Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 95 đăng ngày 2021-08-07
***
Dấu Bộ Tứ (III,IV)
Tác giả: Arthur Conan Doyle
Dấu Bộ Tứ
Chương III. Đi tìm một giải đáp
Chương IV. Câu chuyện của người hói đầu
-
Tiếng Anh:
The Sign Of The Four
Chapter III. In Quest of a Solution
Chapter IV. The Story of the Bald-Headed Man

 

Chương III. Đi tìm một giải đáp

Mãi đến 5 giờ rưỡi Holmes với trở về, hoạt bát và tươi cười, trông anh thật vui vẻ (tâm trạng này, ở anh, thường xen kẽ với tình trạng suy sụp sâu sắc).

- Trong vụ này chẳng có gì là bí ẩn lắm đâu! - Anh vừa nói vừa đón lấy tách trà tôi mới rót cho anh - Các sự kiện xảy ra dường như chỉ chấp nhận có một lối giải thích mà thôi.

- Sao? Anh đã tìm ra lời giải đáp rồi à?

- Thật ra, nói như thế thì cũng đi quá xa đấy! Tôi mới chỉ tìm ra một sự kiện có ý nghĩa, thế thôi; nhưng nó rất có ý nghĩa. Còn thiếu một số chi tiết. Thật vậy, lúc tra cứu kho lưu trữ báo "Times", tôi vừa phát hiện ra rằng thiếu tá Sholto, ở Thượng Norwood, nguyên là sĩ quan thuộc trung đoàn 35 bộ binh, chết ngày 28 tháng Tư năm 1882.

- Có lẽ tôi hơi tối dạ thật anh Holmes ạ, nhưng thật tình tôi chẳng thấy ý nghĩa gì trong đó cả.

- Không à? Anh làm tôi ngạc nhiên đấy! Mời anh xét lại các sự kiện sau đây: Đại úy Morstan mất tích. Người duy nhất mà ông ta quen biết ở London là thiếu tá Sholto. Nhưng ông này quả quyết là không biết đại úy có mặt ở Anh. Bốn năm sau, Sholto chết. Trong tuần lễ tiếp theo sau cái chết, con gái đại úy Morstan nhận được một món quà có giá trị rất lớn, và năm nào cũng nhận được như vậy. Bức thư ngày hôm nay mô tả cô này như là nạn nhân của một sự bất công nào đó. Thế thì, với cô gái này, ngoài sự mất tích của người cha ra, đã phải chịu đựng những thiệt hại nào nữa chăng? Và tại sao những món quà lại khởi đầu ngay sau khi Sholto chết, nếu không phải là vì người thừa kế của ông này, phát hiện ra được một bí ẩn nào đó nên mới nảy ra ý muốn đền bù lại sự thiệt hại cho cô ta? Hay là anh có giả thuyết nào khác ăn khớp với tất cả các sự kiện kia chăng?

- Dẫu sao thì đây cũng là một cách khá kỳ quặc để đền bù lại cho sự mất tích của người cha! Mà cách tiến hành cũng lạ lùng nữa chứ? Mặt khác, tại sao lại phải đợi đến hôm nay mới viết lá thư kia, mà không viết ra trước đây 6 năm? Sau cùng, còn vấn đề đền bù một sự thiệt thòi nữa chứ? Đền bù bằng cách nào? Bằng cách trả lại người cha cho con gái chăng? Ta không thể tin rằng người cha vẫn còn sống. Và người thiếu nữ kia không là nạn nhân của bất cứ một sự thiệt thòi nào khác.

- Vâng, có khó khăn đấy! Nhưng chuyến đi của chúng ta chiều nay sẽ san bằng tất. A! Cỗ xe ngựa hòm đây rồi! Cô Morstan ngồi bên trong ấy, anh sẵn sàng chưa? Nào, ta đi xuống đi, đã quá 6 giờ rồi đấy.

Tôi với lấy cái mũ và cây gậy chống to nhất. Tôi nhận thấy Holmes lấy khẩu súng ngắn trong ngăn kéo cho vào túi. Vậy là anh nghĩ rằng câu chuyện tối nay sẽ có hướng phức tạp rắc rối hơn.

Cô Morstan thu mình trong chiếc áo choàng màu tối; khuôn mặt thanh tú phớt xanh nhưng vẫn điềm tĩnh. Có lẽ nàng cần phải có nhiều nghị lực hơn một người đàn bà bình thường, mới không cảm thấy xốn xang, hồi hộp trước một chuyến đi kỳ lạ mà chúng tôi sắp sửa dấn thân vào. Nếu căn cứ vào lối trả lời rành mạch của nàng đối với những câu hỏi của Holmes thì nàng rất tự chủ.

- Qua thư từ - Nàng nói - Cha tôi kể rất nhiều về thiếu tá Sholto. Hai người chắc phải là thân nhau lắm. Chắc hẳn họ rất thường gặp nhau vì cả hai đều chỉ huy binh sĩ trên đảo Andaman. À, tôi vừa sực nhớ ra người ta có tìm thấy trên bàn giấy của cha tôi một tài liệu thật là lạ. Chẳng ai hiểu gì cả. Tôi không nghĩ là nó có một tầm quan trọng nào đó. Nhưng có lẽ ông cũng muốn xem qua. Thưa ông, đây.

Holmes cẩn thận mở tờ giấy ra, đặt lên đầu gối vuốt lại cho phẳng phiu. Rồi anh dùng kính lúp xem kỹ mảnh giấy đó.

- Loại giấy này được chế tạo tại Ấn Độ - Anh nhận xét - Đã có lúc nó được ghim vào một tấm bảng con. Sơ đồ vẽ ra trong đó xem như là họa đồ một phần của một tòa nhà to lớn có rất nhiều lối ra vào và hành lang. Một dấu chữ thập nhỏ được đánh dấu bằng mực đỏ. Bên trên dấu chữ thập, có chú thích: "3,37 tính từ bên trải qua" viết bằng bút chì. Ở góc trái, một kiểu linh tự trông giống bốn chữ thập xếp hàng cạnh nhau. Cạnh đó, có ghi bằng nét chữ vụng về và thô kệch:

"Dấu Bộ Tứ. Jonathan Small, Mahomet Singh, Abdullah Khan, Dost Akbar".

- Không, anh ạ. Thú thật là tôi chả thấy tài liệu này có liên quan gì đến nội vụ của chúng ta. Song có điều chắc là nó quan trọng; chẳng thế mà nó được gấp xếp cẩn thận vào ví, vì mặt trái cũng sạch sẽ như mặt phải.

- Đúng vậy, tôi đã tìm thấy nó trong ví của cha tôi, cô Morstan nói.

- Thế thì cô nên cất giữ nó cho kỹ lưỡng, cô Morstan ạ. Nó có thể giúp được việc cho ta đấy. Tôi chợt có ý nghĩ là phải chăng vụ này còn sâu sắc và tinh vi hơn là tôi tưởng lúc ban đầu. Chắc là tôi phải duyệt xét lại quan điểm của tôi.

Holmes thu mình vào một góc trên ghế xe ngựa. Nhìn thoáng qua vầng trán hằn sâu những nếp nhăn và cái nhìn xa vắng của anh, tôi đoán ra là anh đang suy nghĩ lung lắm. Cô Morstan và tôi đang nhỏ to về chuyến đi này của chúng tôi và về kết quả có thể có được của nó, nhưng Holmes vẫn giữ lấy một thái độ dè dặt khó hiểu mãi cho đến cuối cuộc hành trình.

Dạo ấy là vào tháng Chín, buổi chiều tối cũng ảm đạm như ban ngày. Một màn sương dày đặc và ẩm ướt thấm sâu vào thành phố lớn. Từng cụm mây màu đất bùn lê thê một cách thiểu não trên đầu thành phố lầy lội. Dọc theo phố Strand, những trụ đèn chỉ còn là những điểm sáng phân tán loãng và như tẩm dầu hắt ra một khoang ánh sáng yếu ớt xuống lòng đường nhầy nhụa. Đèn vàng trong tủ kính chiếu sáng đó đây bầu không khí ẩm hơi nước. Tưởng chừng như có một điều gì quái dị khác thường trong cảnh diễu hành vô tận của những khuôn mặt buồn thảm hay hân hoạn, âu lo hay mãn nguyện. Lướt nhẹ từ vùng tối ảm đạm ra vùng ánh sáng để rồi lại rơi vào cảnh tối tăm mờ mịt, những khuôn mặt ấy biểu tượng cho cả đám nhân loại. Bình thường thì tôi đâu có dễ gì bị xúc cảm, ấy thế mà cái ngoại cảnh ấy kết hợp với tính chất lạ lùng trong công việc chúng tôi làm đã khiến cho tôi phải xuống tinh thần. Thái độ của cô Morstan cũng giống như tôi vậy thôi. Còn Holmes thì lại có thể vượt lên trên những ảnh hưởng tương tự. Anh lật sổ tay, đặt lên đầu gối, đọc dưới ánh sáng của cây đèn bỏ túi.

Tại Nhà hát Lyceum, thiên hạ chen lấn nhau trước cửa ra vào hai bên. Dọc theo mặt tiền nhà hát, xe ngựa hòm và xe tư nối đuôi nhau thành một hàng dài bất tận, các ông các bà xuống xe, súng sính trong bộ dạ phục. Chúng tôi vừa đến cột thứ ba là nơi hẹn gặp, thì một người đàn ông nhỏ thó tóc vàng sẫm, song linh hoạt, mặc cải trang làm người đánh xe ngựa tiến lại gần chúng tôi.

- Các ông là người đi theo cô Morstan? - Gã hỏi.

- Tôi là Morstan, còn hai ông này là bạn tôi - Nàng đáp.

Gã ngước mắt nhìn chúng tôi, ánh nhìn xoi mói lạ thường.

- Cô cũng miễn lỗi cho, cô Morstan ạ. Hắn nói giọng có phần hơi xấc xược, nhưng cô phải lấy danh dự mà bảo đảm rằng trong hai ông đây không ai là cảnh sát mới được.

- Tôi xin bảo đảm đúng như vậy. - Nàng trả lời. Gã huýt lên một tiếng lanh lảnh; một đứa bé dắt cỗ xe lại và mở cửa. Gã đàn ông leo lên ghế người đánh xe trong khi chúng tôi ngồi vào bên trong. Chúng tôi vừa an vị thì gã quất ngựa và đưa chúng tôi vào những đường phố sương mù với một tốc độ điên cuồng. Hoàn cảnh chúng tôi kể cũng oái oăm thật, chúng tôi đang đi đến một nơi nào không biết với những lý do cũng không rõ. Nghĩ lại thì lời mời này, hoặc là một trò bịp bợm từ đầu đến cuối - giả thiết này khó lòng đứng vững được - hoặc đây là bằng chứng cho thấy rằng có những sự cố quan trọng đang được chuẩn bị. Morstan thì có vẻ quả quyết dứt khoát hơn bao giờ hết. Tôi tìm cách làm cho nàng khuây khỏa bằng một vài mẩu chuyện phiêu lưu của tôi hồi còn ở Afghanistan. Nhưng nói đúng ra thì bản thân tôi cũng hồi hộp muốn biết nơi chúng tôi sẽ đến, nên câu chuyện tôi kể cũng đâm ra lộn xộn phần nào. Cho đến bây giờ nàng vẫn còn quả quyết là hồi đó tôi đã kể cho nàng nghe một giai thoại cảm động: có một đầu mũi súng xuất hiện bên trong lều tôi nghỉ vào lúc nửa đêm và tôi đã chụp ngay lấy khẩu súng săn của mình bắn về hướng đó.

Dầu sao thì tôi cũng quan tâm đến lộ trình chúng tôi đang theo hơn là những câu chuyện cũ rích ấy. Lúc đầu, tôi đã theo dõi hướng đi của chúng tôi nhưng về sau, chẳng mấy chốc mà sương mù, tốc độ xe chạy và sự hiểu biết khá hạn chế của tôi về London khiến tôi không tài nào theo dõi được nữa. Tôi chẳng còn biết gì nữa, chỉ rõ một điều là chúng tôi đang đi một đoạn đường khá dài. Còn Sherlock Holmes vẫn bám sát lộ trình. Anh gọi thầm tên các khu phố và những con đường quanh co mà xe chúng tôi ào ào băng qua.

- Phố Rochester Row - Anh bảo - Giờ là Quảng trường Vincent. Ta đang đến đường Vauxhall Bridge. Dường như ta đang chạy về phố Surrey. Vâng, quả đúng như tôi đã nghĩ. Bây giờ, ta đang chạy trên cầu. Anh có thể thấy lấp lánh ánh nước sông.

Thật vậy chúng tôi có thể nhận rõ một đoạn sông Thames hắt bóng một cách yếu ớt mấy ngọn đèn đường. Nhưng rồi xe đã qua bên kia cầu, đi vào những con đường quanh co khúc khuỷu.

- Đường Wordsworth - Bạn tôi đọc tên - đường Priory, hẻm Lark Hall, Quảng trường Stockwell, phố Robert, hẻm Cold Harbour. Chà, cuộc điều tra của chúng ta không có vẻ gì là sẽ đưa ta đến một khu phố sang trọng nào đó đâu...

Thực tình thì các đường phố chẳng có phút gì là hấp dẫn cả. Nét đơn điệu của những ngôi nhà gạch thảng hoặc mới được điểm bằng vài quán cà phê ở ngã tư đường. Tiếp đến, những tòa biệt thự hai tầng hiện ra giữa mảnh vườn bé tí hon. Rồi lại đến hàng dài bất tận những ngôi nhà mới tinh màu sắc lòe loẹt, trông chẳng khác nào những ống vòi quái dị mà thành phố khổng lồ tung và o vùng nông thôn lân cận. Sau cùng chúng tôi dừng lại trước căn nhà thứ ba trên một con đường xe mới ngoặt vào. Những căn nhà khác có vẻ như chưa có người ở. Căn nhà chúng tôi dừng lại cũng tối tăm như mấy căn nhà ấy, nhưng ở cửa sổ nhà bếp có ánh đèn leo lét. Chúng tôi vừa gõ cửa thì một gia nhân người Ấn Độ, đầu chít khăn vàng, lụng thụng trong bộ y phục có thắt lưng cũng màu vàng, ra mở cửa. Có một vẻ gì đó, không hòa hợp trong cảnh xuất hiện đầy màu sắc phương đông đóng khung trong ô cửa của một căn nhà ngoại ô tầm thường.

- Chủ nhân tôi đang chờ đời quý ngài! Gã gia nhân nói.

Cùng lúc, một giọng lanh lảnh và chói chang cất lên từ bên trong:

- Mời họ vào, khitmutgar 1 - Giọng ấy thét lớn. Đưa họ vào đây ngay.

--------------------------------

Chú thích:

1         Tiếng gọi gia nhân của người chủ (tiếng Ấn Độ).


 

 

Chương IV. Câu chuyện của người hói đầu

Chúng tôi đi theo người gia nhân Ấn Độ dọc theo một hành lang bẩn thỉu, thiếu ánh sáng và thiếu cả bàn ghế. Cuối hành lang, hắn mở cánh cửa bên tay phải. Ánh đèn vàng rực đón tiếp chúng tôi. Giữa vùng sáng chói chang đột ngột đó hiện ra một người đàn ông thỏ thó với cái đầu hói khổng lồ bóng loáng. Một vành tóc hung chạy quanh đầu tự nhiên gợi cho ta hình ảnh đỉnh một quả núi nổi lên từ giữa đám rừng thông. Người đàn ông đứng thẳng, vặn đôi tay với nhau, vẻ bứt rứt. Nét mặt thay đổi không ngừng, hết mỉm cười rồi lại cau có mà ta chẳng biết tại sao. Ngoài ra, môi dưới của ông ta bị tật trễ xuống, để lộ hàng răng vàng bệch và mọc lộn xộn. Ông tìm cách che đậy bằng cách chốc chốc lại đưa tay che phần dưới mặt. Ông có vẻ còn trẻ, tuy bị hói đầu: thực ra, ông vừa mới ba mươi tuổi.

- Kính hầu cô, cô Morstan! Ông nhắc đi nhắc lại bằng một giọng lanh lảnh - Kính hầu quý ngài: Xin mời quý ngài hạ cố bước vào bên trong ẩn phòng nhỏ bé của tôi. Nó không lớn lắm đâu; thưa cô, song tôi đã thiết trí nó theo sở thích của tôi: một thánh đảo huy hoàng giữa bãi sa mạc nóng bỏng của Nam London.

Cả ba chúng tôi đều bàng hoàng ngơ ngẩn trước quang cảnh gian phòng ông mời chúng tôi vào. Trong ngôi nhà buồn tẻ này, gian phòng trông đến lạc lõng, chẳng khác nào viên kim cương tinh khiết nhất lại gắn vào một chiếc nhẫn đồng. Bốn bức tường được trang hoàng bằng thảm và màn với màu sắc và nghệ thuật rất tuyệt vời, đôi chỗ người ta vén lên một chút để làm nổi bật hơn một lọ cổ phương Đông hoặc một bức tranh lồng khung sặc sỡ. Tấm thảm trải lên sàn nhà màu hổ phách có vân đen, dày đến độ chân ta lún vào đấy thật khoan khoái như bước lên một lớp rêu. Hai tấm da cọp rộng lớn tăng thêm vẻ huy hoàng Đông Phương. Một cỗ điếu cày to tướng đặt trên một cái mâm chẳng làm giảm vẻ đẹp đẽ của toàn cảnh chút nào. Từ chiếc đỉnh trầm treo bằng một sợi dây vàng nhỏ gần như mắt không trông thấy được, ngay giữa gian phòng, tỏa ra một mùi hương nồng thắm.

Người đàn ông vừa lăng xăng vừa tự giới thiệu:

- Tôi là Thaddeus Sholto. Cô chắc hẳn là cô Morstan? Còn các ông đây là...?

- Xin giới thiệu: đây là ông Sherlock Holmes và bác sỹ Watson.

- Ồ, một bác sỹ à? Ông la lớn, vẻ kích động rõ ràng - Thế ông có mang ống chẩn bệnh theo không? Tôi có thể hỏi thăm ông là...? Xin ông vui lòng...? Tôi đang rất lo ngại không biết cái mão biện mạc của tôi có hoạt động tốt không, và nếu không phải là quá lợi dụng lòng tốt của ông thì...? Tôi nghĩ là cái động mạch chủ của tôi thì không sao, nhưng tôi rất mong được biết ý kiến của ông về cái mão biện mạc.

Tôi khám tim cho ông theo lời ông yêu cầu, nhưng thấy chẳng có gì là bất thường, chỉ có điều là hình như ông đang đau khổ về một nỗi lo sợ thầm kín nào đó: Toàn thân ông ta run lẩy bẩy từ đầu xuống chân thế kia.

- Mọi sự đều có vẻ bình thường - Tôi bảo - Ngài chẳng có lý do gì để phải lo lắng cả.

- Xin cô cũng vui lòng bỏ qua cho tôi nỗi lo âu hồi hộp này, cô Morstan ạ - Ông nói bằng giọng nhẹ nhàng hơn - Sức khỏe của tôi rất yếu kém, và từ lâu nay cái biện mạc ấy vẫn làm tôi băn khoăn mãi. Nay tôi rất đỗi vui mừng được biết rằng không có gì đáng ngại. Này cô, nếu thân phụ cô không làm nhọc tim mình quá độ, thì hôm nay ông ấy có thể vẫn còn sống đấy.

Thật tôi muốn tát tai ông ấy quá. Lối nói năng thô bạo và thờ ơ về một chuyện đau buồn như thế làm tôi tức đến lộn ruột.

Cô Morstan ngồi xuống, mặt mày tái nhợt, đôi môi trắng bệch ra.

- Trong thâm tâm, tôi cũng biết là cha tôi đã chết rồi.

- Tôi có thể thuật lại cho cô mọi chi tiết. Hơn nữa, tôi có thể đem lại công bằng cho cô. Và tôi sẽ làm đúng như thế, dù anh Bartholomew của tôi có nói gì đi nữa. Tôi rất mừng là các bạn cô có mặt ở đây. Không phải chỉ vì họ làm cho cô an tâm mà còn vì họ sẽ là nhân chứng cho những điều tôi sắp nói và làm. Bốn chúng ta đây cũng đủ đương đầu với anh Bartholomew của tôi rồi. Nhưng ta chớ để kẻ lạ xen vào? Cảnh sát hay các viên chức khác cũng thế! Nếu không có sự can thiệp không phải lúc thì ta sẽ có cách thu xếp mọi chuyện rất thỏa đáng. Nếu làm rùm beng chuyện này lên thì anh Bartholomew sẽ bực mình lắm đấy.

Ông ngồi trên chiếc ghế tròn thấp, cặp mắt xanh yếu ớt và kèm nhèm nhìn chúng tôi như lục vấn.

- Riêng về phần tôi, những điều ông sắp sửa nói ra chắc là không đi xa hơn những suy nghĩ của tôi lắm đâu - Holmes bảo.

Tôi gật đầu đồng tình.

- Điều đó tốt thôi! - Ông ta nói: - Rất tốt thôi! Tôi có thể mời cô dùng ly rượu Chianti được chăng, cô Morstan? Hoặc một ly Tokay nhé?' Tôi chẳng có thứ rượu vang nào khác. Tôi khui một chai nhé? Không à? Thế thì tôi mong rằng khói thuốc không làm cô khó chịu: Thuốc lá phương Đông có một mùi thơm đậm đà. Tôi hơi nóng tính, như cô thấy đấy, và thứ thuốc điếu cày này đối với tôi là một liều an thần tuyệt diệu.

Ông đưa ngọn nến xích lại gần và trong khoảnh khắc từng tăm khói thuốc lọc qua nước màu hồng. Ngồi thành hình bán nguyệt, đầu hơi chồm về phía trước, cằm tỳ lên bàn tay, cả ba chúng tôi chăm chú nhìn con người nhỏ bé với cái đầu to tướng láng bóng ấy, đối diện với chúng tôi, rít từng hơi thuốc trên ống điếu bằng dáng điệu thiếu tự tin.

- Sau khi quyết định bắt liên lạc trực tiếp với quý vị - Ông nói - tôi cũng ngần ngại lắm mới cho biết địa chỉ của mình. Tôi e rằng quý vị không theo lời yêu cầu của tôi, đem theo những kẻ có thể gây ra phiền hà. Thế nên tôi đã mạn phép định với quý vị một điểm hẹn sao cho Williams có thể trông thấy quý vị trước. Tôi hoàn toàn tin tưởng anh ta. Vả lại tôi cũng đã căn dặn anh ấy đừng đưa quý vị đến đây, nếu thấy có dấu hiệu khả nghi. Quý vị chắc cũng miễn chấp cho tôi về những biện pháp phòng đó, nhưng thật tình là tôi đang sống một cuộc đời có phần ẩn dật. Hơn nữa, không có gì làm cho tính mẫn cảm của tôi, mà tôi có thể coi là rất tinh tế, một phát ghê tởm bằng một tên cảnh sát.

Tôi có xu hướng bẩm sinh là tránh mọi hình thức thô bạo; và rất hiếm khi tôi tiếp xúc với cái đám bằng dân hạ đẳng kia. Như quý vị đã thấy, tôi sống trong một khung cảnh thanh lịch. Tôi có thể tự cho tôi là người bảo vệ nghệ thuật. Ấy, nhược điểm của tôi là ở chỗ đó. Cảnh này là một bức tranh của họa sỹ Corot chính hiệu đấy. Còn đây, về bức tranh này của họa sỹ Salvator Rosa, thì một chuyên gia có thể dè dặt nêu lên một vài điểm yếu; nhưng ngược lại, bức tranh này của Bouguereau, thì không có gì phải bàn cãi thêm nữa. Tôi có xu hướng rõ rệt với trường phái hội họa của Pháp mới đây, thú thật như vậy.

- Xin lỗi ông Sholto, cô Morstan cất tiếng - Tôi đến đây theo lời yêu cầu của ông để nghe những điều ông muốn nói với tôi. Bây giờ cũng đã muộn lắm rồi, và tôi mong sao cuộc hội kiến này càng chóng càng tốt.

- Dẫu cho rằng một sự sẽ êm xuôi, thì cũng phải còn lâu lắm ạ. - Ông đáp - Chắc chắn là ta sẽ phải đi đến Norwood để gặp anh Bartholomew của tôi. Chúng ta sẽ cố gắng thuyết phục anh ấy làm cho anh ấy phải nghe ra lẽ phải mới được. Anh ấy rất giận tôi vì tôi đã làm điều mà tôi cho là đúng. Tối qua chúng tôi đã gần đi đến chỗ cãi lộn nhau rồi đấy. Quý vị không thể tưởng tượng được mỗi khi anh ấy nổi giận thì anh ấy khủng khiếp như thế nào.

- Nếu cần đi đến Norwood tốt hơn có lẽ ta nên đi bây giờ chăng? - Tôi đánh bạo nói.

Ông vụt cười đến đỏ bừng cả tai.

- Không được đâu! Ông kêu lên - Tôi không biết anh ấy sẽ phản ứng ra sao nếu tôi đưa quý vị đến đấy một cách đột ngột như vậy. Không ạ, chưa tiện, tôi cần giải thích cho anh ấy rõ vị trí của mỗi người trong chúng ta. Và trước hết, cần phải nói thêm là trong câu chuyện này, còn một số điểm mà chính tôi cũng còn chưa được tỏ tường. Tôi chỉ có thể trình bày cho quý vị thấy những gì mà tôi được biết.

Thiếu tá John Sholto, thuộc đạo quân ở Ấn Độ, là thân sinh ra tôi, chắc quý vị cũng đã đoán biết. Ông nghỉ hưu cách đây gần 11 năm và đến định cư tại biệt trang Pondicherry, khu Thượng Norwood. Tại Ấn Độ ông rất giàu; lúc trở về, ông mang theo một số tiền kếch sù, một bộ sưu tập phong phú những báu vật hiếm có, và sau cùng là một số gia nhân người bản xứ. Thế rồi ông tậu một ngôi nhà và sống rất đế vương. Chúng tôi, anh Bartholomew và tôi là con song sinh, độc nhất.

Tôi nhớ rất rõ nỗi sửng sốt khi hay tin đại úy Morstan mất tích. Chúng tôi đọc chi tiết nội vụ đăng trong các nhật báo, và được biết ông ấy là bạn thân của cha tôi, nên chúng tôi công nhiên thảo luận vụ ấy trước mặt ông. Vả lại; chính ông cụ cũng tham gia ý kiến với chúng tôi để giải thích điều bí ẩn này. Nhưng tuyệt nhiên, không bao giờ, một trong hai chúng tôi lại có ý ngờ rằng ông cụ lại giữ kín điều bí mật tận đáy lòng. Tuy nhiên, ông cụ biết rõ, và trên đời này chỉ có mình ông cụ mà thôi, về số phận của Arthur Morstan.

Có điều chúng tôi cảm thấy một điều bí ẩn nào đó, một hiểm nguy thật sự đang đe dọa cha chúng tôi. Ông cụ rất sợ phải ra phố một mình và mướn cả hai cựu võ sĩ quyền anh chuyên nghiệp làm người gác cổng. Williams, người đã đưa quý vị đến đây tối nay là một trong hai tay đó. Đã có dạo anh chàng này là vô địch hạng nhẹ của nước Anh đấy. Cha chúng tôi không muốn thổ lộ nguyên nhân những nỗi sợ hãi của ông, nhưng ông cụ vô cùng kinh tởm những người đi chân gỗ, đến độ, một ngày nọ, ông cụ không do dự bắn một phát súng ngắn vào một người như thế, mà thực ra đó chỉ là một nhân viên chào hàng vô hại đang đi kiếm mối. Chúng tôi đã phải trả một khoản tiền rất lớn mới giữ kín được việc này. Anh tôi và tôi sau cùng rồi cũng cho đây chỉ là tính ngông của tuổi già thôi. Nhưng các sự cố tiếp theo buộc chúng tôi phải thay đổi ý kiến.

Đầu năm 1882 trong lúc đang đọc báo trước bữa điểm tâm, cha tôi nhận một bức thư từ Ấn Độ gởi sang. Ông suýt ngất xỉu và cũng từ ngày đó ông cụ héo hon dần. Lúc ấy chúng tôi không đọc được nội dung lá thư kia, nhưng đến khi ông cụ tỉnh lại tôi thấy nó chỉ gồm vài câu viết hí hoáy. Suốt nhiều năm sau, ông cụ mắc chứng sưng gan; tình trạng suy sụp rất nhanh. Khoảng cuối tháng Tư, chúng tôi được thông báo là ông cụ không còn hy vọng gì nữa và muốn nói chuyện với chúng tôi một lần cuối.

Khi chúng tôi bước vào phòng, ông cụ đang ngồi, người được đỡ bằng nhiều gối, và thở rất khó nhọc. Ông bảo chúng tôi khóa cửa lại và ngồi xuống bên cạnh giường. Nắm chặt lấy tay chúng tôi, ông cụ thuật lại chúng tôi nghe một câu chuyện thật là ly kỳ. Cơn xúc động và đau đớn đôi lúc đã khiến ông phải ngắt lời. Tôi cố gắng kể lại nguyên văn lời ông:

"Vào giây phút cuối cùng này - Ông cụ nói - chỉ còn một điều duy nhất làm cha khổ tâm: đó là cung cách cha đã đối xử với cô gái mồ côi của anh bạn Morstan đáng thương của cha. Do cái tính keo kiệt đáng nguyền rủa vốn là nguyên nhân tội lỗi của cha, cô bé đã bị truất mất một kho báu mà ít ra nó cũng có quyền được hưởng một nửa. Tuy nhiên, chính cha cũng không sử dụng đến của ấy, bởi vì tính keo kiệt đã khiến cha đâm ra mù quáng và ngu xuẩn. Của cải đã khiến cha quên hết tất cả nên cha không muốn chia sớt cho ai, dầu ít đến đâu chăng nữa.

Các con có trông thấy chuỗi ngọc bên cạnh lọ thuốc quinine của cha không? Đấy, mãi cho đến nay, cha vẫn chưa quyết định dứt khoát là nên xa nó đấy, các con à. Vì thế mà cha đã lấy nó ra với quyết định gởi nó cho cô gái kia đấy. Vậy, nay đến lượt các con, các con hãy gởi cho cô ấy một phần công bằng trong kho báu vật Arga 1 nhưng chớ gởi gì cả, dẫu chỉ là một hạt ngọc trước khi cha chết. Dầu sao thì cũng có rất nhiều người còn đau yếu hơn cha mà vẫn bình phục được!".

Giờ cha sẽ cho các con biết Morstan đã chết như thế nào - Ông cụ nói tiếp - Từ lâu, ông ấy mắc chứng đau tim, nhưng chẳng nói cho ai biết cả. Chỉ có mình cha là rõ chuyện ấy. Dạo còn ở bên Ấn Độ, nhờ thời cơ đặc biệt lạ lùng, ông ấy và cha nắm trong tay một kho báu to lớn. Cha chuyển nó về Anh và ngay tối hôm về nước, Morstan đến đòi phần mình. Ông ta đã đi bộ từ nhà ga và chính Lal Chowdar, tên gia nhân trung thành của cha chết từ sau dạo ấy, đã đưa ông ta vào nhà. Một cuộc cãi vã bùng ra sau khi ông ấy và cha bàn tính chuyện chia chác kho báu. Lúc tức giận cực điểm, Morstan vụt đứng dậy, rồi đột ngột đưa tay sang bên. Mặt mất hết thần sắc, ông ngã ngửa người ra. Đầu ông chạm mạnh vào góc chiếc hộp đựng báu vật. Cha cúi xuống nhìn xem và kinh hoàng khi thấy ông ta đã chết.

Cha ngồi bất động hồi lâu trong ghế bành, đầu óc trống rỗng, chẳng biết phải làm gì nữa, ý nghĩ đầu tiên của cha lúc bấy giờ dĩ nhiên là chạy đi cầu cứu. Nhưng nếu thế thì chẳng hội đủ điều kiện để cha bị buộc vào tội sát nhân đó sao? Cái chết của ông ta xảy đến trong một cuộc cãi vã; lại còn vết da đầu nứt lúc ông ấy té; bao nhiêu suy đoán chống lại cha. Hơn nữa, một cuộc điều tra chính thức sẽ phát hiện về kho báu vật kia, điều mà cha chẳng muốn phổ biến tí nào. Morstan đã báo với cha rằng: chẳng ai hay biết gì về việc ông ấy đến nhà cha; vậy thì cũng chẳng cần để cho ai biết thêm làm gì nữa. Cha đang mải suy nghĩ như thế thì, lúc ngước mắt lên, bỗng dưng cha thấy Lal Chowdar hiện ra trong khung cửa. Hắn bước vào không một tiếng động rồi khóa trái cửa lại.

"Thưa chủ nhân, ngài đừng e sợ gì cả! Hắn bảo - Chẳng cần để cho ai biết ngài đã giết ông ta. Ta đem đi giấu cho xa đi thì còn ai mà biết nữa?"

- Ta không giết ông ấy!

Lal Chowdar lắc đầu mỉm cười.

"Tôi đã nghe thấy, thưa chủ nhân - Hắn bảo -Tôi đã nghe cuộc đấu khẩu và tôi cũng đã nghe tiếng nổ. Nhưng miệng tôi đã khóa lại rồi. Mọi người trong nhà đang ngủ. Nào, ta hãy đưa ông ấy đi cho xa".

Những câu nói ấy giúp cha quyết định. Nếu tên gia nhân trung thành nhất của mình mà còn không tin được là mình vô tội, thì làm sao cha có thể thuyết phục mười hai bị thịt trong bồi thẩm đoàn? Lal Chowdar và cha phi tang thi thể ngay trong đêm ấy. Ít hôm sau báo chí London thắc mắc về vụ mất tích đầy bí ẩn của đại úy Morstan. Cứ theo lời cha thuật lại, các con cũng thấy là không thể đổ riệt cái chết ấy cho cha được. Sai lầm của cha là ở chỗ chẳng những cha đã cất giấu thi thể của Morstan, mà còn giấu luôn cả kho báu vật, trong đó một phần đương nhiên thuộc về Morstan hoặc con cháu ông ta. Vậy nên cha muốn các con hoàn trả lại số của đó. Lại gần đây mà xem này. Kho báu vật được cất giấu trong...

Ngay lúc đó, nét mặt của ông cụ bỗng thất sắc vì khiếp đảm: cặp mắt điên dại và mồm há hốc ra. "Đuổi nó đi ngay! Trời ơi, đuổi nó đi ngay". Ông hét lớn bằng cái giọng mà tôi không bao giờ quên được. Chúng tôi trông về phía cửa sổ nơi ông cụ đang nhìn chăm chăm. Một khuôn mặt từ trong bóng tối hiển ra nhìn chúng tôi chăm chú. Một cái đầu rậm tóc râu với tia nhìn hung bạo, man rợ, chất chứa mốt nỗi căm hờn cháy bỏng. Chúng tôi đổ xô về phía cửa sổ, nhưng người kia đã biến mất. Khi chúng tôi trở về chỗ ông cụ, thì cằm ông đã gục xuống và mạch ông đã ngừng đập.

Đêm ấy chúng tối sục sạo khắp khu vườn, nhưng chẳng tìm thấy gì ngoài dấu chân thọt giữa luống hoa. Nếu không có dấu chân này, chắc chúng tôi sẽ nghĩ rằng khuôn mặt hung dữ kia chỉ là do trí tưởng tượng của chúng tôi tạo ra. Tuy vậy, chúng tôi có thêm một bằng chứng khác nữa, còn rõ ràng hiển nhiên hơn, là kẻ thù đang vây bủa chúng tôi. Thật vậy, qua sáng hôm sau người ta thấy cửa sổ phòng cha chúng tôi có ai đã mở trước rồi; tủ, ngăn kéo bị lục soát kỹ, và trên ngực người chết, có gắn một mảnh giấy với hàng chữ nguệch ngoạc: "Dấu bộ tứ". Đến nay chúng tôi vẫn chưa hiểu được những từ ấy có ý nghĩa gì, mà cũng chẳng rõ ai là tác giả. Mới nhìn qua thì chẳng có gì mất mát cả tuy đồ đạc đã bị lục tung lên. Từ câu chuyện đầy chất quái đản này, anh tôi và tôi đã đặt mối liên hệ bình thường với nỗi khiếp sợ mà cha chúng tôi đã phải chịu đựng cả cuộc đời. Nhưng với chúng tôi điều bí ấn kia vẫn còn nguyên vẹn.

Người đàn ông nhỏ bé ấy ngừng lại để đốt ống điếu cày rồi im lặng hút vài hơi trong một lúc. Ba chúng tôi ngồi yên, bàng hoàng trong câu chuyện lạ lùng này. Trong những khoảnh khắc ngắn ngủi mà cái chết của thân phụ được mô tả lại, cô Morstan biến sắc, tái nhợt và tôi sợ rằng nàng bất tỉnh. Tuy nhiên, nàng cũng đã trấn tĩnh được sau khi uống cốc nước tôi đã kín đáo rót cho nàng ở chiếc bình pha lê kiểu Venetian ở bên cạnh. Sherlock Holmes ngồi lọt vào ghế trong một tư thế lơ đãng, đôi mắt lim dim. Trông anh tôi không thể không nhớ lại mới hồi sáng nay thôi, anh than phiền về cái tầm thường của cuộc sống! Thì ít ra bây giờ anh chuẩn bị mang tài xét đoán sáng suốt của mình ra thử thách đây... Cái nhìn của ông Thaddeus Sholto lần lượt chuyển từ người này qua người khác. Hiển nhiên là tự hào về tác dụng do câu chuyện kể gây nên, thỉnh thoảng ông ngừng lại để kéo một khói thuốc.

Như quý vị có thể đoán được, anh tôi và tôi rất quan tâm đến kho báu mà cha chúng tôi đã đề cập tới. Tuần này qua tháng nọ, chúng tôi lùng sục, đào xới từng mảnh đất trong vườn song chẳng tìm ra chỗ cất giấu. Cứ nghĩ đến điều bí mật kia đã đọng lại trên môi khi ông cụ qua đời là cũng đủ khiến chúng tôi điên tiết vì chán ngán. Cứ nhìn vào chuỗi ngọc kia chúng tôi cũng đoán ra được kho báu kia phải rực rỡ, lộng lẫy đến đâu rồi. Vả chăng, anh tôi và tôi, chúng tôi cũng đã tranh luận nhau về chuyện này. Những hạt ngọc tất nhiên là có một giá trị to lớn và anh Bartholomew không muốn phải xa rời chúng. Nói riêng để quý vị biết là anh tôi thừa hưởng được của cha tôi cái xu hướng biển lận. Anh ấy cũng nghĩ rằng chuỗi ngọc kia có thể gợi trí tò mò và đem đến cho chúng tôi những chuyện phiền phức sau này. Anh chỉ đồng ý với tôi một điểm là tôi sẽ tìm ra địa chỉ cô Morstan và cứ đều đặn gởi đến cô một viên ngọc, để cô khỏi phải sống trong cảnh thiếu thốn.

- Ông thật là nhân từ bác ái quá - Người thiếu nữ hồn nhiên nói - Tôi biết ơn ông vô cùng!

Người đàn ông khoát tay.

- Ấy không phải thế đâu? Ông nói - Chúng tôi là những kẻ thụ thác của cô. Hay ít ra đó cũng là điều suy nghĩ của tôi, chứ thú thật với quý vị là anh Bartholomew không hiểu như tôi. Bản thân chúng tôi sống trong cảnh an nhàn sung túc. Tôi không còn ham muốn gì nữa. Vả chăng, thật là quá tệ nếu tỏ ra bủn xỉn với một phụ nữ. Người Pháp đã chẳng nói một cách chẳng kém lịch sự là "Sự thiếu ý tứ dẫn đến tội ác" 2 đó sao? Tóm lại, mối bất hòa giữa chúng tôi ngày càng sâu sắc hơn nên tôi thấy tốt hơn là tôi nên đi ở riêng. Thế là tôi rời khỏi biệt trang Pondicherry, mang theo Williams và tên gia nhân người Ấn già3.

Nhưng hôm qua tôi được hay một tin rất quan trọng: kho báu đã bị khám phá. Lập tức tôi viết thư cho cô Morstan, và giờ đây tôi chỉ còn mỗi một việc là đi đến Norwood để đòi phần của chúng ta. Đêm qua, tôi đã trình bày quan điểm của tôi với anh tôi. Cuộc viếng thăm của chúng ta chắc hẳn là không ai mong muốn đâu, nhưng chắc là có người đợi.

Ông Thaddeus Sholto ngừng nói, nhưng vẫn không ngớt cựa quậy trên chiếc ghế nệm tròn sang trọng. Tất cả chúng tôi đều ngồi lặng yên suy nghĩ kỹ hơn về những biến chuyển mới trong vụ đầy bí ẩn này, và Holmes là người đầu tiên đứng dậy.

- Từ đầu chí cuối, ngài đã hành động rất đúng, thưa ngài - Anh nói - Có lẽ chúng tôi còn phải khiêm tốn tỏ lòng biết ơn đối với ngài vì ngài đã làm sáng tỏ những điểm còn tối tăm khó hiểu đối với chúng tôi. Nhưng bây giờ cũng đã muộn rồi, như cô Morstan đã nhận thấy, và ta không nên phí mất thì giờ.

Gia chủ cẩn thận cuộn ống hút bình thuốc trả lại rồi lấy từ sau tấm màn cái áo măng-tô dài và nặng, cổ bằng da lông cừu non. Ông cài nút cẩn thận mặc dầu khí hậu nặng nề không lạnh này và sửa lại trên đầu chiếc cát-két bằng da nhỏ với đôi vành che phủ tai.

- Sức khỏe của tôi có phần yếu kém, ông vừa bảo vừa hướng dẫn chúng tôi trong dãy hành lang. Vì thế nên tôi buộc phải đề phòng.

Cỗ xe đợi chúng tôi. Cuộc hành trình có vẻ như đã được dự kiến trước, vì người đánh xe cho xe chạy nhanh ngay sau đó. Thaddeus vẫn không ngừng nói bằng giọng ồm ồm át cả tiếng đánh xe lăn trên đường.

- Bartholomew là một con người giàu sáng kiến - Ông bắt đầu nói - Theo quý vị nghĩ thì anh ấy phát hiện ra kho báu bằng cách nào? Anh đi đến kết luận là nó phải nằm vào một nơi nào đó trong nhà. Thế là anh bắt đầu tính toán kích thước chính xác của ngôi nhà, ghi chép vào sổ rồi kiểm tra lại. Cứ thế nên trong nhà không có một inch nào lọt khỏi vòng điều tra tìm kiếm của anh. Chẳng hạn, anh để ý thấy rằng chiều cao toàn bộ ngôi nhà là 74 feet, nhưng khi cộng chiều cao các tầng với nhau, thì chỉ mới có 70 feet, dầu có tính khoảng cách giữa trần và sàn nhà một cách rộng rãi chăng nữa. Vậy còn thiếu 4 feet. Phần thiếu này chắc chắn là phải ở trên mái nhà. Anh ấy liền khoét thủng một lỗ trên trần trong căn phòng cao nhất và phát hiện ra một cái gác nhỏ căn gác xép này bốn bề tường xây kín, nên không ai biết đến nó cả. Ở ngay giữa gác, là kho báu đặt trên hai cây đà. Anh đưa nó xuống qua lỗ hổng, và mở hộp ra... số châu báu trong hộp trị giá ít nhất cũng lên đến nửa triệu sterling 4.

Khi nghe nói đến số tiền khổng lồ này, chúng tôi trố mắt nhìn nhau. Nếu chúng tôi có cách bảo đảm quyền lợi của cô Morstan, người quản gia đang nghèo túng, thì cô sẽ là người nữ thừa kế giàu nhất nước Anh! Một người bạn trung thực dĩ nhiên chỉ có thể vui mừng trước một cái tin như vậy. Nhưng tôi phải hổ thẹn mà thú nhận rằng lòng vị kỷ của tôi mạnh hơn hết mọi sự và tim tôi đã hóa thành chì. Tôi lắp bắp dăm ba câu chúc mừng rồi ngồi thụp vào ghế, đầu gục xuống, đắm chìm trong nỗi thất vọng, không buồn nghe Thaddeus nói năng những gì nữa. Đây đích thực là một kẻ mắc chứng ưu uất lo sợ. Tôi mang máng nghe ông ta tuôn ra một tràng bất tận những triệu chứng bệnh và nài nỉ hỏi thăm tôi về thành phần cấu tạo cùng tác dụng điều trị của vô số thứ thuốc lang băm. Trong túi ông có mang theo vài mẫu xếp ngăn nắp trong một cái túi da. Tôi mong sao ông chẳng nhớ được gì về những câu trả lời của tôi đêm hôm ấy. Holmes cả quyết là anh có nghe tôi bảo ông ta hãy coi chừng chớ dùng quá hai giọt dầu đu đủ kẻo nguy hiểm. Và tôi cũng đề nghị ngược lại và nên dùng mã tiền với liều lượng cao để làm thuốc xổ. Dẫu sao tôi cũng thấy nhẹ nhõm khi cỗ xe dừng lại sau cái lắc cuối cùng. Người đánh xe nhảy xuống khỏi ghế, mở cửa cho chúng tôi.

- Đây là biệt trang Pondicherry, thưa cô Morstan –Thaddeus Sholto vừa nói vừa đưa tay đỡ cô xuống.

--------------------------------

Chú thích:

1         Một thành phố cổ của Ấn Độ.

2         Nguyên văn: "Le mauvais gout mene au crime." (tiếng Pháp).

3         Nguyên văn: khitmutgar

4         Đơn vị tiền tệ Anh, có giá trị tương đương đồng pound.

➖➖➖

 

 

Arthur Conan Doyle

The Sign Of The Four

Chapter III. In Quest of a Solution

It was half-past five before Holmes returned. He was bright, eager, and in excellent spirits,—a mood which in his case alternated with fits of the blackest depression.

"There is no great mystery in this matter," he said, taking the cup of tea which I had poured out for him. "The facts appear to admit of only one explanation."

"What! you have solved it already?"

"Well, that would be too much to say. I have discovered a suggestive fact, that is all. It is, however, VERY suggestive. The details are still to be added. I have just found, on consulting the back files of the Times, that Major Sholto, of Upper Norword, late of the 34th Bombay Infantry, died upon the 28th of April, 1882."

"I may be very obtuse, Holmes, but I fail to see what this suggests."

"No? You surprise me. Look at it in this way, then. Captain Morstan disappears. The only person in London whom he could have visited is Major Sholto. Major Sholto denies having heard that he was in London. Four years later Sholto dies. WITHIN A WEEK OF HIS DEATH Captain Morstan's daughter receives a valuable present, which is repeated from year to year, and now culminates in a letter which describes her as a wronged woman. What wrong can it refer to except this deprivation of her father? And why should the presents begin immediately after Sholto's death, unless it is that Sholto's heir knows something of the mystery and desires to make compensation? Have you any alternative theory which will meet the facts?"

"But what a strange compensation! And how strangely made! Why, too, should he write a letter now, rather than six years ago? Again, the letter speaks of giving her justice. What justice can she have? It is too much to suppose that her father is still alive. There is no other injustice in her case that you know of."

"There are difficulties; there are certainly difficulties," said Sherlock Holmes, pensively. "But our expedition of to-night will solve them all. Ah, here is a four-wheeler, and Miss Morstan is inside. Are you all ready? Then we had better go down, for it is a little past the hour."

I picked up my hat and my heaviest stick, but I observed that Holmes took his revolver from his drawer and slipped it into his pocket. It was clear that he thought that our night's work might be a serious one.

Miss Morstan was muffled in a dark cloak, and her sensitive face was composed, but pale. She must have been more than woman if she did not feel some uneasiness at the strange enterprise upon which we were embarking, yet her self-control was perfect, and she readily answered the few additional questions which Sherlock Holmes put to her.

"Major Sholto was a very particular friend of papa's," she said. "His letters were full of allusions to the major. He and papa were in command of the troops at the Andaman Islands, so they were thrown a great deal together. By the way, a curious paper was found in papa's desk which no one could understand. I don't suppose that it is of the slightest importance, but I thought you might care to see it, so I brought it with me. It is here."

Holmes unfolded the paper carefully and smoothed it out upon his knee. He then very methodically examined it all over with his double lens.

"It is paper of native Indian manufacture," he remarked. "It has at some time been pinned to a board. The diagram upon it appears to be a plan of part of a large building with numerous halls, corridors, and passages. At one point is a small cross done in red ink, and above it is '3.37 from left,' in faded pencilwriting. In the left-hand corner is a curious hieroglyphic like four crosses in a line with their arms touching. Beside it is written, in very rough and coarse characters, 'The sign of the four,—Jonathan Small, Mahomet Singh, Abdullah Khan, Dost Akbar.' No, I confess that I do not see how this bears upon the matter. Yet it is evidently a document of importance. It has been kept carefully in a pocket-book; for the one side is as clean as the other."

"It was in his pocket-book that we found it."

"Preserve it carefully, then, Miss Morstan, for it may prove to be of use to us. I begin to suspect that this matter may turn out to be much deeper and more subtle than I at first supposed. I must reconsider my ideas." He leaned back in the cab, and I could see by his drawn brow and his vacant eye that he was thinking intently. Miss Morstan and I chatted in an undertone about our present expedition and its possible outcome, but our companion maintained his impenetrable reserve until the end of our journey.

It was a September evening, and not yet seven o'clock, but the day had been a dreary one, and a dense drizzly fog lay low upon the great city. Mud-colored clouds drooped sadly over the muddy streets. Down the Strand the lamps were but misty splotches of diffused light which threw a feeble circular glimmer upon the slimy pavement. The yellow glare from the shop-windows streamed out into the steamy, vaporous air, and threw a murky, shifting radiance across the crowded thoroughfare. There was, to my mind, something eerie and ghost-like in the endless procession of faces which flitted across these narrow bars of light,—sad faces and glad, haggard and merry. Like all human kind, they flitted from the gloom into the light, and so back into the gloom once more. I am not subject to impressions, but the dull, heavy evening, with the strange business upon which we were engaged, combined to make me nervous and depressed. I could see from Miss Morstan's manner that she was suffering from the same feeling. Holmes alone could rise superior to petty influences. He held his open note-book upon his knee, and from time to time he jotted down figures and memoranda in the light of his pocket-lantern.

At the Lyceum Theatre the crowds were already thick at the side-entrances. In front a continuous stream of hansoms and fourwheelers were rattling up, discharging their cargoes of shirtfronted men and beshawled, bediamonded women. We had hardly reached the third pillar, which was our rendezvous, before a small, dark, brisk man in the dress of a coachman accosted us.

"Are you the parties who come with Miss Morstan?" he asked.

"I am Miss Morstan, and these two gentlemen are my friends," said she.

He bent a pair of wonderfully penetrating and questioning eyes upon us. "You will excuse me, miss," he said with a certain dogged manner, "but I was to ask you to give me your word that neither of your companions is a police-officer."

"I give you my word on that," she answered.

He gave a shrill whistle, on which a street Arab led across a four-wheeler and opened the door. The man who had addressed us mounted to the box, while we took our places inside. We had hardly done so before the driver whipped up his horse, and we plunged away at a furious pace through the foggy streets.

The situation was a curious one. We were driving to an unknown place, on an unknown errand. Yet our invitation was either a complete hoax,—which was an inconceivable hypothesis,—or else we had good reason to think that important issues might hang upon our journey. Miss Morstan's demeanor was as resolute and collected as ever. I endeavored to cheer and amuse her by reminiscences of my adventures in Afghanistan; but, to tell the truth, I was myself so excited at our situation and so curious as to our destination that my stories were slightly involved. To this day she declares that I told her one moving anecdote as to how a musket looked into my tent at the dead of night, and how I fired a double-barrelled tiger cub at it. At first I had some idea as to the direction in which we were driving; but soon, what with our pace, the fog, and my own limited knowledge of London, I lost my bearings, and knew nothing, save that we seemed to be going a very long way. Sherlock Holmes was never at fault, however, and he muttered the names as the cab rattled through squares and in and out by tortuous by-streets.

"Rochester Row," said he. "Now Vincent Square. Now we come out on the Vauxhall Bridge Road. We are making for the Surrey side, apparently. Yes, I thought so. Now we are on the bridge. You can catch glimpses of the river."

We did indeed bet a fleeting view of a stretch of the Thames with the lamps shining upon the broad, silent water; but our cab dashed on, and was soon involved in a labyrinth of streets upon the other side.

"Wordsworth Road," said my companion. "Priory Road. Lark Hall Lane. Stockwell Place. Robert Street. Cold Harbor Lane. Our quest does not appear to take us to very fashionable regions."

We had, indeed, reached a questionable and forbidding neighborhood. Long lines of dull brick houses were only relieved by the coarse glare and tawdry brilliancy of public houses at the corner. Then came rows of two-storied villas each with a fronting of miniature garden, and then again interminable lines of new staring brick buildings,—the monster tentacles which the giant city was throwing out into the country. At last the cab drew up at the third house in a new terrace. None of the other houses were inhabited, and that at which we stopped was as dark as its neighbors, save for a single glimmer in the kitchen window. On our knocking, however, the door was instantly thrown open by a Hindoo servant clad in a yellow turban, white loosefitting clothes, and a yellow sash. There was something strangely incongruous in this Oriental figure framed in the commonplace door-way of a third-rate suburban dwelling-house.

"The Sahib awaits you," said he, and even as he spoke there came a high piping voice from some inner room. "Show them in to me, khitmutgar," it cried. "Show them straight in to me."


 

Chapter IV. The Story of the Bald-Headed Man

We followed the Indian down a sordid and common passage, ill lit and worse furnished, until he came to a door upon the right, which he threw open. A blaze of yellow light streamed out upon us, and in the centre of the glare there stood a small man with a very high head, a bristle of red hair all round the fringe of it, and a bald, shining scalp which shot out from among it like a mountain-peak from fir-trees. He writhed his hands together as he stood, and his features were in a perpetual jerk, now smiling, now scowling, but never for an instant in repose. Nature had given him a pendulous lip, and a too visible line of yellow and irregular teeth, which he strove feebly to conceal by constantly passing his hand over the lower part of his face. In spite of his obtrusive baldness, he gave the impression of youth. In point of fact he had just turned his thirtieth year.

"Your servant, Miss Morstan," he kept repeating, in a thin, high voice. "Your servant, gentlemen. Pray step into my little sanctum. A small place, miss, but furnished to my own liking. An oasis of art in the howling desert of South London."

We were all astonished by the appearance o the apartment into which he invited us. In that sorry house it looked as out of place as a diamond of the first water in a setting of brass. The richest and glossiest of curtains and tapestries draped the walls, looped back here and there to expose some richly-mounted painting or Oriental vase. The carpet was of amber-and-black, so soft and so thick that the foot sank pleasantly into it, as into a bed of moss. Two great tiger-skins thrown athwart it increased the suggestion of Eastern luxury, as did a huge hookah which stood upon a mat in the corner. A lamp in the fashion of a silver dove was hung from an almost invisible golden wire in the centre of the room. As it burned it filled the air with a subtle and aromatic odor.

"Mr. Thaddeus Sholto," said the little man, still jerking and smiling. "That is my name. You are Miss Morstan, of course. And these gentlemen—"

"This is Mr. Sherlock Holmes, and this is Dr. Watson."

"A doctor, eh?" cried he, much excited. "Have you your stethoscope? Might I ask you—would you have the kindness? I have grave doubts as to my mitral valve, if you would be so very good. The aortic I may rely upon, but I should value your opinion upon the mitral."

I listened to his heart, as requested, but was unable to find anything amiss, save indeed that he was in an ecstasy of fear, for he shivered from head to foot. "It appears to be normal," I said. "You have no cause for uneasiness."

"You will excuse my anxiety, Miss Morstan," he remarked, airily. "I am a great sufferer, and I have long had suspicions as to that valve. I am delighted to hear that they are unwarranted. Had your father, Miss Morstan, refrained from throwing a strain upon his heart, he might have been alive now."

I could have struck the man across the face, so hot was I at this callous and off-hand reference to so delicate a matter. Miss Morstan sat down, and her face grew white to the lips. "I knew in my heart that he was dead," said she.

"I can give you every information," said he, "and, what is more, I can do you justice; and I will, too, whatever Brother Bartholomew may say. I am so glad to have your friends here, not only as an escort to you, but also as witnesses to what I am about to do and say. The three of us can show a bold front to Brother Bartholomew. But let us have no outsiders,—no police or officials. We can settle everything satisfactorily among ourselves, without any interference. Nothing would annoy Brother Bartholomew more than any publicity." He sat down upon a low settee and blinked at us inquiringly with his weak, watery blue eyes.

"For my part," said Holmes, "whatever you may choose to say will go no further."

I nodded to show my agreement.

"That is well! That is well!" said he. "May I offer you a glass of Chianti, Miss Morstan? Or of Tokay? I keep no other wines. Shall I open a flask? No? Well, then, I trust that you have no objection to tobacco-smoke, to the mild balsamic odor of the Eastern tobacco. I am a little nervous, and I find my hookah an invaluable sedative." He applied a taper to the great bowl, and the smoke bubbled merrily through the rose-water. We sat all three in a semicircle, with our heads advanced, and our chins upon our hands, while the strange, jerky little fellow, with his high, shining head, puffed uneasily in the centre.

"When I first determined to make this communication to you," said he, "I might have given you my address, but I feared that you might disregard my request and bring unpleasant people with you. I took the liberty, therefore, of making an appointment in such a way that my man Williams might be able to see you first. I have complete confidence in his discretion, and he had orders, if he were dissatisfied, to proceed no further in the matter. You will excuse these precautions, but I am a man of somewhat retiring, and I might even say refined, tastes, and there is nothing more unaesthetic than a policeman. I have a natural shrinking from all forms of rough materialism. I seldom come in contact with the rough crowd. I live, as you see, with some little atmosphere of elegance around me. I may call myself a patron of the arts. It is my weakness. The landscape is a genuine Corot, and, though a connoisseur might perhaps throw a doubt upon that Salvator Rosa, there cannot be the least question about the Bouguereau. I am partial to the modern French school."

"You will excuse me, Mr. Sholto," said Miss Morstan, "but I am here at your request to learn something which you desire to tell me. It is very late, and I should desire the interview to be as short as possible."

"At the best it must take some time," he answered; "for we shall certainly have to go to Norwood and see Brother Bartholomew. We shall all go and try if we can get the better of Brother Bartholomew. He is very angry with me for taking the course which has seemed right to me. I had quite high words with him last night. You cannot imagine what a terrible fellow he is when he is angry."

"If we are to go to Norwood it would perhaps be as well to start at once," I ventured to remark.

He laughed until his ears were quite red. "That would hardly do," he cried. "I don't know what he would say if I brought you in that sudden way. No, I must prepare you by showing you how we all stand to each other. In the first place, I must tell you that there are several points in the story of which I am myself ignorant. I can only lay the facts before you as far as I know them myself.

"My father was, as you may have guessed, Major John Sholto, once of the Indian army. He retired some eleven years ago, and came to live at Pondicherry Lodge in Upper Norwood. He had prospered in India, and brought back with him a considerable sum of money, a large collection of valuable curiosities, and a staff of native servants. With these advantages he bought himself a house, and lived in great luxury. My twin-brother Bartholomew and I were the only children.

"I very well remember the sensation which was caused by the disappearance of Captain Morstan. We read the details in the papers, and, knowing that he had been a friend of our father's, we discussed the case freely in his presence. He used to join in our speculations as to what could have happened. Never for an instant did we suspect that he had the whole secret hidden in his own breast,—that of all men he alone knew the fate of Arthur Morstan.

"We did know, however, that some mystery—some positive danger— overhung our father. He was very fearful of going out alone, and he always employed two prize-fighters to act as porters at Pondicherry Lodge. Williams, who drove you to-night, was one of them. He was once light-weight champion of England. Our father would never tell us what it was he feared, but he had a most marked aversion to men with wooden legs. On one occasion he actually fired his revolver at a wooden-legged man, who proved to be a harmless tradesman canvassing for orders. We had to pay a large sum to hush the matter up. My brother and I used to think this a mere whim of my father's, but events have since led us to change our opinion.

"Early in 1882 my father received a letter from India which was a great shock to him. He nearly fainted at the breakfast-table when he opened it, and from that day he sickened to his death. What was in the letter we could never discover, but I could see as he held it that it was short and written in a scrawling hand. He had suffered for years from an enlarged spleen, but he now became rapidly worse, and towards the end of April we were informed that he was beyond all hope, and that he wished to make a last communication to us.

"When we entered his room he was propped up with pillows and breathing heavily. He besought us to lock the door and to come upon either side of the bed. Then, grasping our hands, he made a remarkable statement to us, in a voice which was broken as much by emotion as by pain. I shall try and give it to you in his own very words.

"'I have only one thing,' he said, 'which weighs upon my mind at this supreme moment. It is my treatment of poor Morstan's orphan. The cursed greed which has been my besetting sin through life has withheld from her the treasure, half at least of which should have been hers. And yet I have made no use of it myself,-—so blind and foolish a thing is avarice. The mere feeling of possession has been so dear to me that I could not bear to share it with another. See that chaplet dipped with pearls beside the quinine-bottle. Even that I could not bear to part with, although I had got it out with the design of sending it to her. You, my sons, will give her a fair share of the Agra treasure. But send her nothing—not even the chaplet—until I am gone. After all, men have been as bad as this and have recovered.

"'I will tell you how Morstan died,' he continued. 'He had suffered for years from a weak heart, but he concealed it from every one. I alone knew it. When in India, he and I, through a remarkable chain of circumstances, came into possession of a considerable treasure. I brought it over to England, and on the night of Morstan's arrival he came straight over here to claim his share. He walked over from the station, and was admitted by my faithful Lal Chowdar, who is now dead. Morstan and I had a difference of opinion as to the division of the treasure, and we came to heated words. Morstan had sprung out of his chair in a paroxysm of anger, when he suddenly pressed his hand to his side, his face turned a dusky hue, and he fell backwards, cutting his head against the corner of the treasure-chest. When I stooped over him I found, to my horror, that he was dead.

"'For a long time I sat half distracted, wondering what I should do. My first impulse was, of course, to call for assistance; but I could not but recognize that there was every chance that I would be accused of his murder. His death at the moment of a quarrel, and the gash in his head, would be black against me. Again, an official inquiry could not be made without bringing out some facts about the treasure, which I was particularly anxious to keep secret. He had told me that no soul upon earth knew where he had gone. There seemed to be no necessity why any soul ever should know.

"'I was still pondering over the matter, when, looking up, I saw my servant, Lal Chowdar, in the doorway. He stole in and bolted the door behind him. "Do not fear, Sahib," he said. "No one need know that you have killed him. Let us hide him away, and who is the wiser?" "I did not kill him," said I. Lal Chowdar shook his head and smiled. "I heard it all, Sahib," said he. "I heard you quarrel, and I heard the blow. But my lips are sealed. All are asleep in the house. Let us put him away together." That was enough to decide met. If my own servant could not believe my innocence, how could I hope to make it good before twelve foolish tradesmen in a jury-box? Lal Chowdar and I disposed of the body that night, and within a few days the London papers were full of the mysterious disappearance of Captain Morstan. You will see from what I say that I can hardly be blamed in the matter. My fault lies in the fact that we concealed not only the body, but also the treasure, and that I have clung to Morstan's share as well as to my own. I wish you, therefore, to make restitution. Put your ears down to my mouth. The treasure is hidden in—' At this instant a horrible change came over his expression; his eyes stared wildly, his jaw dropped, and he yelled, in a voice which I can never forget, 'Keep him out! For Christ's sake keep him out!' We both stared round at the window behind us upon which his gaze was fixed. A face was looking in at us out of the darkness. We could see the whitening of the nose where it was pressed against the glass. It was a bearded, hairy face, with wild cruel eyes and an expression of concentrated malevolence. My brother and I rushed towards the window, but the man was gone. When we returned to my father his head had dropped and his pulse had ceased to beat.

"We searched the garden that night, but found no sign of the intruder, save that just under the window a single footmark was visible in the flower-bed. But for that one trace, we might have thought that our imaginations had conjured up that wild, fierce face. We soon, however, had another and a more striking proof that there were secret agencies at work all round us. The window of my father's room was found open in the morning, his cupboards and boxes had been rifled, and upon his chest was fixed a torn piece of paper, with the words 'The sign of the four' scrawled across it. What the phrase meant, or who our secret visitor may have been, we never knew. As far as we can judge, none of my father's property had been actually stolen, though everything had been turned out. My brother and I naturally associated this peculiar incident with the fear which haunted my father during his life; but it is still a complete mystery to us."

The little man stopped to relight his hookah and puffed thoughtfully for a few moments. We had all sat absorbed, listening to his extraordinary narrative. At the short account of her father's death Miss Morstan had turned deadly white, and for a moment I feared that she was about to faint. She rallied however, on drinking a glass of water which I quietly poured out for her from a Venetian carafe upon the side-table. Sherlock Holmes leaned back in his chair with an abstracted expression and the lids drawn low over his glittering eyes. As I glanced at him I could not but think how on that very day he had complained bitterly of the commonplaceness of life. Here at least was a problem which would tax his sagacity to the utmost. Mr. Thaddeus Sholto looked from one to the other of us with an obvious pride at the effect which his story had produced, and then continued between the puffs of his overgrown pipe.

"My brother and I," said he, "were, as you may imagine, much excited as to the treasure which my father had spoken of. For weeks and for months we dug and delved in every part of the garden, without discovering its whereabouts. It was maddening to think that the hiding-place was on his very lips at the moment that he died. We could judge the splendor of the missing riches by the chaplet which he had taken out. Over this chaplet my brother Bartholomew and I had some little discussion. The pearls were evidently of great value, and he was averse to part with them, for, between friends, my brother was himself a little inclined to my father's fault. He thought, too, that if we parted with the chaplet it might give rise to gossip and finally bring us into trouble. It was all that I could do to persuade him to let me find out Miss Morstan's address and send her a detached pearl at fixed intervals, so that at least she might never feel destitute."

"It was a kindly thought," said our companion, earnestly. "It was extremely good of you."

The little man waved his hand deprecatingly. "We were your trustees," he said. "That was the view which I took of it, though Brother Bartholomew could not altogether see it in that light. We had plenty of money ourselves. I desired no more. Besides, it would have been such bad taste to have treated a young lady in so scurvy a fashion. 'Le mauvais gout mene au crime.' The French have a very neat way of putting these things. Our difference of opinion on this subject went so far that I thought it best to set up rooms for myself: so I left Pondicherry Lodge, taking the old khitmutgar and Williams with me. Yesterday, however, I learn that an event of extreme importance has occurred. The treasure has been discovered. I instantly communicated with Miss Morstan, and it only remains for us to drive out to Norwood and demand our share. I explained my views last night to Brother Bartholomew: so we shall be expected, if not welcome, visitors."

Mr. Thaddeus Sholto ceased, and sat twitching on his luxurious settee. We all remained silent, with our thoughts upon the new development which the mysterious business had taken. Holmes was the first to spring to his feet.

"You have done well, sir, from first to last," said he. "It is possible that we may be able to make you some small return by throwing some light upon that which is still dark to you. But, as Miss Morstan remarked just now, it is late, and we had best put the matter through without delay."

Our new acquaintance very deliberately coiled up the tube of his hookah, and produced from behind a curtain a very long befrogged topcoat with Astrakhan collar and cuffs. This he buttoned tightly up, in spite of the extreme closeness of the night, and finished his attire by putting on a rabbit-skin cap with hanging lappets which covered the ears, so that no part of him was visible save his mobile and peaky face. "My health is somewhat fragile," he remarked, as he led the way down the passage. "I am compelled to be a valetudinarian."

Our cab was awaiting us outside, and our programme was evidently prearranged, for the driver started off at once at a rapid pace. Thaddeus Sholto talked incessantly, in a voice which rose high above the rattle of the wheels.

"Bartholomew is a clever fellow," said he. "How do you think he found out where the treasure was? He had come to the conclusion that it was somewhere indoors: so he worked out all the cubic space of the house, and made measurements everywhere, so that not one inch should be unaccounted for. Among other things, he found that the height of the building was seventy-four feet, but on adding together the heights of all the separate rooms, and making every allowance for the space between, which he ascertained by borings, he could not bring the total to more than seventy feet. There were four feet unaccounted for. These could only be at the top of the building. He knocked a hole, therefore, in the lathand-plaster ceiling of the highest room, and there, sure enough, he came upon another little garret above it, which had been sealed up and was known to no one. In the centre stood the treasure-chest, resting upon two rafters. He lowered it through the hole, and there it lies. He computes the value of the jewels at not less than half a million sterling."

At the mention of this gigantic sum we all stared at one another open-eyed. Miss Morstan, could we secure her rights, would change from a needy governess to the richest heiress in England. Surely it was the place of a loyal friend to rejoice at such news; yet I am ashamed to say that selfishness took me by the soul, and that my heart turned as heavy as lead within me. I stammered out some few halting words of congratulation, and then sat downcast, with my head drooped, deaf to the babble of our new acquaintance. He was clearly a confirmed hypochondriac, and I was dreamily conscious that he was pouring forth interminable trains of symptoms, and imploring information as to the composition and action of innumerable quack nostrums, some of which he bore about in a leather case in his pocket. I trust that he may not remember any of the answers which I gave him that night. Holmes declares that he overheard me caution him against the great danger of taking more than two drops of castor oil, while I recommended strychnine in large doses as a sedative. However that may be, I was certainly relieved when our cab pulled up with a jerk and the coachman sprang down to open the door.

"This, Miss Morstan, is Pondicherry Lodge," said Mr. Thaddeus Sholto, as he handed her out.

 

➖➖➖