Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 96 đăng ngày 2021-08-14
***
Dấu Bộ Tứ (V, VI)
Tác giả: Arthur Conan Doyle
Dấu Bộ Tứ
Chương V. Tấm thảm kịch ở biệt trang Pondicherry
Chương VI. Sherlock Holmes bắt đầu diễn giảng
-
Tiếng Anh:
The Sign Of The Four
Chapter V. The Tragedy of Pondicherry Lodge
Chapter VI. Sherlock Holmes Gives a Demonstration  

 

Chương V. Tấm thảm kịch ở biệt trang Pondicherry

Lúc ấy gần 11 giờ khuya. Chúng tôi bỏ lại đằng sau sương mù ẩm thấp của thành phố lớn, và đêm khá đẹp. Một cơn gió ấm áp chở những tảng mây nặng nề chậm chạp trôi từ phía tây qua vòm trời. Vành trăng non chợt hiện, chợt biến từng hồi.

Ánh sáng tự nhiên cũng đủ soi sáng khá xa, nhưng Thaddeus vẫn lấy chiếc đèn lồng trong xe ra. Biệt trang Pondicherry có một khu vườn rộng mênh mông. Một bức tường đá cao lởm chởm mảnh chai vụn cô lập nó hoàn toàn. Một cái cửa hẹp được tăng cường những thanh sắt là lối vào độc nhất. Người hướng dẫn gõ cửa theo mật hiệu riêng.

- Ai đó? - Một giọng cộc cằn vang lên.

- Ta đây? McMurdo. Kìa, từ bao lâu nay chắc anh đã nhận ra cách gõ cửa của ta rồi chứ?

Trả lời ông là một tiếng động không rõ ràng, rồi tiếng xâu chìa khóa khua lách cách. Cánh cửa xoay nặng nề trên bản lề. Trong ánh đèn lồng, một người đàn ông dáng thấp, vóc khỏe, hiện ra ở khung cửa nhìn chúng tôi bằng cài chớp mắt ngờ vực.

- Ông đấy à, - Thaddeus? Còn những người này là ai? Tôi không nhận được lệnh gì về họ cả.

- Không à? Anh làm tôi ngạc nhiên đấy. McMurdo à! Tối qua ta đã bảo trước với anh ta là ta sẽ đến cùng vài người bạn kia mà.

- Hôm nay ông ấy không ra khỏi phòng, thưa ông Thaddeus, mà tôi chẳng nhận được chỉ thị đặc biệt nào cả, ông cũng biết rằng mệnh lệnh rất nghiêm ngặt. Tôi có thể để ông vào, nhưng các bạn ông phải ở lại bên ngoài.

Đứng trước trở ngại đó, Thaddeus phân vân nhìn chúng tôi.

- Anh có vẻ hơi bướng bỉnh đấy! - Sau cùng ông bảo người gác cổng - Tôi chịu trách nhiệm về hai người này là cũng đủ cho anh rồi chứ? Trong chúng tôi, có một phụ nữ; chắc chắn không thể để cô chờ đợi ngoài đường vào một giờ khuya khoắt như thế này!

- Tôi rất tiếc, ông Thaddeus ạ. - Người đàn ông đáp lại bằng giọng không gì lay chuyển được - Những người này có thể là bạn của ông nhưng không phải vì thế mà cũng là bạn của chủ tôi. Tôi được trả lương, mà trả hậu là đằng khác, để chấp hành một số mệnh lệnh nào đó; đây là vấn đề nguyên tắc, không thể khác được. Tôi chẳng biết bạn ông là ai cả!

- Ồ, có chứ. Anh có biết một người, anh bạn McMurdo ơi. - Sherlock Holmes nói lớn bằng giọng nhã nhặn - Tôi không tin rằng anh đã có thể quên tôi. Anh không còn nhớ anh chàng võ sĩ nghiệp dư đã đấu với anh trong ba hiệp sao? Chuyện ấy cách đây đã 4 năm rồi, tại nhà ông Alison đó, nhân đêm võ đài tổ chức lạc quyên giúp anh.

- Ông không muốn nhắc đến ông Sherlock Holmes đấy chứ. Tay cựu võ sĩ kêu lớn - Ô, thế thì có chứ. Trời đất, sao tôi lại không nhận ra ông ngay được thế này? Thay vì cứ đứng điềm nhiên ra đấy, ông đã có thể tặng cho tôi một cú móc cằm thần sầu quỷ khóc rồi. Và thế thì tôi đã nhận ra ông ngay rồi. Chà, ông đã để phí phạm tài năng của ông nhiều lắm rồi đó, ông ơi. Ông còn có thể đi xa hơn nữa nếu ông chịu hiến trọn vẹn đời mình cho môn nghệ thuật cao quý đó.

- Đấy, anh xem, Watson à, nếu một mai tôi phải thiếu thốn tất cả, thì ít ra tôi vẫn còn cái nghề khoa học sau cùng này - Holmes vừa nói vừa cười - Bây giờ tôi chắc chắn rằng anh bạn của chúng ta đây sẽ không để ta phải chịu cảnh giá lạnh đêm khuya đâu.

- Vâng, mời ông vào - Gã đáp - Mời ông và các bạn ông vào đi... Tôi rất ân hận, thưa ông Thaddeus, nhưng ông cũng hiểu là mệnh lệnh rất nghiêm. Tôi phải chắc chắn về bạn của ông trước khi để họ vào.

Bên trong tường thành, con đường lát sỏi lượn quanh co giữa đám đất hoang, dẫn đến một ngôi nhà đồ sộ, kiến trúc tầm thường, chìm hẳn vào bóng tối, chỉ trừ ở một góc nơi ánh trăng lấp lánh trên khung cửa sổ mái nhà. Tòa nhà to lớn tối tăm vắng lặng tỏa ra vẻ ngột ngạt khó chịu. Ngay Thaddeus dường như cũng cảm thấy bất an, và chiếc đèn lồng cầm ở đầu tay run lên một cách lạ kỳ.

- Thật tôi chẳng hiểu có chuyện gì xảy ra thế này. Ông nói.

- Chắc là có sự hiểu lầm gì đây. Tôi có nói rõ ràng với Bartholomew là tối nay chúng ta sẽ đến kia mà. Tại sao lại không có đèn ở cửa sổ anh ấy? Như thế nghĩa là thế nào?

- Ông ấy vẫn thường cho canh giữ cổng ra vào cẩn mật như thế ư? Holmes cất tiếng hỏi.

- Vâng, anh ấy vẫn giữ thói quen của cha tôi. Anh ấy là con cưng, ông biết đấy, và lắm khi tôi tự hỏi có thể là cha tôi còn nói cho anh ấy biết nhiều hơn tôi nữa đấy. Cửa sổ của Bartholomew giờ đây có ánh trăng chiếu vào; tôi nghĩ là bên trong không có đèn.

- Không đâu - Holmes nói - Nhưng tôi có thấy ánh sáng lờ mờ ở cửa tò vò phía bên cửa lớn.

- À, đó là phòng bà giúp việc. Chắc bà lão Bernstone có thể giải thích cho chúng ta. Tuy nhiên, quý vị không có gì phản đối nếu chờ tôi tại đây vài phút chứ? Nếu không được báo trước mà lại thấy chúng ta đến cùng một lúc, bà lão có thể phát hoảng lên. Ấy mà này? Gì thế?

Ông nhấc cao chiếc đèn lồng, tay ông run đến nỗi khoanh tròn ánh sáng nhảy múa quanh chúng tôi. Cô Morstan nắm lấy cổ tay tôi. Chúng tôi đứng lặng yên, trống ngực đánh liên hồi, tai nghe ngóng: Từ ngôi nhà to lớn tối đen bay ra một giọng thật buồn bã, thảm thiết, ngân vang trong cảnh đêm tĩnh mịch, đó là tiếng khóc thảng thốt của một người đàn bà bị khiếp đảm.

- Giọng bà lão Bernstone đấy. Trong nhà chỉ có bà là đàn bà thôi - Sholto giải thích - Quí vị chờ đây. Tôi trở lại ngay.

Ông bước nhanh đến cửa và gõ theo ám hiệu. Chúng tôi cũng nhìn ra được một bà lão to béo ra mở cửa và bà vươn mình nhẹ nhõm khi nhìn thấy ông ta.

- Ồ! Ông Thaddeus. Gặp ông tôi mừng quá. Vâng đúng thế. Tôi thật là vui mừng vì ông đến đây, ông ạ.

Cánh cửa khép lại đằng sau, hai người. Nhưng biểu hiện mừng rỡ nhường chỗ cho một cuộc độc thoại rì rầm. Người hướng dẫn đã để lại cho chúng tôi chiếc đèn lồng. Holmes nắm lấy, lắc nhẹ, mắt chăm chú dò xét ngôi nhà và mấy đống vôi gạch vụn rải rác trên đám đất. Cô Morstan và tôi đứng yên cạnh bên nhau, tay trong tay. Quả thật, tình yêu là một thứ gì tinh tế mà tuyệt vời quá chừng. Thì đây nhé, hai chúng tôi, cho đến ngày hôm ấy, chưa lần nào gặp nhau, chưa bao giờ trao đổi một cái nhìn hoặc nói với nhau vài câu tình cảm, ấy thế mà chúng tôi lại cùng tuân theo một cử động: tay chúng tôi tìm lấy nhau. Về sau này, tôi vẫn lấy làm lạ vô cùng, nhưng đêm hôm ấy, tôi thấy việc tôi đến với nàng rất là tự nhiên và về phía nàng, sau này nàng cũng thổ lộ với tôi rằng, nàng đến với tôi để tìm thấy sự che chở và an ủi thì cũng là chuyện bình thường thôi. Chúng tôi tựa như hai đứa bé, tay trong tay, đứng giữa cõi âm u mịt mù vây kín chung quanh mà vẫn thấy bình yên.

- Chỗ ở gì mà kỳ lạ thế này. - Nàng buột miệng thở dài.

- Tưởng chừng như tất cả những chú chuột chũi cả nước Anh đều tập họp về đây - Tôi nói - Tôi đã từng chứng kiến cảnh tượng tương tự như thế này trên sườn một ngọn đồi, gần thành phố Ballarat 1, sau thời kỳ sôi nổi đổ xô đi tìm mỏ.

- Và cùng với những lý do tương tự - Holmes nói xen vào - Đây là dấu vết đào xới để tìm kho báu. Ta đừng quên rằng họ đã tìm kiếm suốt 6 năm nay. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu chỗ này giống như ô vuông hầm mỏ.

Vừa lúc đó, cửa ra vào bật tung ra, và Thaddeus Sholto chạy về phía chúng tôi, hai tay giơ thẳng lên, mắt đầy nét kinh hoàng.

- Chắc có chuyện gì xảy ra cho anh Bartholomew rồi. Ông hét lớn - Tôi sợ quái! Thần kinh tôi chịu đựng hết nổi rồi.

Quả thật ông nấc lên vì sợ hãi. Đóng khung trong chiếc cổ áo da cừu non to tướng, khuôn mặt với những đường nét chảy dài của ông có một vẻ khẩn cầu và tuyệt vọng của đứa bé trong cơn khủng khiếp.

- Nào, chúng ta hãy vào nhà - Holmes nói điềm tĩnh và quả quyết.

- Vâng, xin mời quý vị - Thaddeus Sholto nói - Tôi chẳng còn biết phải làm gì nữa.

Chúng tôi theo ông ta vào phòng bà giúp việc, nằm bên trái dãy hành lang. Bà lão rảo bước trong căn phòng, vừa đi vừa cắn móng tay. Khi chợt thấy cô Morstan, bà lão có vẻ khuây nguôi phần nào.

- Xin Chúa ban phước lành cho khuôn mặt dịu hiền của cô. Bà thốt lên giọng như ngây dại. Gặp được cô thật là điều quý hóa. Hôm nay tôi phải chịu bao nhiêu là chuyện khổ não!

Cô gái nắm lấy bàn tay khẳng khiu tiều tụy vì lam lũ của bà lão, miệng thì thầm dăm ba câu an ủi. Lòng nhân hậu đầy trìu mến của cô đã trả lại đôi chút thần sắc lên đôi má tái nhợt của bà lão giúp việc.

- Ngài chủ tôi ở riệt trong phòng, khóa kín cửa lại, và không buồn trả lời tôi - Bà lão giải thích - Tôi đã chờ đợi suốt cả ngày để ông có gọi chăng. Tôi biết tính ông ấy thích sống một mình, nhưng sau cùng tôi cũng đâm ra thắc mắc không hiểu có chuyện gì đã xảy ra. Thế là tôi lên lầu, cách đây khoảng tiếng đồng hồ và nhìn qua lỗ khóa. Ông cũng nên lên đó đi, ông Thaddeus ạ. Lên đó đi ông ạ, rồi tự khắc ông sẽ thấy. Từ 10 năm nay, tôi từng biết ông Bartholomew Sholto qua những lúc phiền não cũng như những hồi vui sướng, song chưa bao giờ tôi thấy ông ta có một gương mặt như thế cả.

Sherlock Holmes cầm lấy cây đèn lần mò bước lên trước tiên, vì Thaddeus Sholto như đứng chết sững, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. Tôi phải đỡ ông ta bước lên cầu thang: đôi chân không mang nổi thân ông. Hai lần trong lúc lên cầu thang, Holmes lấy kính lúp ra chăm chú quan sát mấy dấu vết nơi là mắt tôi chỉ thấy đơn thuần là những vết bùn để lại trên tấm thảm xơ dừa ở bậc cầu thang. Anh chầm chậm leo lên từng bậc một, đặt cây đèn dựa vào đôi chỗ, đưa mắt dò tìm quanh mình. Cô Morstan theo sau chúng tôi, đi cạnh bà lão giúp việc.

Tầng lầu thứ ba đưa đến một hành lang khá dài; trên tường bên phải là một tấm thảm Ấn Độ rộng lớn; bên trái, ba cánh cửa nằm thẳng hàng. Chúng tôi nối gót ngay sau Holmes, anh bước tới từng bước chậm rãi, khoan thai. Bóng chúng tôi ngả dài phía sau. Cánh cửa thứ ba đúng là cánh cửa chúng tôi quan tâm đến. Holmes gõ nhưng không ai trả lời; anh quay tay nắm toan dùng sức mạnh mở nó. Nhích chiếc đèn lại gần, chúng tôi nhận thấy cánh cửa được cài then chắc chắn từ bên trong. Tuy nhiên, lúc tra chìa vào ổ khóa và quay trong chốt khóa, ta vẫn có được một kẽ hở nhỏ. Shelok Holmes ngồi thụp xuống, dán mắt vào đấy, nhưng rồi đứng phắt ngay dậy, hơi thở như nghẹn lại.

- Trong ấy có cái gì ghê khiếp quá chừng - Anh bảo bằng một giọng chưa bao giờ nghe xúc động đến như thế - Anh nhìn đi, thế nghĩa là làm sao, anh Watson?

Đến lượt tôi ngồi xổm xuống trước ổ khóa, nhưng tôi giật lùi lại vì khiếp đảm. Vầng trăng chiếu vào căn phòng tia sáng mờ nhạt và lạnh lẽo. Tôi thấy rõ, nổi bật hẳn lên khỏi vùng tăm tối, một khuôn mặt tưởng như bồng bềnh trong không khí mà lại cứ nhìn chằm chặp vào mắt tôi. Quả thật ấy là bản sao nhận dạng của Thaddeus: cũng cái sọ cao và bóng loáng ấy, cũng cái vành tóc màu hung ấy, cũng nước da tái nhợt ấy... Nhưng đường nét trên khuôn mặt ấy nhăn nhúm lại với một nụ cười mỉm đến là khủng khiếp. Dưới ánh trăng, cái nhếch mép lạnh cứng ấy còn ghê sợ hơn bất cứ cái nhăn mặt nào. "Nó" trông giống hệt chân dung của người bạn chúng tôi đến nỗi tôi phải quay lại xem ông ta còn đứng đó không. Bấy giờ tôi mới sực nhớ ông ta có bảo hai người là anh em sinh đôi.

- Khiếp thật - Tôi nói khẽ - Làm gì bây giờ, anh Holmes?

- Phải phá cửa vào!

Nói xong, anh chạy bổ tới, lấy trọng lượng toàn thân đè lên ổ khóa. Cánh cửa nghiến rít lên, kêu cót két, nhưng vẫn không lay chuyển. Lần này chúng tôi cùng tấn công một lượt. Cánh cửa bật tung sau một tiếng răng rắc ngắn ngủi, và chúng tôi bị ném tung vào phòng Bartholomew Sholto.

Người ta có thể nói đây là một phòng thí nghiệm. Hai hàng dài những lọ thủy tinh có vòng quăn xếp ngay ngắn sát tường đối diện cửa ra vào; một chiếc bàn ngổn ngang những đèn Bunsen, ống nghiệm và nồi cổ cong. Trong góc phòng còn có mấy chai phình bụng đựng acid; một chai chắc đã bị nứt dẫu sao thì nó cũng rỉ nước bởi ta thấy một chất nước mầu đen thẫm loang ra, làm cho không khí trong phòng nặng một mùi nhựa đường đặc biệt. Trong một góc phòng, giữa đống vôi gạch vụn, một chiếc thang ngắn được bắc lên lỗ hổng khoét trên trần, đủ rộng để một người có thể chui qua lọt. Ở chân thang xếp, ngổn ngang một đống sợi thừng.

Cạnh bàn, Bartholomew ngồi lù lù trong chiếc ghế bành, đầu ngả trên vai trái và vẫn cái nụ cười bí hiểm ấy, tử thi đã lạnh cứng rồi. Cái chết chắc đã xảy ra cách đây mấy tiếng đồng hồ. Hình như những nét nhăn nheo lạ lùng trên gương mặt vẫn gặp lại trên tứ chi và tạo cho cái xác kia một vẻ thật là quái đản. Trên bàn, trong tầm tay người chết, tôi trông thấy một dụng cụ kỳ quặc: một kiểu cán bằng gỗ nâu, ở đằng đầu có buộc một viên đá, một cách sơ sài. Bên cạnh có một mẩu giấy rách viết nguệch ngoạc nấy chữ. Holmes liếc qua rồi đưa tôi xem.

- Đấy, anh thấy chưa - Anh thốt lên, nhướng mày trong một dáng điệu đầy ý nghĩa.

Tôi đưa đèn lại gần và giật mình kinh hãi khi đọc thấy mấy chữ "Dấu Bộ Tứ".

- Trời đất! Tất cả những chuyện này nghĩa là thế nào? Tôi hỏi.

- Một vụ ám sát - Anh đáp, vừa nghiêng mình trên xác chết... - À, tôi biết ngay mà! Này, anh xem đây... Anh chỉ vào một cái gai đen dài ghim vào ngay bên trên vành tai nạn nhân.

- Trông giống cái gai quá - Tôi bảo.

- Thì đó là một cái gai mà. Anh có thể lấy nó ra. Nhưng coi chừng: nó có tẩm thuốc độc đấy.

Tôi kẹp nó giữa ngón cái và ngón trỏ, lấy ra rất dễ dàng, hầu như chẳng để lại dấu vết gì cả. Độc nhất chỉ một giọt máu nhỏ nơi bị đâm thôi.

- Tôi thấy bí ẩn này không giải nổi - Tôi nói - Thay vì sáng tỏ, mỗi lúc nó lại càng rối rắm thêm.

- Trái lại ấy chứ! - Holmes đáp - Nội vụ càng đơn giản hơn lên. Chỉ còn thiếu một vài chi tiết bổ sung thôi...

Từ lúc chúng tôi phá cửa vào, chúng tôi hầu như quên hẳn Thaddeus. Ông vẫn đứng ở ngưỡng cửa, đôi tay vặn lấy nhau, rên rỉ: đúng là hình ảnh sống động của nỗi kinh hoàng. Nhưng bỗng nhiên, một tiếng thét phẫn nộ buột khỏi mồm ông ta:

- Kho báu không còn ở đó nữa! - Ông thốt lên - Chúng nó đã đánh cắp kho báu rồi! Trên kia là lỗ hổng mà qua đó chúng tôi đã đem nó xuống. Tôi biết rõ mà. Chính tôi đã giúp anh ấy. Tôi là người cuối cùng được trông thấy kho báu ấy. Anh ấy ở trong phòng và tôi nghe rõ anh ấy cài chốt cửa sau lưng tôi mà.

- Lúc ấy là mấy giờ?

- Mười giờ. Thế mà bây giờ anh ấy đã chết. Rồi cảnh sát sẽ đến. Rồi tôi sẽ bị tình nghi, bị kết tội... Ôi, đúng thế mà, tôi biết chắc là như thế mà. Nhưng quý ngài không nghĩ rằng tôi lại có thể... chứ? Quý ngài không nghĩ rằng chính tôi đã… phải không? Nếu có thể thì tôi đâu đưa các ngài đến đây làm gì, phải thế không ạ? Ối trời đất ơi! Ô'i trời đất ơi! Tôi phát điên lên mất! Tôi biết quá mà!

Ông ta khua tay, dậm chân. Một nỗi kinh hoàng cuồng sảng bao trùm ông ta.

- Ông không có gì phải hoảng sợ, ông Sholto ạ! – Holmes vừa từ tốn nói vừa đặt tay lên vai ông - Cứ nghe theo lời tôi khuyên đây. Ông hãy cho người đưa ông đến đồn cảnh sát. Hãy thuật lại vụ án mạng và đề nghị họ nhận sự giúp đỡ hợp tác của ông. Chúng tôi sẽ lưu lại đây chờ ông trở về.

Người đàn ông nhỏ bé ấy đồng ý, vẻ gần như đờ đẫn, và chúng tôi nghe ông lần xuống cầu thang với bước chân lảo đảo.

--------------------------------

Chú thích:

1         Một thành phố thuộc bang Victoria, Úc, nổi tiếng về khai thác mỏ.


 

 

Chương VI. Sherlock Holmes bắt đầu diễn giảng

- Anh Watson ạ, giờ đây chúng ta còn được nửa tiếng đồng hồ. Vấn đề là phải biết lợi dụng. Như tôi đã nói anh rõ, hồ sơ của tôi hầu như hoàn tất. Nhưng chúng ta chớ nên tin tưởng quá mà mắc phải sai lầm. Cho dù hiện nay nội vụ có vẻ đơn giản đến đâu chăng nữa, vẫn có thể còn nhiều uẩn khúc.

- Đơn giản à? - Tôi lớn tiếng hỏi.

- Hẳn là thế! - Anh đáp bằng giọng của một giáo sư y khoa giảng giải với đám sinh viên nội trú - Nhưng anh bạn hãy ngồi yên trong góc kia, kẻo vết chân anh lại làm cho công chuyện thêm rắc rối. Nào, giờ ta hãy bắt tay vào việc đi chứ! Trước tiên, những người kia họ đến bằng cách nào? Cửa ra vào vẫn đóng từ tối hôm trước. Thế còn cửa sổ?

Anh dùng chiếc đèn lồng soi sáng cửa sổ, miệng thốt lên những nhận xét tuy bằng giọng nghe rõ ràng nhưng thật ra là tự nói với chính mình.

- Cửa sổ đóng từ bên trong. Khung cửa chắc. Không có bản lề ở một bên. Nào, ta mở thử xem. Quanh quất đây chẳng có ống máng nào. Từ đây, không thể nào leo lên mái được... Ấy thế mà một người đã leo lên bằng cửa sổ; đêm qua có mưa chút đỉnh, và đây, trên thành cửa sổ, ta thấy có dấu chân dính bùn. Còn kia lại có dấu đất bùn hình tròn. A, ta lại thấy dấu ấy trên sàn nhà, rồi cạnh chiếc bàn. Nhìn đây này, anh Watson ơi! Thật là một cuộc biểu diễn tuyệt đẹp.

Tôi cúi xuống nhìn đấu vết rõ nét hình dáng giống một cái đĩa.

- Đây không phải là dấu bàn chân - Tôi nói.

- Cái này còn chính xác và quý giá hơn thế nữa kia. Đấy là dấu của một đầu chày bằng gỗ. Anh cứ nhìn lên thành cửa mà xem; đây là dấu chiếc giày ống nặng trịch đế rộng có đóng đĩa; cạnh đó là dấu của chân kia, nhưng đấu này lại tròn.

- Đúng là người đàn ông chân gỗ.

- Đúng vậy. Nhưng còn một tên khác nữa, một kẻ đồng minh rất có khả năng và rất được việc. Này, anh xem thử nhé, anh có thể trèo qua hàng hiên kia không, bác sỹ?

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Ánh trăng vẫn còn chiếu sáng đến phía này của ngôi nhà. Mặt đất ở bên dưới cách hơn 60 feet. Cho dầu có căng mắt ra nhìn, tôi cũng không thấy được một điểm tựa con con nào, hoặc một kẽ nứt nhỏ nào trong bức tường bằng gạch. Tôi lắc đầu bảo:

- Không tài nào được!

- Không tài nào được nếu chỉ có mình anh, đúng thế. Nhưng nếu anh có một người bạn ở cửa sổ này, và nếu bạn anh thòng xuống cho anh sợi dây thừng to khỏe mà tôi trông thấy ở góc tường, sau khi đã buộc nó vào cái móc lớn kia, thì anh bảo sao? Tôi lại nghĩ rằng, trong trường hợp ấy, nếu anh có chút ít thể lực, anh có thể đu mình lên đến đây kể cả cái chân gỗ nữa. Và dĩ nhiên, anh rời khỏi chỗ này cũng bằng cách đó thôi. Sau đó, bạn anh sẽ rút dây lên, tháo ra khỏi móc, đóng và chốt cái cửa sổ lại từ bên trong và sau cùng ra đi bằng lối mà hắn đã  đến. Tôi xin bổ sung thêm một chi tiết phụ - Anh vừa tiếp tục diễn giảng vừa mân mê sợi dây thừng - Người bạn chân gỗ của ta, mặc dù là một tay leo trèo có hạng, nhưng không phải là một thủy thủ. Anh ta không có đôi tay chai sạn. Chiếc kính lúp của tôi có cho tôi thấy nhiễu vết máu, nhất là ở đoạn cuối. Từ đó tôi suy ra là anh ta đã buông mình tuột xuống ở một tốc độ khiến đôi tay phải sướt da.

- Tất cả những điều ấy nghe ra thật là hay -Tôi nói - Nhưng câu chuyện lại càng khó hiểu hơn bao giờ hết. Kẻ đồng minh bí mật kia là ai? Hắn đột nhập vào phòng này bằng cách nào?

- À phải rồi, kẻ đồng minh hả - Holmes nhắc lại, vẻ nghĩ ngợi - Chính gã đồng minh ấy sẽ đem đến cho chúng ta nhiều yếu tố lý thú đấy. Nhờ hắn mà nội vụ đã vượt ra ngoài giới hạn bình thường. Tôi cho chính gã đồng minh này đã đưa một cái mới mẻ vào biên niên hình sự của đất nước này. Tôi nhớ lại có những "ca" tương tự như thế đã xảy ra rồi, nhất là ở Ấn Độ, và nếu trí nhớ tôi còn tốt, thì ở cả Senegambia.

- Nhưng hắn ta đến bằng cách nào? Tôi nài nỉ hỏi - Cửa ra vào thì bị cài then, cửa sổ lại không lên đến được. Bằng lối ống khói chăng?

- Tấm lưới song sắt ở trên ấy quá hẹp - Anh đáp - Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó, nhưng...

- Vâng, thế thì sao? Bằng lối nào?

- Thực tình anh không muốn áp dụng mấy nguyên tắc của tôi sao? Bao nhiêu lần tôi đã bảo với anh là sau khi đã gạt bỏ ra ngoài tất cả những trường hợp không thể nào xảy ra được, thì giả thiết còn lại, dầu là bấp bênh, thiếu cơ sở đến đâu chăng nữa, cũng phải là giả thiết đúng đắn! Chúng ta biết rằng hắn ta không đến bằng cửa ra vào, không bằng cửa sổ, cũng không bằng ống khói. Ta cũng thừa biết rằng hắn không ẩn trốn trong phòng này, bởi vì phòng này không có chỗ nào có thể ẩn trốn cả. Thế thì hắn đã đến bằng lối nào?

- Bằng một lỗ hổng khoét trên mái nhà? - Tôi hỏi lớn.

- Tất nhiên rồi? Chỉ bằng lối đó thôi. Nếu anh vui lòng cầm hộ tôi chiếc đèn này, ta sẽ đẩy cuộc tìm kiếm lên mãi tận cái rầm thượng bí mật, nơi phát hiện ra kho báu.

Anh trèo lên thang xếp, tì bàn tay vào hai cây đà và đu mình lên rầm thượng. Lên đến nơi, anh nằm sấp sát xuống, với tay nắm lấy cây đèn để tôi có thể lên theo anh. Căn rầm thượng dài khoảng 10 feet, rộng 6 feet. Sàn rầm là mấy cây đà, và phải nhảy từ đà này qua đà khác nếu muốn di chuyển, vì ở giữa hai hàng đà chỉ là những tấm lách mỏng manh mà thôi. Mái rầm vươn lên thành góc nhọn – dĩ nhiên là chỉ mặt bên trong của cái mái nhà thật. Căn rầm hoàn toàn trống trơn. Bụi đóng thành lớp dày trên sàn.

- Đây rồi - Holmes nói, tay đặt lên bức tường dốc nghiêng - Đây là cái cửa chống mở ra trên mái nhà. Tôi có thể đẩy nó lên. Mái nhà hiện ra để dốc thoai thoải xuống. Đây là con đường mà theo đó tên số một đã đi vào. Ta hãy thử xem còn có thể tìm thấy dấu vết gì khác giúp ta nhận diện hắn nữa không.

Anh đưa đèn lại gần sàn, và đây là lần thứ hai trong cùng đêm ấy, tôi thấy gương mặt anh thoáng vẻ ngạc nhiên trái ý. Đưa mắt theo hướng anh ta nhìn, tôi thấy nổi gai ốc dưới lần vải áo quần. Vì sàn rầm đầy dấu chân trần trông rõ cả hình thù, nhưng không lớn quá nữa dấu chân bình thường.

- Anh Holmes à - Tôi bảo thầm - Một đứa bé có thể làm được một chuyện khủng khiếp như thế chăng?

Anh lấy lại được tự chủ ngay.

- Lúc đầu tôi có ngạc nhiên thật. Tuy nhiên, chuyện này không có gì là lạ lùng đâu. Trong phút chốc trí nhớ tôi bỗng sút kém hẳn đi, bởi vì lẽ ra tôi đã phải dự kiến sự việc này rồi. Ta chẳng còn có gì để phát hiện ra trên đây nữa. Ta xuống đi.

- Vậy thì về mấy dấu chân ấy, thuyết của anh như thế nào? - Tôi cất tiếng hỏi khi chúng tôi đã trở xuống căn phòng bên dưới.

- Anh bạn Watson thân mến của tôi ơi, anh thử tự phân tích một chút xem nào - anh nói với một thoáng nóng nảy – Anh thừa biết phương pháp của tôi rồi kia mà. Hãy áp dụng xem sao. Đối chiếu những kết quả của chúng ta kể ra cũng lý thú đấy chứ.

- Tôi chẳng nghĩ ra được bất cứ lối giải thích nào cho phù hợp với các sự kiện đã xảy ra - Tôi đáp.

- Anh sẽ thấy mọi việc hiện ra rất rõ ràng - Anh ung dung đáp lại - Tôi nghĩ rằng ở đây chẳng còn gì quan trọng nữa, song tôi cũng xem lại cho chắc hơn.

Anh chùi kính lúp, lấy cây thước đo ra và bò khắp phòng, đo đạc, so sánh, xem xét, đưa cái mũi thính sát sàn nhà, đôi mắt chìm sâu trong hốc long lanh ánh xà cừ. Cử chỉ của anh nhanh nhẹn, lặng lẽ thoăn thoắt như của một con chó đánh hơi vết chân con mồi. Và tôi không thể không nảy ra cái ý nghĩ bậy bạ rằng anh ta rất có thể là một tên tội phạm vô cùng nguy hiểm nếu anh quay cái trí óc minh mẫn và cái nghị lực của anh chống lại luật pháp, thay vì sử dụng chúng để bảo vệ luật pháp. Vừa tiến hành công việc, anh vừa lẩm bẩm những câu gì khó hiểu. Sau cùng anh buông ra một tiếng reo khoan khoái nhẹ nhõm.

- Vận may ở với chúng ta rồi! Anh thốt lên - Bây giờ, có lẽ chúng ta chẳng còn gặp khó khăn nào nữa. "Tên số một" của chúng ta không may đã dẫm lên chất mộc du 1. Ta có thể trông rõ vành bàn chân nhỏ bé của nó đây này, bên cạnh cái vũng nhầy nhụa hôi hám này. Cái bình chai phình bụng bị vỡ, anh hiểu ra rồi chứ? Và chất nước chứa bên trong chảy lênh láng ra ngoài.

- Thế thì sao? Tôi hỏi.

- Thế thì chúng ta đã bám nó được rồi, có thế thôi. Tôi được biết có một con chó nó có thể bám theo một mùi nào đó đến mãi tận cùng thế giới một cách rất là dai dẳng. Ta nắm được hắn rồi: đây là điều có tính toán học chính xác chẳng kém gì quy tắc tam suất... À, mà tôi nghe xôn xao gì thế? À, chắc hẳn là các vị đại diện có tín nhiệm của luật pháp.

Từ bên dưới đưa lên những giọng nói ồn ào, những bước chân nặng nề vang dội; có tiếng cửa ra vào đóng rầm lại.

- Trước khi họ đến, anh hãy đặt bàn tay anh lên cánh tay kẻ khốn khổ này - Holmes nói - Rồi bây giờ hãy đặt lên chân hắn đây. Anh cảm thấy gì nào?

- Các cơ bắp rắn chắc chẳng khác gì gỗ. Tôi đáp.

- Đúng thế. Chúng ở trong trạng thái co rút cùng cực vượt hẳn tình trạng co rút bình thường do sự chết. Anh cứ thêm vào đấy cái nét mặt nhăn nhúm kia, cái nụ cười Hippocrates, cái nụ cười đanh ác, như cổ nhân thường gọi đi. Rồi anh rút ra được kết luận gì, bác sỹ?

- Chết vì một chất alkaloid thảo mộc cực mạnh - Tôi đáp không chút do dự - Một chất tương tự như mã tiền, nó gây nên chứng phong đòn gánh.

- Đó cũng là ý nghĩ đến với tôi ngay sau khi tôi thấy tình trạng co rút tột độ ở các cơ bắp mặt. Lúc bước vào phòng, tôi đã tìm ngay xem độc dược đã xâm nhập cơ thể bằng cách nào. Tôi đã phát hiện ra một cái gai, hoặc đã được đâm vào, hoặc đã được phóng tới da đầu, nhưng dầu sao, thì cũng không mạnh lắm! Anh cũng có thể nhận thấy rằng, nếu nạn nhân ngồi thẳng trong ghế bành thì phần bị trúng thương là phần đối diện với lỗ hổng khoét trên trần nhà. Bây giờ, đề nghị anh hãy xem kỹ cái gai này.

Tôi cẩn thận đón lấy cái gai và quan sát nó dưới ánh chiếc đèn lồng. Cái gai dài, đen, nhọn; mũi gai như có phết sơn, như có chất nhựa khô quánh ở đó. Mũi gai cùn đã được gọt chuốt lại bằng dao.

- Đây có phải là một thứ gai ta có thể tìm thấy ở nước Anh không - Anh hỏi.

- Không, chắc chắn là không!

- Thế thì, với những dữ kiện đó, anh có thể rút ra một vài suy diễn đúng đắn rồi. Nhưng các viên chức đã đến đây rồi. Lực lượng phụ trợ có thể trỗi kèn rút lui rồi đấy.

Holmes vừa nói đến đây, thì trong hành lang có tiếng bước chân khua vang, và một người đàn ông lùn mập, nước da đỏ tươi, vạm vỡ, mặc bộ com-lê màu xám, nặng nề bước vào phòng. Ông ta có khuôn mặt béo phị, đôi mi mắt húp lại, cặp mắt rất nhỏ nhấp nháy ném ra một tia nhìn sắc sảo. Nối gót ông ta là viên thanh tra mặc đồng phục và Thaddeus Sholto, vẻ mặt vẫn còn tỏ ra xúc động.

- Trời đất! Vụ gì mà rắc rối đến thế này nhỉ? Người đàn ông to béo thốt lên, giọng ồ ồ, khản đục. À vâng, một câu chuyện hay đấy! À, mà mấy người này là ai thế này? Nói thật đấy, nhà gì mà ngổn ngang bừa bãi tựa như cái hang thế này.

- Tôi nghĩ là ngài có thể nhận ra tôi, thưa ngài Athelney Jones - Holmes điềm nhiên nói.

- À vâng, hẳn thế rồi - ông đáp, giọng hổn hển – Ngài Sherlock Holmes, nhà lý thuyết đại tài. Nhận ra ngài à? Tôi không bao giờ quên buổi thuyết trình nhỏ của ngài về những nguyên nhân, suy diễn kết quả trong vụ viên ngọc Bishopgate. Nói

đúng ra thì ngài đã đặt chúng ta lên con đường đúng đắn. Nhưng bây giờ thì ngài cũng chấp nhận rằng đó chẳng qua là do ngẫu nhiên hơn là kết quả của một sự phát hiện đích thực.

- Chỉ cần một lối lập luận rất đơn giản thôi.

- Ồ thôi đi, tôi xin ngài. Chẳng có gì xấu hổ phải chấp nhận sự thật cả. Nhưng còn vụ này? Một vụ hóc búa đây. Một vụ rắc rối, phải thế không ạ? Đề nghị chỉ đưa ra những sự kiện chính xác thôi, và chớ lý thuyết dài dòng, ngài đồng ý thế chứ? Cũng may là tôi có mặt ở Norwood trong một vụ án khác. Tôi đang ở Sở cảnh sát thì nhận được tin về vụ án này. Theo ngài, nạn nhân chết vì nguyện nhân gì?

- Ồ! Trong vụ án này chẳng có chỗ nào dành cho lý thuyết suông đâu - Holmes nói sẵng giọng.

- Không, không đâu. Nhưng dù sao, người ta không thể phủ nhận rằng đôi khi ngài cũng đánh đúng chỗ. Trời! Cửa ra vào có cài then, người ta bảo với tôi như thế. Một số báu vật trị giá nửa triệu biến mất. Thế còn cửa sổ thì sao?

- Đóng từ bên trong; nhưng có dấu chân trên thành cửa.

- À vâng. Nhưng nếu cửa sổ đóng, dấu chân không dính dáng gì đến câu chuyện cả. Đây chỉ là một vấn đề thường tình thôi. Nạn nhân có thể chết vì chứng động tim; thế mà báu vật lại mất. À, tôi nghĩ ra rồi, đôi khi tôi lại nảy ra những ý nghĩ tài tình như vậy đó. Bây giờ xin ông thanh tra cho tôi nói chuyện riêng, ông Sholto cũng thế. Ông bạn của ngài có thể ở lại đây, ngài Holmes ạ. Xin ngài cho tôi biết ngài nghĩ gì về sự việc như sau: Sholto tự mình đã thú nhận đêm qua có ở cùng với người anh. Người này chết vì chứng động tim, và Sholto ra đi với kho báu vật. Sao, ý kiến ngài thế nào?

- Sau đó, người chết vì sợ cảm lạnh, nên đã dùng cài chốt cửa lại chứ gì?

- Hừm! Có một kẽ hở đấy. Nào, ta hãy thử dùng chút ít lý trí thông thường xem sao. Cái ông Thaddeus kia có ở với người anh; và có xảy ra cuộc cãi vã. Chuyện đó, ta đều biết. Người anh chết, báu vật biến mất. Điều đó, ta cũng đã biết. Không ai gặp người anh từ khi Thaddeus ra đi. Chăn nệm trên giường vẫn y nguyên: như thế là nạn nhân đã không đi nằm. Mặt khác, Thaddeus rõ ràng ở trong một tâm trạng giao động. Ông ấy, nào, ta cứ nói thẳng ra là ít thiện cảm. Quý vị chắc thấy tôi đang dệt mạng lưới của tôi. Lưới siết chặt quanh ông ta.

- Ngài chưa nắm vững hoàn toàn các sự kiện - Holmes nói - Cái dằm gỗ kia, mà tôi có đủ lý do để tin rằng nó bị tẩm độc, đã ghim vào đa đầu nạn nhân; dấu vết vẫn còn đấy. Tấm thiếp kia, với dòng chữ mà ngài có thể trông thấy, được đặt trên bàn bên cạnh cái dụng cụ kỳ lạ gồm một cái cán và một viên đá. Làm sao những điều này có thể ứng hợp với lý luận của ngài được.

- Trái lại đấy chứ? Mỗi một chi tiết trong lý luận của tôi đã được xác nhận là đằng khác. Nhà thám tử cãi lại giọng huênh hoang - Ngôi nhà thì đầy rẫy những vật lạ từ Ấn Độ. Thaddeus có thể mang lại cái dụng cụ kia. Và ông ta cũng có thể như bất cứ như một người nào khác, sử dụng dằm gỗ ấy vào mục đích sát nhân, nếu nó có dấu vết bị tẩm độc. Còn tấm thiếp nọ chỉ là một mánh khóe, có lẽ để đánh lạc hướng. Còn lại một câu hỏi duy nhất: ông ấy ra đi bằng cách nào? À, dĩ nhiên! Trên trần nhà có một lỗ hổng.

Ông nhảy tót lên chiếc thang, với một tốc độ khiến phải kinh ngạc đối với một người to béo như ông, và tìm đường lên qua lỗ hổng. Đoạn, chúng tôi nghe ông loan báo giọng đắc thắng: ông đã tìm thấy cái cửa trống trổ lên mái nhà.

- Ông ta có thể phát hiện ra điều gì đó rồi. Holmes vừa nhận xét vừa nhún vai. Đôi khi ông ta nảy sinh ra những tia thông minh. Thật chẳng có kẻ ngu xuẩn nào lại rầy rà hơn những kẻ tưởng mình là có đầu óc thông minh.

- Đấy ngài xem! Athelney Jones vừa bước xuống mấy nấc thang xếp vừa nói - Dầu sao thì sự kiện vẫn giá trị hơn lý luận suông. Ý kiến của tôi về vụ án này được củng cố vững chắc rồi đấy. Có một ô cửa chống trên mái mà ai đó đã mở nó ra rồi.

Chính tôi đã mở nó ra đấy.

- À, thế ra ngài cũng để ý đến nó à? Ông nói, giọng hạ thấp - dầu sao chăng nữa điều này cho ta thấy ông bạn của chúng ta đã đi ra bằng cách nào. Ông Thanh tra!

- Thưa ông, có tôi - Một giọng đáp trong hành lang.

- Mời ông Sholto vào đây.

- Này ông Sholto, tôi có bổn phận báo ông biết rằng những điều ông sắp nói ra đây có thể chống lại ông đấy. Nhân danh nữ hoàng nước Anh, tôi bắt ông, vì có liên can trong vụ án mạng người anh của ông.

- Đấy quý vị thấy không! Tôi đã chẳng nói trước chuyện này với quý vị rồi đó sao? Người đàn ông khốn khổ đưa tay thốt lên với chúng tôi như vậy.

- Xin ông đừng lo, ông Sholto ạ! - Holmes nói - Tôi xin hứa với ông là tôi sẽ mang lại bằng chứng về sự vô tội của ông.

- Chớ hứa hẹn nhiều quá đấy, hỡi ngài lý thuyết gia của tôi - Viên thám tử nhà nước cắt ngang, giọng đanh thép - Đừng hứa hẹn nhiều quá, kẻo lại gặp nhiều khó khăn hơn ngài tưởng khi phải giữ đúng những cam kết của mình đấy.

- Chẳng những tôi sẽ xóa tan mọi ngờ vực cho ông ta, thưa ngài Jones, mà ngay bây giờ, tôi biếu ngài một món quà: tên họ và nhân dạng của một trong hai người đã đột nhập vào đây đêm qua. Tôi có đủ lý do tin rằng hắn tên là Jonathan Small. Đó là một gã ít học, thấp người, lanh lẹ, cụt mất chân phải; gã mang chân gỗ mà mặt trong đã bị mòn. Chiếc giày ống bên trái có đế dày, vuông và đóng con đỉa sắt. Hắn là một tên cựu tù, tuổi trung bình, nước da nâu rất sẫm. Mấy chi tiết này chắc sẽ giúp ngài rất nhiều. Tôi cũng nói thêm là lòng bàn tay hắn rướm máu. Còn tên kia thì...

- À, tên kia? - Jones vừa cất tiếng hỏi vừa cười mỉa.

Dẫu sao rõ ràng là cung cách ăn nói chính xác của Holmes cũng khiến ông ta có phần nao núng.

- Hắn ta là một nhân vật khá kỳ quặc. Bạn tôi vừa nói vừa quay gót đi - Tôi mong có thể trình diện với quý vị cả hai tên trong chẳng bao lâu nữa đâu Anh Watson à, tôi có chuyện muốn nói với anh.

Anh ta dắt tôi ra cầu thang và thì thầm:

- Cái biến cố đột xuất này đã làm chúng ta quên bẵng đi mất cái lý do đầu tiên của chuyến đi.

- Tôi cũng đang nghĩ thế đấy - Tôi đáp - Không nên để cô Morstan ở mãi trong ngôi nhà khốn khổ này.

- Không. Anh sẽ đưa cô ấy về. Cô ta ngụ tại nhà bà Cecil Forrester, Hạ Camberwell, không xa lắm đâu. Tôi sẽ chờ anh ở đây nếu anh muốn trở lại. Nhưng có lẽ anh mệt quá chăng?

- Hoàn toàn không. Tôi không tài nào nghỉ ngơi gì được trước khi được biết thêm về vụ án quái gở này. Tôi đã biết cuộc đời qua một số tình huống mà không phải là những tình huống đẹp đẽ đâu nhé! Nhưng xin thề với anh là những sự cố đột biến liên tiếp nhau như thế này đã làm cho cân não tôi quỵ gục. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn cùng anh đi đến cùng, vì nghĩ ra thì tôi cũng đã đi khá xa rồi.

- Sự hiện diện của anh giúp đỡ tôi rất nhiều - Anh đáp – Ta cứ để anh chàng Jones kia thỏa mãn với những quả bong bóng mà anh chàng tưởng là đèn lồng, và ta sẽ làm việc riêng. Tôi nhờ anh đi đến nhà số 3, hẻm Pinchin, khu Lambeth, ngay trên bờ sông, sau khi anh đã đưa cô Morstan về nhà. Căn nhà thứ ba về bên phải là nhà của một người nhồi rơm chim giả. Tên anh ta là Sherman. Đến đấy anh sẽ thấy ở cửa sổ một con chồn cái ngoạm chú thỏ. Cho tôi nhắn gởi lời chào thân ái nhất đến anh bạn già Sherman ấy và bảo anh ấy tôi cần chú Toby ngay. Khi về, anh mang nó theo trong xe.

- Một con chó, chắc thế?

- Đúng thế. Một con chó lai hiếm có được thiên nhiên phú cho một thính giác lạ lùng. Có sự giúp đỡ của Toby còn hơn cả sự tiếp tay của cả lực lượng Cảnh sát ở London.

- Được thôi, tôi sẽ mang Toby về cho anh... Bây giờ là 1 giờ sáng! Tôi sẽ trở về trước 3 giờ nếu tôi có thể thay ngựa.

- Còn tôi - Holmes bảo - Tôi sẽ xem có thể rút ra được gì phía bà lão Bernstone và anh gia nhân người Ấn. Anh này ngủ trong gác nhỏ bên cạnh, ông Thaddeus có bảo tôi thế. Rồi tôi sẽ nghiên cứu phương pháp của Jones, nhà thám tử vĩ đại, bằng cách lắng nghe những câu chua chát thiếu tế nhị của ông ấy.

"Người ta thường chế diễu những điều mà người ta không hiểu." 2

Quả thật, thi hào Goethe luôn luôn vẫn tràn trề nhựa sống.

--------------------------------

Chú thích:

1         Nguyên văn: créosote, một chất hóa chất dùng tẩm gỗ để chống mục.

2         Nguyên văn: "Wir sind gewohnt dass die Menschen verhohnen was sie nicht verstehen." (thơ của Goethe, đại thi hào Đức-tiếng Đức)

➖➖➖

 

 

Arthur Conan Doyle

The Sign Of The Four

Chapter V. The Tragedy of Pondicherry Lodge

It was nearly eleven o'clock when we reached this final stage of our night's adventures. We had left the damp fog of the great city behind us, and the night was fairly fine. A warm wind blew from the westward, and heavy clouds moved slowly across the sky, with half a moon peeping occasionally through the rifts. It was clear enough to see for some distance, but Thaddeus Sholto took down one of the side-lamps from the carriage to give us a better light upon our way.

Pondicherry Lodge stood in its own grounds, and was girt round with a very high stone wall topped with broken glass. A single narrow iron-clamped door formed the only means of entrance. On this our guide knocked with a peculiar postman-like rat-tat.

"Who is there?" cried a gruff voice from within.

"It is I, McMurdo. You surely know my knock by this time."

There was a grumbling sound and a clanking and jarring of keys. The door swung heavily back, and a short, deep-chested man stood in the opening, with the yellow light of the lantern shining upon his protruded face and twinkling distrustful eyes.

"That you, Mr. Thaddeus? But who are the others? I had no orders about them from the master."

"No, McMurdo? You surprise me! I told my brother last night that I should bring some friends."

"He ain't been out o' his room to-day, Mr. Thaddeus, and I have no orders. You know very well that I must stick to regulations. I can let you in, but your friends must just stop where they are."

This was an unexpected obstacle. Thaddeus Sholto looked about him in a perplexed and helpless manner. "This is too bad of you, McMurdo!" he said. "If I guarantee them, that is enough for you. There is the young lady, too. She cannot wait on the public road at this hour."

"Very sorry, Mr. Thaddeus," said the porter, inexorably. "Folk may be friends o' yours, and yet no friends o' the master's. He pays me well to do my duty, and my duty I'll do. I don't know none o' your friends."

"Oh, yes you do, McMurdo," cried Sherlock Holmes, genially. "I don't think you can have forgotten me. Don't you remember the amateur who fought three rounds with you at Alison's rooms on the night of your benefit four years back?"

"Not Mr. Sherlock Holmes!" roared the prize-fighter. "God's truth! how could I have mistook you? If instead o' standin' there so quiet you had just stepped up and given me that crosshit of yours under the jaw, I'd ha' known you without a question. Ah, you're one that has wasted your gifts, you have! You might have aimed high, if you had joined the fancy."

"You see, Watson, if all else fails me I have still one of the scientific professions open to me," said Holmes, laughing. "Our friend won't keep us out in the cold now, I am sure."

"In you come, sir, in you come,—you and your friends," he answered. "Very sorry, Mr. Thaddeus, but orders are very strict. Had to be certain of your friends before I let them in."

Inside, a gravel path wound through desolate grounds to a huge clump of a house, square and prosaic, all plunged in shadow save where a moonbeam struck one corner and glimmered in a garret window. The vast size of the building, with its gloom and its deathly silence, struck a chill to the heart. Even Thaddeus Sholto seemed ill at ease, and the lantern quivered and rattled in his hand.

"I cannot understand it," he said. "There must be some mistake. I distinctly told Bartholomew that we should be here, and yet there is no light in his window. I do not know what to make of it."

"Does he always guard the premises in this way?" asked Holmes.

"Yes; he has followed my father's custom. He was the favorite son, you know, and I sometimes think that my father may have told him more than he ever told me. That is Bartholomew's window up there where the moonshine strikes. It is quite bright, but there is no light from within, I think."

"None," said Holmes. "But I see the glint of a light in that little window beside the door."

"Ah, that is the housekeeper's room. That is where old Mrs. Bernstone sits. She can tell us all about it. But perhaps you would not mind waiting here for a minute or two, for if we all go in together and she has no word of our coming she may be alarmed. But hush! what is that?"

He held up the lantern, and his hand shook until the circles of light flickered and wavered all round us. Miss Morstan seized my wrist, and we all stood with thumping hearts, straining our ears. >From the great black house there sounded through the silent night the saddest and most pitiful of sounds,—the shrill, broken whimpering of a frightened woman.

"It is Mrs. Bernstone," said Sholto. "She is the only woman in the house. Wait here. I shall be back in a moment." He hurried for the door, and knocked in his peculiar way. We could see a tall old woman admit him, and sway with pleasure at the very sight of him.

"Oh, Mr. Thaddeus, sir, I am so glad you have come! I am so glad you have come, Mr. Thaddeus, sir!" We heard her reiterated rejoicings until the door was closed and her voice died away into a muffled monotone.

Our guide had left us the lantern. Holmes swung it slowly round, and peered keenly at the house, and at the great rubbish-heaps which cumbered the grounds. Miss Morstan and I stood together, and her hand was in mine. A wondrous subtle thing is love, for here were we two who had never seen each other before that day, between whom no word or even look of affection had ever passed, and yet now in an hour of trouble our hands instinctively sought for each other. I have marvelled at it since, but at the time it seemed the most natural thing that I should go out to her so, and, as she has often told me, there was in her also the instinct to turn to me for comfort and protection. So we stood hand in hand, like two children, and there was peace in our hearts for all the dark things that surrounded us.

"What a strange place!" she said, looking round.

"It looks as though all the moles in England had been let loose in it. I have seen something of the sort on the side of a hill near Ballarat, where the prospectors had been at work."

"And from the same cause," said Holmes. "These are the traces of the treasure-seekers. You must remember that they were six years looking for it. No wonder that the grounds look like a gravelpit."

At that moment the door of the house burst open, and Thaddeus Sholto came running out, with his hands thrown forward and terror in his eyes.

"There is something amiss with Bartholomew!" he cried. "I am frightened! My nerves cannot stand it." He was, indeed, half blubbering with fear, and his twitching feeble face peeping out from the great Astrakhan collar had the helpless appealing expression of a terrified child.

"Come into the house," said Holmes, in his crisp, firm way.

"Yes, do!" pleaded Thaddeus Sholto. "I really do not feel equal to giving directions."

We all followed him into the housekeeper's room, which stood upon the left-hand side of the passage. The old woman was pacing up and down with a scared look and restless picking fingers, but the sight of Miss Morstan appeared to have a soothing effect upon her.

"God bless your sweet calm face!" she cried, with an hysterical sob. "It does me good to see you. Oh, but I have been sorely tried this day!"

Our companion patted her thin, work-worn hand, and murmured some few words of kindly womanly comfort which brought the color back into the others bloodless cheeks.

"Master has locked himself in and will now answer me," she explained. "All day I have waited to hear from him, for he often likes to be alone; but an hour ago I feared that something was amiss, so I went up and peeped through the key-hole. You must go up, Mr. Thaddeus,—you must go up and look for yourself. I have seen Mr. Bartholomew Sholto in joy and in sorrow for ten long years, but I never saw him with such a face on him as that."

Sherlock Holmes took the lamp and led the way, for Thaddeus Sholto's teeth were chattering in his head. So shaken was he that I had to pass my hand under his arm as we went up the stairs, for his knees were trembling under him. Twice as we ascended Holmes whipped his lens out of his pocket and carefully examined marks which appeared to me to be mere shapeless smudges of dust upon the cocoa-nut matting which served as a staircarpet. He walked slowly from step to step, holding the lamp, and shooting keen glances to right and left. Miss Morstan had remained behind with the frightened housekeeper.

The third flight of stairs ended in a straight passage of some length, with a great picture in Indian tapestry upon the right of it and three doors upon the left. Holmes advanced along it in the same slow and methodical way, while we kept close at his heels, with our long black shadows streaming backwards down the corridor. The third door was that which we were seeking. Holmes knocked without receiving any answer, and then tried to turn the handle and force it open. It was locked on the inside, however, and by a broad and powerful bolt, as we could see when we set our lamp up against it. The key being turned, however, the hole was not entirely closed. Sherlock Holmes bent down to it, and instantly rose again with a sharp intaking of the breath.

"There is something devilish in this, Watson," said he, more moved than I had ever before seen him. "What do you make of it?"

I stooped to the hole, and recoiled in horror. Moonlight was streaming into the room, and it was bright with a vague and shifty radiance. Looking straight at me, and suspended, as it were, in the air, for all beneath was in shadow, there hung a face,—the very face of our companion Thaddeus. There was the same high, shining head, the same circular bristle of red hair, the same bloodless countenance. The features were set, however, in a horrible smile, a fixed and unnatural grin, which in that still and moonlit room was more jarring to the nerves than any scowl or contortion. So like was the face to that of our little friend that I looked round at him to make sure that he was indeed with us. Then I recalled to mind that he had mentioned to us that his brother and he were twins.

"This is terrible!" I said to Holmes. "What is to be done?"

"The door must come down," he answered, and, springing against it, he put all his weight upon the lock. It creaked and groaned, but did not yield. Together we flung ourselves upon it once more, and this time it gave way with a sudden snap, and we found ourselves within Bartholomew Sholto's chamber.

It appeared to have been fitted up as a chemical laboratory. A double line of glass-stoppered bottles was drawn up upon the wall opposite the door, and the table was littered over with Bunsen burners, test-tubes, and retorts. In the corners stood carboys of acid in wicker baskets. One of these appeared to leak or to have been broken, for a stream of dark-colored liquid had trickled out from it, and the air was heavy with a peculiarly pungent, tar-like odor. A set of steps stood at one side of the room, in the midst of a litter of lath and plaster, and above them there was an opening in the ceiling large enough for a man to pass through. at the foot of the steps a long coil of rope was thrown carelessly together.

By the table, in a wooden arm-chair, the master of the house was seated all in a heap, with his head sunk upon his left shoulder, and that ghastly, inscrutable smile upon his face. He was stiff and cold, and had clearly been dead many hours. It seemed to me that not only his features but all his limbs were twisted and turned in the most fantastic fashion. By his hand upon the table there lay a peculiar instrument,—a brown, close-grained stick, with a stone head like a hammer, rudely lashed on with coarse twine. Beside it was a torn sheet of note-paper with some words scrawled upon it. Holmes glanced at it, and then handed it to me.

"You see," he said, with a significant raising of the eyebrows.

In the light of the lantern I read, with a thrill of horror, "The sign of the four."

"In God's name, what does it all mean?" I asked.

"It means murder," said he, stooping over the dead man. "Ah, I expected it. Look here!" He pointed to what looked like a long, dark thorn stuck in the skin just above the ear.

"It looks like a thorn," said I.

"It is a thorn. You may pick it out. But be careful, for it is poisoned."

I took it up between my finger and thumb. It came away from the skin so readily that hardly any mark was left behind. One tiny speck of blood showed where the puncture had been.

"This is all an insoluble mystery to me," said I. "It grows darker instead of clearer."

"On the contrary," he answered, "it clears every instant. I only require a few missing links to have an entirely connected case."

We had almost forgotten our companion's presence since we entered the chamber. He was still standing in the door-way, the very picture of terror, wringing his hands and moaning to himself. Suddenly, however, he broke out into a sharp, querulous cry.

"The treasure is gone!" he said. "They have robbed him of the treasure! There is the hole through which we lowered it. I helped him to do it! I was the last person who saw him! I left him here last night, and I heard him lock the door as I came down-stairs."

"What time was that?"

"It was ten o'clock. And now he is dead, and the police will be called in, and I shall be suspected of having had a hand in it. Oh, yes, I am sure I shall. But you don't think so, gentlemen? Surely you don't think that it was I? Is it likely that I would have brought you here if it were I? Oh, dear! oh, dear! I know that I shall go mad!" He jerked his arms and stamped his feet in a kind of convulsive frenzy.

"You have no reason for fear, Mr. Sholto," said Holmes, kindly, putting his hand upon his shoulder. "Take my advice, and drive down to the station to report this matter to the police. Offer to assist them in every way. We shall wait here until your return."

The little man obeyed in a half-stupefied fashion, and we heard him stumbling down the stairs in the dark.


 

Chapter VI. Sherlock Holmes Gives a Demonstration

"Now, Watson," said Holmes, rubbing his hands, "we have half an hour to ourselves. Let us make good use of it. My case is, as I have told you, almost complete; but we must not err on the side of over-confidence. Simple as the case seems now, there may be something deeper underlying it."

"Simple!" I ejaculated.

"Surely," said he, with something of the air of a clinical professor expounding to his class. "Just sit in the corner there, that your footprints may not complicate matters. Now to work! In the first place, how did these folk come, and how did they go? The door has not been opened since last night. How of the window?" He carried the lamp across to it, muttering his observations aloud the while, but addressing them to himself rather than to me. "Window is snibbed on the inner side. Framework is solid. No hinges at the side. Let us open it. No water-pipe near. Roof quite out of reach. Yet a man has mounted by the window. It rained a little last night. Here is the print of a foot in mould upon the sill. And here is a circular muddy mark, and here again upon the floor, and here again by the table. See here, Watson! This is really a very pretty demonstration."

I looked at the round, well-defined muddy discs. "This is not a footmark," said I.

"It is something much more valuable to us. It is the impression of a wooden stump. You see here on the sill is the boot-mark, a heavy boot with the broad metal heel, and beside it is the mark of the timber-toe."

"It is the wooden-legged man."

"Quite so. But there has been some one else,—a very able and efficient ally. Could you scale that wall, doctor?"

I looked out of the open window. The moon still shone brightly on that angle of the house. We were a good sixty feet from the round, and, look where I would, I could see no foothold, nor as much as a crevice in the brick-work.

"It is absolutely impossible," I answered.

"Without aid it is so. But suppose you had a friend up here who lowered you this good stout rope which I see in the corner, securing one end of it to this great hook in the wall. Then, I think, if you were an active man, You might swarm up, wooden leg and all. You would depart, of course, in the same fashion, and your ally would draw up the rope, untie it from the hook, shut the window, snib it on the inside, and get away in the way that he originally came. As a minor point it may be noted," he continued, fingering the rope, "that our wooden-legged friend, though a fair climber, was not a professional sailor. His hands were far from horny. My lens discloses more than one blood-mark, especially towards the end of the rope, from which I gather that he slipped down with such velocity that he took the skin off his hand."

"This is all very well," said I, "but the thing becomes more unintelligible than ever. How about this mysterious ally? How came he into the room?"

"Yes, the ally!" repeated Holmes, pensively. "There are features of interest about this ally. He lifts the case from the regions of the commonplace. I fancy that this ally breaks fresh ground in the annals of crime in this country,—though parallel cases suggest themselves from India, and, if my memory serves me, from Senegambia."

"How came he, then?" I reiterated. "The door is locked, the window is inaccessible. Was it through the chimney?"

The grate is much too small," he answered. "I had already considered that possibility."

"How then?" I persisted.

"You will not apply my precept," he said, shaking his head. "How often have I said to you that when you have eliminated the impossible whatever remains, HOWEVER IMPROBABLE, must be the truth? We know that he did not come through the door, the window, or the chimney. We also know that he could not have been concealed in the room, as there is no concealment possible. Whence, then, did he come?"

"He came through the hole in the roof," I cried.

"Of course he did. He must have done so. If you will have the kindness to hold the lamp for me, we shall now extend our researches to the room above,—the secret room in which the treasure was found."

He mounted the steps, and, seizing a rafter with either hand, he swung himself up into the garret. Then, lying on his face, he reached down for the lamp and held it while I followed him.

The chamber in which we found ourselves was about ten feet one way and six the other. The floor was formed by the rafters, with thin lath-and-plaster between, so that in walking one had to step from beam to beam. The roof ran up to an apex, and was evidently the inner shell of the true roof of the house. There was no furniture of any sort, and the accumulated dust of years lay thick upon the floor.

"Here you are, you see," said Sherlock Holmes, putting his hand against the sloping wall. "This is a trap-door which leads out on to the roof. I can press it back, and here is the roof itself, sloping at a gentle angle. This, then, is the way by which Number One entered. Let us see if we can find one other traces of his individuality."

He held down the lamp to the floor, and as he did so I saw for the second time that night a startled, surprised look come over his face. For myself, as I followed his gaze my skin was cold under my clothes. The floor was covered thickly with the prints of a naked foot,—clear, well defined, perfectly formed, but scarce half the size of those of an ordinary man.

"Holmes," I said, in a whisper, "a child has done the horrid thing."

He had recovered his self-possession in an instant. "I was staggered for the moment," he said, "but the thing is quite natural. My memory failed me, or I should have been able to foretell it. There is nothing more to be learned here. Let us go down."

"What is your theory, then, as to those footmarks?" I asked, eagerly, when we had regained the lower room once more.

"My dear Watson, try a little analysis yourself," said he, with a touch of impatience. "You know my methods. Apply them, and it will be instructive to compare results."

"I cannot conceive anything which will cover the facts," I answered.

"It will be clear enough to you soon," he said, in an off-hand way. "I think that there is nothing else of importance here, but I will look." He whipped out his lens and a tape measure, and hurried about the room on his knees, measuring, comparing, examining, with his long thin nose only a few inches from the planks, and his beady eyes gleaming and deep-set like those of a bird. So swift, silent, and furtive were his movements, like those of a trained blood-hound picking out a scent, that I could not but think what a terrible criminal he would have made had he turned his energy and sagacity against the law, instead of exerting them in its defense. As he hunted about, he kept muttering to himself, and finally he broke out into a loud crow of delight.

"We are certainly in luck," said he. "We ought to have very little trouble now. Number One has had the misfortune to tread in the creosote. You can see the outline of the edge of his small foot here at the side of this evil-smelling mess. The carboy has been cracked, You see, and the stuff has leaked out."

"What then?" I asked.

"Why, we have got him, that's all," said he. "I know a dog that would follow that scent to the world's end. If a pack can track a trailed herring across a shire, how far can a specially-trained hound follow so pungent a smell as this? It sounds like a sum in the rule of three. The answer should give us the—But halloo! here are the accredited representatives of the law."

Heavy steps and the clamor of loud voices were audible from below, and the hall door shut with a loud crash.

"Before they come," said Holmes, "just put your hand here on this poor fellow's arm, and here on his leg. What do you feel?"

"The muscles are as hard as a board," I answered.

"Quite so. They are in a state of extreme contraction, far exceeding the usual rigor mortis. Coupled with this distortion of the face, this Hippocratic smile, or 'risus sardonicus,' as the old writers called it, what conclusion would it suggest to your mind?"

"Death from some powerful vegetable alkaloid," I answered,—"some strychnine-like substance which would produce tetanus."

"That was the idea which occurred to me the instant I saw the drawn muscles of the face. On getting into the room I at once looked for the means by which the poison had entered the system. As you saw, I discovered a thorn which had been driven or shot with no great force into the scalp. You observe that the part struck was that which would be turned towards the hole in the ceiling if the man were erect in his chair. Now examine the thorn."

I took it up gingerly and held it in the light of the lantern. It was long, sharp, and black, with a glazed look near the point as though some gummy substance had dried upon it. The blunt end had been trimmed and rounded off with a knife.

"Is that an English thorn?" he asked.

"No, it certainly is not."

"With all these data you should be able to draw some just inference. But here are the regulars: so the auxiliary forces may beat a retreat."

As he spoke, the steps which had been coming nearer sounded loudly on the passage, and a very stout, portly man in a gray suit strode heavily into the room. He was red-faced, burly and plethoric, with a pair of very small twinkling eyes which looked keenly out from between swollen and puffy pouches. He was closely followed by an inspector in uniform, and by the still palpitating Thaddeus Sholto.

"Here's a business!" he cried, in a muffled, husky voice. "Here's a pretty business! But who are all these? Why, the house seems to be as full as a rabbit-warren!"

"I think you must recollect me, Mr. Athelney Jones," said Holmes, quietly.

"Why, of course I do!" he wheezed. "It's Mr. Sherlock Holmes, the theorist. Remember you! I'll never forget how you lectured us all on causes and inferences and effects in the Bishopgate jewel case. It's true you set us on the right track; but you'll own now that it was more by good luck than good guidance."

"It was a piece of very simple reasoning."

"Oh, come, now, come! Never be ashamed to own up. But what is all this? Bad business! Bad business! Stern facts here,—no room for theories. How lucky that I happened to be out at Norwood over another case! I was at the station when the message arrived. What d'you think the man died of?"

"Oh, this is hardly a case for me to theorize over," said Holmes, dryly.

"No, no. Still, we can't deny that you hit the nail on the head sometimes. Dear me! Door locked, I understand. Jewels worth half a million missing. How was the window?"

"Fastened; but there are steps on the sill."

"Well, well, if it was fastened the steps could have nothing to do with the matter. That's common sense. Man might have died in a fit; but then the jewels are missing. Ha! I have a theory. These flashes come upon me at times.—Just step outside, sergeant, and you, Mr. Sholto. Your friend can remain.—What do you think of this, Holmes? Sholto was, on his own confession, with his brother last night. The brother died in a fit, on which Sholto walked off with the treasure. How's that?"

"On which the dead man very considerately got up and locked the door on the inside."

"Hum! There's a flaw there. Let us apply common sense to the matter. This Thaddeus Sholto WAS with his brother; there WAS a quarrel; so much we know. The brother is dead and the jewels are gone. So much also we know. No one saw the brother from the time Thaddeus left him. His bed had not been slept in. Thaddeus is evidently in a most disturbed state of mind. His appearance is—well, not attractive. You see that I am weaving my web round Thaddeus. The net begins to close upon him."

"You are not quite in possession of the facts yet," said Holmes. "This splinter of wood, which I have every reason to believe to be poisoned, was in the man's scalp where you still see the mark; this card, inscribed as you see it, was on the table; and beside it lay this rather curious stone-headed instrument. How does all that fit into your theory?"

"Confirms it in every respect," said the fat detective, pompously. "House is full of Indian curiosities. Thaddeus brought this up, and if this splinter be poisonous Thaddeus may as well have made murderous use of it as any other man. The card is some hocus-pocus,—a blind, as like as not. The only question is, how did he depart? Ah, of course, here is a hole in the roof." With great activity, considering his bulk, he sprang up the steps and squeezed through into the garret, and immediately afterwards we heard his exulting voice proclaiming that he had found the trap-door.

"He can find something," remarked Holmes, shrugging his shoulders. "He has occasional glimmerings of reason. Il n'y a pas des sots si incommodes que ceux qui ont de l'esprit!"

"You see!" said Athelney Jones, reappearing down the steps again. "Facts are better than mere theories, after all. My view of the case is confirmed. There is a trap-door communicating with the roof, and it is partly open."

"It was I who opened it."

"Oh, indeed! You did notice it, then?" He seemed a little crestfallen at the discovery. "Well, whoever noticed it, it shows how our gentleman got away. Inspector!"

"Yes, sir," from the passage.

"Ask Mr. Sholto to step this way.—Mr. Sholto, it is my duty to inform you that anything which you may say will be used against you. I arrest you in the queen's name as being concerned in the death of your brother."

"There, now! Didn't I tell you!" cried the poor little man, throwing out his hands, and looking from one to the other of us.

"Don't trouble yourself about it, Mr. Sholto," said Holmes. "I think that I can engage to clear you of the charge."

"Don't promise too much, Mr. Theorist,—don't promise too much!" snapped the detective. "You may find it a harder matter than you think."

"Not only will I clear him, Mr. Jones, but I will make you a free present of the name and description of one of the two people who were in this room last night. His name, I have every reason to believe, is Jonathan Small. He is a poorly-educated man, small, active, with his right leg off, and wearing a wooden stump which is worn away upon the inner side. His left boot has a coarse, square-toed sole, with an iron band round the heel. He is a middle-aged man, much sunburned, and has been a convict. These few indications may be of some assistance to you, coupled with the fact that there is a good deal of skin missing from the palm of his hand. The other man—"

"Ah! the other man—?" asked Athelney Jones, in a sneering voice, but impressed none the less, as I could easily see, by the precision of the other's manner.

"Is a rather curious person," said Sherlock Holmes, turning upon his heel. "I hope before very long to be able to introduce you to the pair of them.—A word with you, Watson."

He led me out to the head of the stair. "This unexpected occurrence," he said, "has caused us rather to lose sight of the original purpose of our journey."

"I have just been thinking so," I answered. "It is not right that Miss Morstan should remain in this stricken house."

"No. You must escort her home. She lives with Mrs. Cecil Forrester, in Lower Camberwell: so it is not very far. I will wait for you here if you will drive out again. Or perhaps you are too tired?"

"By no means. I don't think I could rest until I know more of this fantastic business. I have seen something of the rough side of life, but I give you my word that this quick succession of strange surprises to-night has shaken my nerve completely. I should like, however, to see the matter through with you, now that I have got so far."

"Your presence will be of great service to me," he answered. "We shall work the case out independently, and leave this fellow Jones to exult over any mare's-nest which he may choose to construct. When you have dropped Miss Morstan I wish you to go on to No. 3 Pinchin Lane, down near the water's edge at Lambeth. The third house on the right-hand side is a bird-stuffer's: Sherman is the name. You will see a weasel holding a young rabbit in the window. Knock old Sherman up, and tell him, with my compliments, that I want Toby at once. You will bring Toby back in the cab with you."

"A dog, I suppose."

"Yes,—a queer mongrel, with a most amazing power of scent. I would rather have Toby's help than that of the whole detective force of London."

"I shall bring him, then," said I. "It is one now. I ought to be back before three, if I can get a fresh horse."

"And I," said Holmes, "shall see what I can learn from Mrs. Bernstone, and from the Indian servant, who, Mr. Thaddeus tell me, sleeps in the next garret. Then I shall study the great Jones's methods and listen to his not too delicate sarcasms. 'Wir sind gewohnt das die Menschen verhoehnen was sie nicht verstehen.' Goethe is always pithy."

➖➖➖