin để các bạn đọc phán đoán lấy. Tôi chỉ muốn nói rằng trong lúc các nhà văn ta bắt đầu trở về đất nước để gìn giữ các hương hoa, Thanh Tịnh đã cho chúng ta nghe cái tiếng sáo nhỏ và thanh của ông, khẽ nổi lên lẫn với tiếng hò của bạn gặt trên sông để ca ngợi cái tình và cái thi vị của một vùng.

THẠCH LAM

➖➖➖

 

 

 

QUÊ MẸ

Chiều chiều ra đứng cửa sau

Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.

(CA DAO)

 

Cô Thảo ra lấy chồng đã ba năm. Anh Vận chồng cô hiện làm Hương-thơ ở làng Mỹ-lý. Anh Vận trước kia có theo học chữ quốc ngữ, nhưng đã hai năm thi Yếu-lược không đậu nên anh ta lại thôi. Qua năm sau dân trong xóm bầu anh ta lên làm Hương-thơ trong làng. Ngày nào anh cũng đi nhà này qua nhà khác phát thư, rồi chiều đến lại phải ra tận đình để lấy hòm thư đem lên huyện.

Công việc của anh tuy vất vả, nhưng lương tháng – hay nói cho đúng lương năm – của anh trông ít quá. Làng chỉ trích cho anh ta ba mẫu ruộng và năm đồng bạc để làm tiền lộ phí. Nhưng năm đồng ấy thì không bao giờ anh nhận được. Vì các viên chức việc đã khéo léo trừ với món tiền phải đóng sưu này thuế khác gần hết.

Nhưng ở vùng quê, được một chức nghiệp như thế, anh Vận cũng cho là danh giá lắm. Và bà Lại, mẹ anh Vận, lúc nói chuyện với những người quen, cũng không quên tự hào được một người con ra đảm đương việc làng việc nước.

Cô Thảo ra lấy chồng vốn liếng không có nên không đi buôn bán gì hết. Cả nhà chỉ trông vào sáu mẫu ruộng tranh và ba mẫu ruộng làng để sống năm này tháng khác.

Chiều hôm ấy lúc thoáng thấy bóng chồng đi về đến cổng, cô Thảo liền vội vàng ẵm con ra sân để đón. Thấy anh Vận ra dáng mệt nhọc nên cô ta chưa dám hỏi gì hết. Vào tới sân, anh Vận liền đến ngồi trên cái chõng. Cô Thảo để con ngồi một bên chồng rồi đột ngột chỉ cây thanh-trà bên bờ hè nói khẽ:

- Cây thanh-trà mới đấy mà đã có trái rồi cậu ạ.

Anh Vận để con ngồi trên chân, rồi cúi đầu xuống nhìn mặt con dịu lời đáp:

- Thế à. Cây thanh-trà ấy trông dáng khô khan không ngờ lại giống tốt.

Cô Thảo ghé một bên chồng nói tiếp:

- Cây thanh-trà ấy tôi đem từ bên nhà qua đây. Mới hai năm đã có trái ăn được kể cũng nhanh thật.

Anh Vận như sực nhớ một việc gì, nhìn vợ hỏi vội:

- Tôi nhớ ra rồi. Hôm ấy là ngày giỗ ông bên mợ. Mợ về làng ăn giỗ rồi đem cây thanh-trà ấy qua cho tôi. Tôi cũng quên lúc ấy mợ đã có thằng Lụn chưa?

- Rồi, nhưng nó mới được ba tháng.

- Mà tôi quên giỗ ông nhằm ngày mấy?

Cô Thảo nhìn chồng mỉm cười:

- Được vài ông rể quí như cậu thì ngày giỗ của nhà tôi cũng không khỏi hương tàn bàn lạnh. Giỗ ông nhằm một ngày dễ nhớ nhất mà cậu cũng quên.

Anh Vận như nhớ lại được, gật đầu lia lịa:

- Thôi tôi nhớ được rồi. Giỗ ông vào tiết Trung-thu phải không mợ?

- Không phải, ngày rằm tháng tám.

Anh Vận lớn tiếng cười vang làm cho thằng Lụn cũng phải ngẩng mặt lên nhìn ngơ ngác.

– Rõ ngớ ngẩn như đàn bà. Tiết Trung-thu hay rằm tháng tám có khác gì nhau. Có khác là người hay chữ họ thường gọi tiết Trung-thu, còn người... ít hay chữ thì gọi rằm tháng tám....

Cô Thảo nhìn chồng cười mỉm:

- Người hay chữ với lại người ít hay chữ! Thì cậu cứ nói người dốt với người thông có được không.

Thật ra thì anh Vận cũng có ý nói người hay chữ với người dốt, nhưng lai sợ làm mếch lòng vợ.

Anh Vận nhìn ra trước cổng yên lặng. Thằng Lụn cũng muốn tụt xuống đất đùa với đàn gà con đang đi qua gần đấy. Cô Thảo vào nhà thắp đèn rồi lại trở ra ngồi chỗ cũ. Mảnh trăng trong lúc ấy đã bắt đầu giọi ánh sáng dịu dàng qua hàng tre trước cổng.

Trông thấy ánh trăng, anh Vận quay lại hỏi vợ:

- Hôm nay là mấy rồi mà trăng sáng quá?

- Ngày mười ba.

Anh Vận thả hai chân xuống chõng nhìn vợ ngơ ngác:

- Thế ngày mốt là ngày giỗ ông rồi à? Và ngày mai là ngày mợ phải về làng.

Cô Thảo cúi đầu nhìn xuống đất đáp khẽ:

- Phải.

Anh Vận đưa tay lên gãi đầu:

- Thật tôi vô tình quá. Ngày kỵ đã gần đến mà cũng quên.

Cô Thảo ngồi yên lặng không đáp. Thật ra tối hôm ấy cô muốn xin chồng về làng giỗ ông, nhưng cô không muốn nói thẳng. Cô tự nghĩ nhắc chồng ngày giỗ ở nhà mình là một việc chướng lắm. Thật tự nhiên để cho chồng nhớ lại thì hơn. Nhưng mãi đến chiều cũng không nghe chồng nói gì, nên cô phải mượn đến chuyện cây thanh-trà để nhắc xa xuôi cho chồng nhớ.

Tối hôm ấy, cơm nước xong xuôi, anh Vận liền đến xin mẹ cho vợ về làng ăn giỗ.

Bà Lại nhìn cô Thảo đang ẵm con đứng tựa bên cột bảo khẽ:

- Ừ về thì về. Nhưng bên nhà ngày mai giỗ ai mà tôi cũng quên phắt đi rồi.

- Thưa mẹ, giỗ ông con.

- Thế à.

Nghĩ một lát bà ta nói tiếp:

- Mai mợ chắc phải về làng sớm. Lúc ấy có lẽ tôi cũng chưa dậy. Vậy tối nay mợ ra ngoài vườn cắt một buồng chuối mật – buồng chuối gần bên cái giếng ấy – để về giỗ ông. Năm nay tôi bận việc nhà quá, chắc qua không được. Thôi nhờ trời năm khác.

Nói xong bà Lại lách bàn tay vào túi yếm lấy ra một hào xu rồi đưa cho cô Thảo.

- Thôi cho mợ một hào để đi đò. Và nhớ chớ để em ngồi nhìn xuống mặt nước.

Cô Thảo vội vàng đỡ con xuống, đưa hai tay nhận tiền tỏ ra vẻ sung sướng lắm.

Trước khi đi ngủ anh Vận cũng chạy quanh xóm mượn chỗ này chỗ khác cho cô Thảo thêm bốn hào nữa.

Tối hôm ấy cô Thảo không đi ngủ sớm. Cô đặt con ngủ yên bên chồng xong lại lật đật xách dao ra sau vườn chuối. Loay hoay một lúc lâu cô mới đem được buồng chuối mật vào nhà. Cô đem để vào một góc thật kín vì cô sợ nửa đêm chuột đến khới. Xong rồi cô mới qua bên nhà cô Thị mượn đôi hoa tai vàng và cái nón lá mới. Sắp đặt đâu đó xong xuôi cô mới lên giường nằm ngủ.

Trời tờ mờ sáng cô Thảo đã trở dậy sắm sửa đi về làng. Làng cô ở cách xa làng Mỹ-lý hơn mười lăm cây số. Vì vậy nên mỗi năm cô chỉ được về làng chừng hai ba lượt là nhiều. Xưa kia cô từng qua lại làng Mỹ-lý ngày một để bán gạo, nhưng sau lúc cô ra lấy chồng thì quê nhà đối với cô đã là nơi xa lạ.

Qua những con đường mòn chạy nắp theo bờ ruộng, cô lại nhớ đến quãng đời bán gạo của cô ngày trước. Trong trí cô hiện ra lần lần hình ảnh của cô Thu, cô Nguyệt, cô Hương, những cô bạn mà trước kia cô cho là thân nhất.

Nhưng đời các cô ấy cũng như cô, nghĩa là cũng có chồng, có con và quãng đời làm dâu cũng vất vả, cũng phẳng bằng như nhau hết.

Đi chưa được bốn cây số cô Thảo đã thấy mỏi. Cô tự nhận thấy sức cô yếu hơn trước nhiều lắm. Cô muốn đi đò cho đỡ chân, nhưng sực nhớ đến những món quà cần phải cho em, cô lại gắng gượng đi nhanh hơn trước.

Qua khỏi đầu làng Duyên-hải thì cô Thảo gặp cô Đài, người bạn cùng làng thường chơi với cô ngày trước. Cô Thảo nhờ cô bạn gánh hộ buồng chuối mật và mấy gói bánh mua bên chợ Kỳ-lam. Cô Đài vui vẻ nhận lời ngay. Vào quán nước ở gần đấy nghỉ một chốc, hai cô lại cùng nhau lên đường chuyện trò không ngớt.

Về đến làng cô Thảo gặp ai cũng đón chào niềm nở. Lòng cô lúc ấy nhẹ nhàng và vui sướng lắm. Còn họ gặp cô đi đằng xa đã kêu réo lên om sòm như gặp được người sống lại. Họ hỏi thăm cô chuyện này chuyên khác, mục đích là để xem cô ăn mặc độ này có khá hơn trước không. Cô Thảo thấy người làng chào hỏi mình vồn vã nên đáp lại rất vui vẻ. Cô ta không quên lấy cái nón xuống, giả vờ quạt vào mình để mấy người đứng chung quanh được thấy đôi hoa tai vàng của cô.

Đến trưa hôm ấy thì cô về đến nhà. Mấy cậu em đua nhau ra níu áo chị. Cô Thảo xoa đầu đứa này đỡ cằm đứa khác, nụ cười trên môi cô không khi nào tắt. Trông thấy mẹ trong nhà đi ra cô mừng quá. Cô chạy lại đứng bên mẹ cảm động quá đến rưng rưng nước mắt. Một lúc sau cô đưa thằng Lụn cho mẹ ẵm rồi đi thẳng vào nhà để chào những người quen biết.

Bà Vạn cứ quấn quít bên cháu, bên con quên cả ngày giờ. Bà giới thiệu cô Thảo với người này người khác, bà nhắc đến chuyện cô Thảo lúc cô còn năm sáu tuổi. Bà kể đến đoạn nào bà cũng cỏ ý khoe cô Thảo đức hạnh và khôn ngoan đủ thứ. Bà nói mãi mà không biết chung quanh bà không ai nghe bà hết.

Sung sướng nhất là cô gái có chồng về nhà mẹ. Cô Thảo tuy về giỗ ông nhưng không làm gì hết. Cô vào phòng mẹ nằm ngủ cả buổi chiều, mãi đến lúc gần cúng cô mới chịu đi ra ngoài.

Lúc cô đứng lễ thì ông Vạn, thân sinh cô, vuốt râu cười nói:

- Con phải lễ thế phần chồng con nữa. Nó làm gì bên ấy mà không qua.

Cô Thảo sau khi thụt lùi ra khỏi chiếu mới khẽ đáp:

– Dạ, nhà con mắc việc quan.

Cô Khuê, chị em chú bác với cô Thảo, đứng gần đấy trề môi nói tiếp:

- Thứ đồ làm Hương-thơ mỗi năm ăn ba mẫu ruộng mà cũng gọi là việc quan.

Ai nấy đều nghe thấy nhưng không ai cãi lại. Ông Vạn đứng cúi đầu xuống hơi ngượng. Còn cô Thảo gương mặt đỏ bừng, quay đầu nhìn xuống bếp. Nhưng ngay lúc ấy cô lại gặp cặp mắt của mẹ đang nhìn cô chòng chọc. Cô đau lòng quá đến để hai dòng lệ chảy dài trên má.

Sáng hôm sau, cúng cơm sáng xong xuôi, cô Thảo lại sắm sửa đi qua làng Mỹ-lý. Cô gọi mấy đứa em đến gần rồi cho mỗi đứa năm xu. Trong nhà ai cũng khen cô rộng rãi và biết thương em, nên cô vui sướng lắm. Đang lúc cao hứng cô còn hứa sẽ gửi cho mẹ hai cặp áo quần mới để mặc Tết nữa. Nhưng chính cô cũng không biết sẽ lấy đâu ra hai cặp áo quần ấy. Chỉ trong nháy mắt cô Thảo đã phân phát tất cả số tiền cô đã dành dụm trong một năm.

Lúc sắp sửa lên đường, bà Vạn cho cô nửa con gà và một gói xôi để về nhà chồng. Lúc ra đi cô cảm động quá, đứng bên mẹ và mấy em khóc nức nở.

Về nhà chồng, cô Thảo lại làm việc từ mai đến chiều, tối tăm cả mày mặt. Lúc nào cô cũng nhớ đến mẹ nghèo, đến em thơ, nhưng nhớ thì lòng cô lại bùi ngùi, trí cô lại bận rộn.

Rồi chiều chiều gặp những lúc nhàn rỗi, cô lại ra đứng cửa sau vơ vẩn nhìn về làng Quận-lão. Nhưng làng Quận-lão ẩn sau đám tre xanh đã kéo một gạch đen dài trên ven đồi xa thẳm.

➖➖➖

 

 

 

BẾN NỨA

Xem chợ lá làng Thiên. Trời mưa tầm tã. Trước khi cho thuyền rời khỏi bến, cô Phương còn nhìn lên bờ hỏi lớn:

- Ai về Viễn-trình thì xuống mà về.

Tiếng cô lạc mất trong tiếng mưa rì rào của buổi chiều tàn buồn bã. Hôm ấy thuyền cô vắng khách. Cô đã cho thuyền đậu thêm một giờ nữa, nhưng người về vẫn không thấy một ai.

Cô lái đò liền nhổ sào gác trên mui rồi từ từ cho thuyền quay lại. Ngay lúc ấy một cụ già hấp tấp chạy xuống bờ sông đưa chiếc dù lên cao gọi lớn:

- Cô Phương ghé thuyền cho tôi về với.

Phương kéo nghiêng chiếc nón lá, nhìn lên bờ qua những dòng mưa chi chít:

- Cụ Uẩn đấy à? Cháu tưởng cụ chiều mai mới về.

Vừa nói Phương vừa cho thuyền, quay mũi vào bờ. Cụ Uẩn xách đôi giầy hạ trên tay, lội ra khỏi bờ chừng năm bước. Lúc thấy mũi thuyền gần cụng vào bờ, cụ Uẩn liền đưa một tay giữ lại. Đoạn cụ bước lên thuyền rồi vội vàng chui vào trong mui.

Tiếng Cô Phương đằng sau lái nói:

- Cụ cởi áo ướt vắt trên dây. Để nước mưa thấm vào người độc lắm.

Tiếng nước mưa xối mạnh trên mui làm át cả tiếng cô Phương. Cụ Uẩn không nghe rõ nên nhìn ra sau lái hỏi:

- Cô Phương hỏi gì?

Phương nhìn vào mui thấy cụ Uẩn cởi áo ra rồi nên nói tiếp:

- Cụ xem giùm thằng Nghển của cháu nó đã ngủ chưa.

Tiếng cụ Uẩn trong mui đáp ra:

- Rồi.

Phương lẳng lặng đưa mái chèo đẩy đều đều trên mặt nước. Thỉnh thoảng cô lại đưa tay vuốt mấy dòng nước mưa chảy tràn trên mặt. Phương vừa chèo vừa nhìn lên hai bên bờ để hy vọng vài người khách chậm chạp còn đuổi theo thuyền cô. Nhưng sau lũy tre cao ngọn, cô ta chỉ nom thấy vài ngọn đèn xanh đang rung rinh trong bóng nhạt.

Trước đây hơn một năm, Phương cùng chồng làm nghề chở khách từ chợ làng Thiên đến làng Viễn-trình. Hai làng cách xa nhau trên bốn mươi cây số. Lệ thường cứ đến chiều nhổ sào, thì sáng mai vào khoảng tám giờ, thuyền đã đến làng Viễn-trình. Làng Viễn- trình ở gần biển, nên dân trong làng thường đem cá tôm lên chợ Thiên bán.

Tất cả gia tài của hai vợ chồng Phương là một chiếc thuyền rộng ba mui, và đâu được ba bốn chục bạc. Lấy nhau được một năm thì Phương sinh thằng Nghển. Mỗi lần ẵm Nghển trên tay, chồng Phương thường tươi cười nói với vợ:

- Thằng Nghển là cục vàng biết nói của tôi đấy, mợ ạ.

Phương nhìn con, nhìn chồng, rồi một giọng ngây thơ nói sẽ:

- Câu nói làm tôi nhớ hồi còn đi học, thầy giáo có bắt tôi học bài Gà đẻ trứng vàng.

Chồng Phương âu yếm nhìn vợ rồi tự nhiên cười sung sướng.

Qua mùa đông năm sau, chồng Phương mang bệnh thương hàn rồi từ trần. Nghển lúc ấy mới hơn hai tuổi.

Theo nghề của chồng xưa, Phương lại một mình đưa thuyền qua ngày tháng.

° ° °

Trời sẫm tối. Thuyền của Phương đến đầu làng Mỹ-lý thì trời tạnh mưa. Xa xa bên chân đồng làng Duyên-hải, đám mây đen dày đặc đã nứt ra dần, để lọt một thứ ánh sáng xanh dờn của mảnh trăng cuối thu.

Phương vừa chèo vừa cất giọng hò lanh lảnh:

Đi đâu cho thiếp theo cùng.

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp theo.

Phương tự nhiên cảm thấy lòng lạnh lẽo và buồn man mác. Cụ Uẩn ngồi trong mui, với một giọng ngái ngủ hỏi sẽ:

- Cô Phương ơi! Thuyền đã đến đâu rồi cô nhỉ?

Phương nhìn lên đám lách um tùm hai bên bờ sông rồi đáp:

- Đến làng Đồng-yên rồi cụ ạ.

- Thật cô chèo mau quá.

Nghển nghe có tiếng động, tự nhiên lồm còm ngồi dậy khóc. Cụ Uẩn dỗ ngon dỗ ngọt một hồi lâu cũng không được. Cụ liền mặc thêm áo rồi bước ra sau lái nói với Phương:

- Thôi cô vào ẵm cháu ngủ đi. Để tôi chèo cho.

Cô Phương còn dùng dằng chưa chịu nghe:

- Ai lại để cụ chèo.

Trong mui, tiếng Nghển lại khóc thét lên. Cụ Uẩn giục:

- Cô đưa tay chèo cho tôi. Tôi tuy già nhưng trai tráng chưa chắc đã chèo kịp tôi.

Phương biết từ chối cũng không được nên đưa chèo cho cụ Uẩn.

Nghển thấy bóng mẹ đi vào thì khóc già hơn trước. Phương ẵm con trong lòng nói sẽ:

- Thôi con ngủ đi. Về đến làng Viễn-trình mợ sẽ mua kẹo cho con.

Nghển được thể quay đầu vào ngực mẹ khóc lớn:

- Con không ăn kẹo.

Phương đưa tay vỗ nhẹ vào lưng con:

- Thế con muốn gì?

Nghển mếu máo:

- Thầy con đâu?

Rồi như mọi ngày, lúc nghe con hỏi đến cha, Phương lại nói dối:

- Thầy qua chợ Sình mua áo tốt cho con.

Nghển lại vùng vằng đầu nũng nịu:

- Con không cần áo tốt. Thầy con đâu?

Lệ thường đến lúc này, túng lắm, Phương mượn một người khách trong thuyền vờ làm « thầy » để dối con. Lúc ấy Nghển mới chịu ngủ yên bên người cha giả. Nhưng hôm ấy thuyền vắng khách, quanh quẩn chỉ một mình cụ Uẩn và Phương. Phương đang lúng túng chưa biết tìm kế gì, thì Nghển đã khóc lớn:

- Thầy con đâu?

Phương kiên nhẫn dỗ con:

- Con nín đi. Mợ gọi thầy về đây.

Đưa đầu ra ngoài mui, Phương gọi lớn:

- Thầy nó đã về chưa. Mau xuống thuyền chẳng thằng Nghển không chịu ngủ.

Trong bóng tối của lũy tre xanh chạy dài theo bến Nứa, tự nhiên có tiếng người đáp:

- Tôi về đây. Ghé thuyền cho tôi về với.

Phương đang phân vân chưa biết người ta nói đùa hay nói thật, thì cụ Uẩn đã từ từ cho quay mũi vào bến.

Một người vận âu phục, nhanh nhẹn xách va-li bước xuống thuyền:

- Đâu, Nghển của tôi đâu? Sao nó lại không chịu ngủ.

Phương thấy người khách thì giật mình bẽn lẻn:

- Cậu Thảo đi đâu mà về khuya thế?

Thảo cũng vừa thấy Phương, nên cúi đầu ấp úng:

- Đò của cô mà tôi tưởng của ai.

Nghĩ một lát. Thảo nói tiếp:

- Tôi vừa xuống ga Mỹ-lâm về đây. Tôi về thăm thầy mẹ tôi.

Cụ Uẩn thong thả cho thuyền ra khỏi bờ rồi chèo xuôi theo dòng nước. Mảnh trăng hạ tuần rây bụi vàng trên quãng đồng lúa rộng. Phương ẵm con ra ngồi trước mui, gương mặt tự nhiên ửng hồng và đẹp một cách lộng lẫy. Tiếng nước reo hai bên mạn thuyền nghe nhẹ và êm. Nghển ngước mắt nhìn Thảo một hồi khá lâu rồi thỏ thẻ:

- Đây là thầy phải không mợ?

Phương nhìn ra sông đáp sẽ, giọng ngượng ngập:

- Vâng.

Nghển đưa mắt trân tráo nhìn Thảo, nói tiếp:

- Thế sao thầy không ẵm con?

Không để Nghển nói hết câu, Thảo đưa hai tay cất Nghển lên rồi vụng về ẵm vào lòng.

Nghển sung sướng reo lớn:

- Thầy mua kẹo cho con đâu?

Thảo cúi xuống mở va-li rồi đưa cho Nghển một gói kẹo tây.

- Kẹo cho con đây.

Lúc nói đến chữ con, lòng Thảo tự nhiên nghe êm êm một cách lạ. Phương nói lảng qua chuyện khác:

- Độ này thầy làm ở đâu?

Thảo quay lại đáp:

- Tôi làm ở sở Hoả-xa. Hôm nay được mấy ngày nghỉ nên định về thăm nhà.

Nghển vừa ăn kẹo vừa nhìn đàn đom đóm lập loè hai bên bờ sông.

Phương đứng dậy quay đầu nhìn phía lái hỏi:

- Cụ Uẩn đã nhọc chưa. Để cháu ra chèo thay cụ.

Nghển đưa tay nắm chéo áo mẹ năn nỉ:

-Mẹ đừng ra chèo. Mẹ ngồi đây với thầy với con.

Phương cúi đầu nhìn xuống sàn thuyền, hai má đỏ như gấc. Dưới ánh trăng gương mặt của Phương trông hồng hồng tươi xinh như bằng sáp. Lòng Thảo hồi hộp sẽ như cánh bướm.

Đằng lái, tiếng cụ Uẩn đáp lớn:

- Nước chẩy xuôi nên chèo không mỏi. Lúc nào cháu Nghển ngủ sẽ hay.

Nghển nhìn về phía sau lái hí hửng:

- Tiếng ai đấy mợ?

Phương xoa đầu con:

- Tiếng cụ Uẩn.

Nghển ngước mắt đăm đăm nhìn Thảo:

- Con sợ cụ Uẩn lắm.

Thảo tươi cười:

- Tại sao ... con sợ?

Nghển nói nhanh không suy nghĩ:

-Vì cụ ấy có râu.

Thảo nhìn Phương mỉm cười.

Tuy người giả vờ làm thầy Nghển mỗi ngày mỗi khác, nhưng Nghển chỉ hơi ngạc nhiên một chút rồi quen ngay. Vì những người này, người nào cũng biết vuốt ve Nghển và nhất là biết cho Nghển quà bánh. Trước kia Nghển hỏi đến thầy là vì nhớ. Chứ lâu nay Nghển hỏi thầy là cốt để hỏi quà bánh thôi. Nghển thấy Thảo ăn mặc sang lại vui vẻ nên thích lắm.

Con thuyền từ từ lướt nhẹ trên mặt nước, êm đềm như cái bóng. Thấy thuyền đến, vài con cò ngàng đang lội trên sông bỗng đập cánh bay thẳng vào trong mấy hàng cây đen tối. Nước rây xuống như mưa.

Thảo cầm bàn tay xinh xắn của Nghển trong tay mình rồi mỉm cười nhìn Nghển đang cố gắng rút tay ra.

Phương chống cằm vơ vẩn nhìn mấy thửa ruộng chạy dài hai bên bờ sông, lòng hơi thổn thức. Phương cũng không hiểu tại sao tối hôm nay lòng Phương lại rạo rực, tê mê như đống tro tàn men hơi lửa.

Mặt trăng lúc ấy đã lẩn hình trong đám mây đen.

Màu xanh lam của màn sương bụi tỏa hai bên bờ sông đã biến ra màu xanh bạc. Bầu trời có vẻ nặng nề hơn trước.

Nghển tự nhiên nắm tay mẹ rồi từ từ kéo mạnh. Một lát sau, Phương cảm thấy Nghển đang đặt tay mình trên da tay một người khác. Phương rùng mình, toàn người run sẽ, hơi thở mạnh và không đều.

Phương không dám quay mình lại. Nghển nói lớn:

- Đây, mợ mở giùm mấy ngón tay của thầy để con kéo tay con ra.

Thảo cảm phải hơi lạnh ở da tay Phương truyền qua tay mình, nên toàn người nóng bừng, tay chân run nhẹ. Thảo như người bị thôi miên. Thảo thả bàn tay Nghển ra rồi nắm bàn tay dịu mát của Phương. Phương cúi đầu nhìn xuống mặt nước, hai má đỏ bừng. Nghển trùm hai bàn tay nhỏ xíu của mình ngoài bàn tay Thảo rồi nói lớn:

- Thầy giữ chặt lấy. Đừng thả ra.

Thảo sợ cụ Uẩn nghe được nên quay lại hỏi:

- Tiếng chuông chùa nào đấy cụ Uẩn?

Thảo vừa nói dứt lời, một tiếng chuông chùa đã dìu dặt thả giữa không trung một tiếng ngân dài não nuột.

Cụ Uẩn che tay ngang trán nhìn mông ra xa rồi đáp:

- Tiếng chuông chùa Đồng Tâm.

Phương quay lại nhìn Thảo, hai người nhìn nhau mỉm cười rồi cùng đưa mắt nhìn dòng sông sắp uốn mình trước mặt.

° ° °

Năm qua, ngày tháng qua. Nghển đã khôn lớn và không hỏi thầy như trước nữa. Nhưng giữa đêm khuya, mỗi lần chèo thuyền qua bến Nứa, Phương lại cất tiếng gọi:

- Ai về Viễn-trình thì xuống mà về.

Nhưng đêm nào cũng như đêm nào, đáp lời Phương, chỉ có tiếng chuông chùa Đồng Tâm ngân dài trên mặt nước.

➖➖➖

 

 

CHÚ TÔI

Tôi còn nhớ rõ ràng, tối hôm ấy là một đêm trăng về cuối hạ. Chúng tôi đang ngồi học trong nhà, thì chú tôi nhân đi tỉnh về, ghé lại thăm.

Thấy em gái tôi ngồi nghê nga học chữ Hán, chú tôi đến đứng gần bên bàn, mỉm cười, nhìn nó chòng chọc. Nghe nó học, cha tôi đưa mấy ngón tay thon thon mỏng dài, thong thả vuốt chải chòm râu xuống, ra vẻ đắc ý lắm.

Nhưng em tôi thì hẳn không đắc ý chút nào, vì chữ nho là thứ chữ xưa nay nó vẫn sợ. Theo ý nó cũng như theo ý tôi về thời bây giờ, thì người ta bắt chúng tôi học chữ nho là làm một việc hoàn toàn vô ích. Chữ nho khó học cũng như khó hiểu, và chỉ đem lại những sự rắc rối thêm cho đời học sinh chúng tôi.

Nhưng mỗi lần nghe thầy dạy học bàn giải những nghĩa thâm thúy của nó thì chúng tôi lại đâm ra ngờ vực. Dầu sao, chúng tôi vẫn đồng lòng khinh và sợ những buổi học ác nghiệt nặng nề kia. Không mấy khi trong giờ chữ nho anh em tôi đọc thuộc bài. Tôi thì nhanh trí, lõm bõm còn đọc được vài ba chữ, chứ em tôi thì đứng ngậm câm ra đó như pho tượng.

Những ngọn thước quá thẳng tay của thầy Thiện đã bắt em tôi ghét luôn cả thầy lẫn chữ của thầy dạy nữa.

Nó thường gọi thầy Thiện là một ông ác thần râu quặp. Và một hôm trước mặt học trò nó còn dám cả gan gọi thầy ta là ông đồ gàn. Tôi còn nhớ một hôm tan buổi học chiều, nó hớn hở tìm đến tôi và nhí nhảnh bảo tôi rằng:

«Anh Thanh ạ, thầy dạy chữ Hán tên Thiện nhưng kỳ thật thì ác lắm. Mà ác hơn thầy Thiện thì không phải một thầy tên là ác mà chính là ông thanh tra tên Le Bon. Anh có biết không, sau khi đến viếng lớp anh thì ông ta lại vào lớp em với ông đốc trường Mỹ-lý. Gặp thầy Thiện, ông ta liền ân cần hỏi ngay bằng một câu tiếng Pháp: Monsieur, comment vous appelez-vous? [1]

Không ngần ngại, thầy Thiện liền chắp tay cung kính trả lời:

- J’ai Thiện. [2]

Thế là muốn tránh cơn tức cười, ông thanh tra phải vội vàng đi thật nhanh qua lớp khác.

Em tôi và tôi ghét chữ Hán bao nhiêu thì chú tôi lại thờ chữ ấy bấy nhiêu. Dùng đến chữ « thờ » để tỏ lòng chú tôi yêu quí nó, tưởng cũng không quá đáng. Vì chú tôi đã lắm lần tỏ ra vẻ thờ nó thật. Chẳng vậy mà chú tôi lại đi rửa mặt, mặc áo đen dài trước khi đọc đến chữ Hán. Hay mỗi lần vô ý làm rơi quyển sổ chữ Hán xuống đất, chú tôi lại lật đật cúi lượm lên, rồi kính cẩn đội lên trên đầu gần vài phút

Những cử chỉ ấy tưởng cũng không lạ mắt lắm. Vì chú tôi là một nhà thâm nho lỡ vận. Cũng như các nhà hủ nho khác, chú tôi ghét bọn Tây học vô cùng. Chú tôi bảo bọn trai theo Tây học sau này chỉ tổ bất hiếu. Chú tôi còn mỉa mai bảo vần chữ Tây như b (bê), q (cu), k (ca), h (hát), hay n (anh), m (em) là một thứ văn khi đọc lên thì không cao thượng chút nào cả. Ý hẳn chú tôi lại muốn nói văn chương Pháp chỉ quanh quẩn trong nghề ca hát (k.h), trong đạo anh, em (n.m) chứ không có gì cao siêu hơn nữa. Về vấn đề này chú tôi đã lắm lần cãi lý với cha tôi rất kịch liệt.

Chú tôi bảo:

« Anh cho thằng Thanh đi học chữ Tây thì sau này không khéo nó lại xách lư hương nhà ta đi bán mất. Thì nhà Tây có bàn thờ đâu mà bảo nó để lư hương ông bà nó lại,

« Nếu ông nghe lời tôi cho nó đi học chữ Hán thì sau này tệ đi nữa nó cũng ra làm hương, làm lý với nước với làng. Mà tên ông bà trong gia phả lại khỏi phảỉ nhờ ai đọc hộ nữa. Còn gì bất biếu bằng lúc đem gia phả nhà ta nhờ người khác đọc. Anh nghĩ lại xem, ngòi bút lông mềm mại dịu dàng thì họ lại thay vào ngòi bút sắt. Mà bút sắt chỉ tạo được quân làm giặc, chứ tạo ra người quân tử hiền lương thể nào được? Ừ, nghĩ cho kỹ tóc trên đầu là máu mủ của cha mẹ, họ còn giang tay cúp phăng đi được nữa là.

«Tôi không hiểu dân trong làng nghĩ thế nào mà cho con đi theo Tây học được? Vì cái gương bất hiếu đã lộ ra trước mắt mà họ không chịu nhìn cho rõ. Không bất hiếu mà bọn Tây học dám kêu ông bà chúng nó là « ai ơi! » (aieux) in như lúc chúng kêu một người không bao giờ quen biết. »

Trước bao nhiêu lý luận nghiêm nghị và ương gàn ấy, cha tôi vẫn lẳng lặng mỉm cười, chứ không bao giờ đáp lại.

Lần này có lẽ là lần đầu chú tôi mới ghé lại bên bàn để nghe chúng tôi học. Nghe em tôi đọc lớn mấy chữ Hán, chú tôi ra dáng mừng rỡ lắm.

Chú tôi lần tay trong chiếc bao con đeo trước ngực, lấy cặp kính ra rồi nâng hai cái cóng để trên mép tai rất cẩn thận. Đoạn chú tôi chống tay lên bàn nhìn quyển vở chữ Hán của em tôi đang học.

-Thầy dạy cháu học chữ Hán tên gì?

- J’ai Thiện.

Em tôi nói xong liền kề má lên trên quyển sách cười ngặt nghẹo.

-Thế nào? Thầy cháu họ Ro à?

Câu hỏi bất ngờ ấy lại làm cho em tôi cười lớn hơn nữa. Không hiểu chuyện gì, chú tôi cũng cất tiếng cười theo, nhưng với một giọng cười đạo mạo nghiêm trang của phần đông người theo nho học.

Một lúc sau, em tôi ngồi khoanh tay trên bàn, giả vờ làm nghiêm rồi nói sẽ:

- Chú ạ, thầy cháu tên Thiện nhưng ác lắm.

- Ừ, thầy thương mới cho roi cho vọt cháu ạ.

- Nếu thầy thương bằng cách ấy thì thà cháu chịu thầy ghét còn hơn.

Muốn nói lảng qua chuyện khác, chú tôi liền thấm nước miếng trên đầu hai ngón tay rồi vừa lật từng tờ giấy quyển vở chữ Hán vừa khẽ hỏi em tôi:

- Chữ Hán cháu viết hay cháu đồ?

- Cháu viết đấy.

- Nếu vậy thì cháu viết tốt hơn trước nhiều lắm!

- Chú bảo thế, chứ thầy Thiện thì cứ bảo chữ cháu viết như gà cào.

- Thì ai cũng vậy, đầu có gà cào thì sau mới...

- Mới gì chú?

- . . . Mới phụng múa được.

- Thế người bạn cháu tên Phụng, sao chữ chị ta viết cũng như gà cào?

- Lý sự như cháu thì ương gàn lắm. Biết nói đến lúc nào mới hết được! Thôi, này lặng để nghe chú hỏi: Khổng-Tử viết là nghĩa gì cháu có biết không?

- Là xừ Khổng-Tử nói rằng.

- Ấy chết! Đùng nói dại. Phải gọi ngài là Đức Thánh mới được.

- Vâng, thì Đức Thánh Khổng-Tử nói rằng.

- Không được kêu tên của ngài, chỉ nói Đức Thánh là đủ rồi. Mà đã Thánh thì phải dùng chữ « dạy » mới nghe được chứ!

- Rõ khổ, thế sao người làm sách lại không nói: « Đức Thánh viết »?

- Nếu nói Đức Thánh viết thì ai biết là đức Thánh nào. Thôi cháu chớ cãi nữa. Dạy sao thì học vậy, con nít mà đòi ngang tài với Thánh-hiền xưa thì chẳng những không phải đạo với « người trên đầu trên cổ » lại còn không nên nữa cháu ạ.

- Thôi được, thì không nên. Nhưng không biết Đức Khổng-Tử có họ hàng gì với ông Khổng-Minh không?

- Không, đức Thánh là người nước Lỗ...

Không để chú tôi nói hết câu, em tôi liền láu lỉnh ngắt lời, hỏi:

- Lỗ... là lỗ vốn ấy à, phải không chú?

Lần này không nén được cơn tức giận đã tràn trề trong lòng, chú tôi liền hậm hực vào nhà lấy dù, rồi trở ra đi thẳng.

° ° °

Đã hơn ba tuần chú tôi không qua nhà tôi nữa. Ngày nào chú tôi cũng xách dù đi quanh các nhà hàng xóm để khuyên những người lân cận nên cho con đi học chữ Hán. Nhưng đạo Khổng, cũng như chú tôi, đã già rồi, đã khàn hơi rồi, không ai còn chịu mất thì giờ nghe chú tôi giảng giải nữa.

Nói không ai nghe, chú tôi liền mở trường dạy chữ Hán, để quyến rủ con dân trong làng đến học. Nhưng trường mở cửa đã mấy hôm mà số học sinh vẫn không quá hai người. Mà hai người ấy không phải ai lạ, chính là hai đứa con của chú tôi lên mười tuổi. Thấy bọn con nít trong làng đua nhau đi xin học ở trường Mỹ-lý, chú tôi lại đâm ra ghen ghét. Có một lần, một bọn học trò trường Mỹ-lý đi ngang qua nhà chú tôi, rồi cất tiếng nhại giọng học của mấy cậu con. Qua mấy ngày sau chú tôi liền đi qua mấy làng Diệp-hải, Từ-sơn để quyến rủ thêm học trò đến học. Nhưng số học trò của chú tôi vẫn như cũ dẫu lời hứa sẽ dạy không lấy tiền đã tràn ra khắp huyện. Trái lại trường Mỹ-lý cuối năm ấy, phải mở rộng thêm hai lớp mới đủ chỗ cho con dân trong làng đến xin học.

Một hôm tôi đến thăm thì thấy nhà chú tôi chật ních cả học trò. Tôi đương còn ngạc nhiên thì chú tôi kêu tôi lại gần rồi mỉm cười sung sướng sẽ bảo: « Đạo Thánh-hiền thì không bao giờ suy đồi được cháu ạ! » Tôi hiểu biết chú tôi đang tranh cạnh một cách âm thầm với trường Mỹ-lý. Tiếng học lớn của bọn học trò chữ Hán đã làm chú tôi vui vẻ, vì trường Mỹ-lý vẫn còn thua trường chú tôi về sự ồn ào náo nhiệt. Có một điều rất lạ là học trò trường chú tôi chẳng những khỏi trả tiền thầy, lại được thầy cấp giấy mực để học và luôn cả bữa cơm trưa tại nhà thầy nữa.

Qua tháng sau tôi lại đến thăm, nhưng lần này thì nhà chú tôi hiu quạnh yên tĩnh, không huyên náo như xưa nữa. Văng vẳng chỉ nghe được mấy tiếng lè nhè của hai dứa con chú tôi ngồi học. Hỏi đến học trò thì chú tôi ngồi ôm đầu gối, thở dài rồi sẽ bảo:

- Chúng nó cũng theo học a, b, rồi cháu ạ.

Nói xong chú tôi liền gục đầu ôm mặt.

Thì ra hôm nay tôi mới biết, bọn học trò đông đảo của chú tôi ngày trước là bọn chăn trâu mà chú tôi đã quyến rủ được ở ngoài đồng làng Quận-mỹ.

------------------

Chú thích:

[1]      Thưa ông, tên ông là gì?

[2]      Tôi có Thiện (ý ông ta muốn trả lời: “Là Thiện”, nhưng nói tiếng Pháp không thành).

➖➖➖