Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 89 đăng ngày 2021-06-26
***
CHUYỆN ALI BABA VÀ BỐN MƯƠI TÊN CƯỚP
Tác giả: Vô danh
Tiếng Việt: Phan Quang dịch từ bản dịch tiếng Pháp của Antoine Galland;
Tiếng Anh: được lấy từ “The Harvard Classics”, Charles W. Eliot sưu tầm và tuyển chọn.

Trong một thành phố nọ thuộc nước Ba Tư, có hai anh em nhà kia. Người anh tên là Catxim, người em tên là Ali Baba. Cha họ chết đi, để lại ít của cải, được chia thành hai phần giống nhau; những tưởng số phận họ rồi cũng sẽ giống nhau, không ngờ sự tình cờ lại xui nên khác.

Catxim cưới vợ, người vợ này chẳng bao lâu sau khi kết hôn, được thừa kế một cửa hiệu đàng hoàng cùng một kho đầy hàng hóa tốt, lại thêm nhiều ruộng đất nữa, khiến cho gã trở thành một trong những thương nhân giàu có nhất thành phố.

Ali Baba, ngược lại, lấy một người vợ cũng nghèo như mình, ở nhà cửa tồi tàn. Để kiếm sống và nuôi con, anh ta chẳng có nghề ngỗng gì ngoài việc vào một khu rừng ở gần, chặt củi xếp lên lưng ba con lừa, đó là tất cả sản vật của anh, mang về phố bán.

Một hôm, Ali Baba vào rừng, chặt gần đủ củi cho ba con lừa thồ, thì chọt trông thấy có một đám bụi tung mù đang tiến thẳng về phía mình. Chăm chú nhìn, anh ta nhận ra đấy là một toán người đang cưỡi ngựa phi nước đại tới.

Mặc dù trong vùng chẳng nghe nói đến trộm cướp bao giờ, Ali Baba vẫn nghi những người cưỡi ngựa kia có thể là bọn đạo tặc. Không kịp nghĩ tới mấy con lừa của mình sẽ còn hay mất, anh chỉ tính tới chuyện thoát thân. Anh trèo lên một cây to, thân cây này cách mặt đất không cao lắm phân thành nhiều cành sát nhau, chỉ để hở một chỗ rất hẹp. Anh ta ngồi vào giữa chỗ phân cành ấy, yên trí là không ai có thể trông thấy mình, cây này mọc cạnh một tảng đá cao hơn nhiều, cách biệt các khối đá chung quanh, và hiểm trở đến mức không ai có thể trèo lên đỉnh bằng bất cứ lối nào.

Các kỵ sĩ cao lớn, vạm vỡ, cưỡi những con ngựa tốt và được trang bị vũ khí đầy đủ, đến gần tảng đá thì xuống ngựa. Ali Baba đếm được bốn mươi người. Nhìn vẻ mặt và cách ăn mặc của họ, không nghi ngờ gì nữa, anh cho đấy là những tên cướp. Anh không nhầm: quả vậy, đấy là những tên cướp, nhưng chúng không gây chuyện ở quanh vùng mà đi cướp bóc thật xa và lấy nơi đây làm chỗ hẹn; những điều trông thấy xác nhận ý nghĩ ấy của anh.

Các kỵ sĩ tháo cương, buộc ngựa lại, lấy một túi đại mạch buộc trên lưng treo vào cổ mỗi con vật cho nó ăn, rồi mỗi tên vác một cái hòm của nó. Phần lớn các hòm trông nặng đến nỗi Ali Baba cho rằng đều chứa đầy vàng hoặc bạc.

Kỵ sĩ mà Ali Baba thấy có vẻ là tên cầm đầu cả bọn, cũng vác cái hòm của nó như những tên khác, tiến đến gần tảng đá, sát ngay gốc cây anh đang nấp. Sau khi vạch bụi bỏ đi mấy bước, hắn đọc rất rành mạch mấy tiếng: “Vừng ơi, hãy mở ra.” Tên cầm đầu bọn cướp vừa đọc xong, lập tức một cánh cửa mở. Sau khi chờ cả bọn vào xong, hắn cũng vào và cánh cửa đóng lại.

Bọn cướp ở lại rất lâu đằng sau tảng đá. Ali Baba sợ nếu mình bỏ trốn chẳng may một tên hoặc cả bọn đi ra trông thấy thì chết, đành ngồi yên trên cây và kiên nhẫn chờ đợi. Tuy cũng có lúc anh nảy ra ý muốn đoạt hai con ngựa, cưỡi một con, dắt một con và xua ba con lừa chạy về phố, nhưng cứ phân vân sợ bị bắt, cuối cùng đành giữ đạo ăn chắc.

Cuối cùng, cánh cửa lại mở, bốn mươi tên cướp từ trong hang đi ra. Tên cầm đầu hồi nãy vào sau rốt, nay lại là người ra đầu tiên. Ali Baba trông thấy cả bọn lần lượt đi qua trước mặt tên đầu lĩnh, và tên này đọc:

“Vừng ơi, hãy đóng cửa lại,” thế là cánh cửa đóng lại ngay. Bọn cướp đến tháo dây ngựa của mình. Buộc chiếc hòm lên lưng, rồi lên yên. Khi tên đầu lĩnh thấy cả bọn đã sẵn sàng, hắn đi lên đầu đoàn, và bọn cướp bỏ đi theo con đường cũ.

Ali Baba chưa tụt xuống khỏi ngọn cây ngay, anh tự nhủ: “Biết đâu chúng chẳng quên một thứ gì và quay trở lại; ta sẽ bị chúng bắt được.” Đưa mắt nhìn theo đợi cho đến khi cả bọn đi mất hút, rồi chờ một hồi lâu nữa cho thật yên tâm, anh mới xuống, vẫn còn nhớ câu thần chú tên đầu lĩnh bọn cướp dùng để mở và đóng cánh cửa, anh tò mò muốn thử xem nếu mình đọc thì có được hiệu quả ấy hay không. Anh vạch bụi cây; nhận ra một cánh cửa khuất đằng sau. Anh đến trước cửa và đọc: “Vừng ơi, hãy mở ra,” thế là lập tức cánh cửa mở rộng. Ali Baba nghĩ mình sẽ bước vào một nơi tối tăm, anh ngạc nhiên thấy trước mắt mình là một cửa hang rộng rãi, sáng sủa, do tay người đào, bên trên vòm khá cao, có mở một lỗ thông hơi để lấy ánh sáng từ trên chiếu vào. Trong hang có nhiều thức ăn dự trữ, hàng đống hàng hóa đắt tiền, lụa là, gấm vóc, những tấm thảm quý, và nhất là tiền vàng và tiền bạc đổ thành đống hoặc chứa trong những cái bị túi da xếp chồng lên nhau. Của cải tiền bạc nhiều đến mức anh nghĩ cái hang này được dùng làm sào huyệt của bọn cướp không phải từ nhiều năm mà có lẽ từ nhiều thế kỷ, hết bọn này đến bọn khác kế tục đến đây.

Không chút đắn đo, Ali Baba bước vào hang. Anh vừa vào khỏi, cánh cửa đóng lại ngay, nhưng anh không chút sợ hãi. Anh đã nắm được câu thần chú để mở cửa.

Anh không màng gì đến bạc mà chỉ chú ý đến tiền vàng, đặc biệt những thứ đựng sẵn trong các túi. Anh lấy nhiều túi, mang ra làm nhiều lần, tùy theo sức có thể mang nổi và vừa đủ cho ba con lừa thồ. Anh đi lùa ba con lừa đang tản mát trở về, đưa đến gần tảng đá, xếp các túi vàng lên, rồi lấy củi chất lên trên để che mắt mọi người. Xong đâu đấy, anh đến trước cửa, vừa đọc xong câu thần chú “Vừng ơi, hãy đóng cửa lại,” là cửa đã sập lại ngay, bởi vì mỗi lần có người vào thì cửa tự đóng, còn mỗi khi có người từ trong hang ra thì cửa vẫn để ngỏ.

Làm xong, Ali Baba trở về thành phố. Đến nhà, anh đánh đàn lừa vào sân sau và đóng cổng lại thật cẩn thận. Anh dỡ ít củi xếp bên trên rồi mang các túi vàng vào nhà đặt trước mặt vợ lúc ấy đang ngồi trên một chiếc ghế dài.

Cô vợ nhấc thử các túi, thấy chứa đầy tiền, đâm nghi chồng vừa đi ăn trộm ở đâu đó về; vì vậy khi anh mang hết các túi vào nhà, chị không nhịn được nữa:

- Ali Baba này, sao anh khốn nạn đến mức… Ali Baba vội ngắt lời:

- Ấy, mình ơi, chớ có làm toáng lên vậy. Tôi không phải là đứa ăn trộm, trừ phi là trộm của quân kẻ trộm. Hãy lắng nghe tôi kể hết vận may, mình sẽ thôi nghĩ xấu về chồng.

Anh dốc các túi thành một đống vàng lớn, làm cô vợ lóa cả mắt, xong anh kể lại câu chuyện từ đầu đến cuối, rồi dặn vợ, điều quan trọng hơn hết là phải giữ bí mật.

Người vợ qua cơn lo sợ, cùng với chồng vui mừng về vận may vừa đến. Chị muốn đếm từng đồng một tất cả đống vàng trước mặt. Ali Baba nói:

- Mình ơi, mình chẳng khôn ngoan chút nào, mình định làm gì đấy? Đến bao giờ mình mới đếm xong? Tôi ra đào một cái hố và chôn ngay đi, chúng ta không được để mất thời giờ.

- Giá mà chúng ta ang áng biết là có được bao nhiêu cũng thích. Tôi sang bên nhà hàng xóm mượn cái đấu, tôi sẽ đong trong khi mình đào hầm.

- Mình ạ, – Ali Baba lại nói – việc mình làm chẳng có lợi ích gì đâu, nếu mình tin tôi thì nên nghỉ đi cho khỏe. Nhưng thôi, mình muốn làm gì thì cứ làm, có điều là phải giữ bí mật.

Để thỏa sự mong muốn của mình, vợ Ali Baba đến nhà Catxim, ông anh chồng, cách cũng chẳng xa.

Catxim không có nhà, chị đành hỏi vợ gã, xin cho mượn cái đấu một chốc. Người chị dâu hỏi muốn mượn đấu to hay đấu bé, vợ Ali Baba xin mượn cái bé thôi.

- Rất sẵn lòng, – người chị dâu nói – thím chờ cho một lát, tôi mang ra ngay.

Cái đấu được tìm thấy ngay, nhưng bà chị dâu xưa nay vẫn biết gia đình Ali Baba nghèo, tò mò muốn biết rõ cô em dâu hôm nay mượn đấu về đong hạt gì, liền nghĩ ra cách bôi một ít mỡ bò vào bên dưới đáy. Trở lại đưa cái đấu cho vợ Ali Baba, xin lỗi để thím chờ lâu, vì tìm mãi mới thấy.

Vợ Ali Baba về nhà, để cái đấu lên đống vàng, đong và đổ sang chiếc ghế dài. Đong xong, chị rất hài lòng vì được con số khá lớn, và mách với chồng vừa lúc anh đào xong hố.

Trong khi Ali Baba chôn vàng, chị vợ muốn tỏ cho chị dâu biết mình mau mắn và đúng hẹn, liền mang trả chiếc đấu ngay, nhưng không để ý có một đồng vàng dính vào dưới đáy.

- Chị ạ, chị thấy là em chẳng giữ lâu cái đấu của chị làm gì; em mang trả chị đây, cảm ơn chị lắm.

Vợ Ali Baba vừa sấp lưng đi, người chị dâu đã nhìn vào đáy đấu, và cực kỳ ngạc nhiên khi thấy có một đồng tiền vàng dính ở đó:

- Quái thật! Ali Baba đong vàng bằng đấu! Thằng khố rách ấy đào đâu ra lắm vàng thế nhỉ?

Ông chồng vắng nhà, như chúng ta đã biết, gã đang trông năm cửa hiệu, chiều tối mới về. Sốt ruột muốn báo cho chồng hay một cái tin chắc chắn sẽ làm gã ngạc nhiên không kém mình, cô vợ thấy thời gian chờ đợi chồng về lâu bằng cả thế kỷ.

Catxim vừa bước vào nhà, cô vợ đã bảo:

- Anh Catxim à, anh tưởng anh giàu; anh nhầm rồi, Ali Baba muôn vạn lần giàu hơn, nó không đếm từng đồng vàng như anh, nó đong vàng bằng đấu.

Catxim hỏi câu nói khó hiểu đó có ý nghĩa gì, cô vợ thuật chuyện, và khoe mánh của mình dùng để biết sự thật. Thị đưa cho chồng xem đồng tiền vàng dính vào đáy đấu. Đồng tiền vàng xưa đến mức gã không biết cả niên hiệu ông vua đúc trên đó.

Đã không vui mừng vì điều may mắn vừa giúp chú em thoát khỏi cảnh khốn cùng, Catxim thấy dậy lên trong lòng sự ganh tị ghê gớm.

Hầu như suốt đêm gã không chạp mắt. Sáng hôm sau, mặt trời chưa mọc gã đã đến nhà Ali Baba. Gã chẳng coi Ali Baba là em trai mình; gã đã quên mất tiếng em kể từ ngày lấy được người đàn bà góa giàu.

Trông thấy em, gã nói ngay:

- Này Ali Baba, các người làm ăn kín tiếng thật. Các người làm ra vẻ nghèo khổ, bần cùng rách rưới, ấy thế mà các người đong vàng bằng đấu.

- Thưa anh, – Ali Baba đáp – em chẳng rõ anh định nói gì với em. Xin anh giảng giải rõ hơn.

- Chú đừng vờ vĩnh nữa! – Catxim nói.

Và giơ đồng tiền vàng mà vợ gã đưa cho, gã nói tiếp:

- Chú có được bao nhiêu đồng giống hệt đồng này, mà bà nhà tôi tìm thấy dính vào đáy cái đấu cho vợ chú mượn hôm qua?

Nghe nói như vậy, Ali Baba biết hai vợ chồng Catxim đã rõ điều bí mật mà anh cố giữ (mà lại do sự cứng đầu của chính vợ anh gây nên nữa chứ). Nhưng đằng nào việc cũng đã xảy ra rồi, có hối cũng chẳng sửa chữa được. Không để lộ cho ông anh thấy chút gì ngạc nhiên hoặc buồn bã, anh thú thật, và thuật lại cho ông anh nghe, do sự tình cờ thế nào mà phát hiện được sào huyệt của bọn cướp ở chỗ nọ. Anh ngỏ ý, nếu ông anh đồng lòng giữ bí mật, thì sẽ chia cho một phần kho tàng.

Catxim trả lời kiêu kỳ:

- Ta đồng ý như vậy, nhưng ta còn muốn biết chính xác kho tàng ấy ở đâu, dấu hiệu, đặc điểm, và nếu ta thích thì làm thế nào để tự ta vào được trong đó. Nếu không, ta sẽ tố giác chú mày với quan trên. Nếu chú mày từ chối, không những chú mày không hy vọng gì có thêm nữa, mà còn mất cả phần chú mày vừa chiếm được, trong khi ta lại được chia phần vì đã cáo giác chú mày.

Ali Baba, do bản chất tốt chứ không vì sợ hãi lời dọa dẫm láo xược của ông anh vô sỉ, nói cho gã biết đầy đủ những điều gã muốn biết, kể cả câu thần chú nhất định phải dùng đến, nếu ai muốn vào hang cũng như muốn từ đó ra ngoài.

Catxim không hỏi Ali Baba nhiều hơn. Gã từ giã em ra về, và quyết tâm phỗng tay trên. Hy vọng một mình chiếm gọn cả kho tàng, sáng hôm sau gã lên đường thật sớm, trước khi trời rạng, cùng mười con la mang những hòm to tướng mà gã định sẽ chứa đầy vàng; lại còn tính toán, tùy theo số của cải sẽ thấy trong hang, chuyến sau nếu cần thì đưa đi nhiều súc vật hơn nữa để chở.

Theo con đường Ali Ba ba chỉ dẫn, gã đến gần tảng đá và nhận ra những dấu hiệu cùng cây cổ thụ mà Ali Baba đã ẩn nấp. Gã tìm được cái cửa và để mở ra gã niệm thần chú “Vừng ơi, hãy mở cửa ra.” Cửa mở, gã đi vào hang, lập tức cửa đóng lại. Xem xét cái hang, gã lóa mắt khi nhìn thấy quá nhiều của cải, hơn cả sự tưởng tượng của gã khi nghe Ali Baba thuật lại. Niềm thán phục càng tăng khi gã xem xét kỹ từng vật riêng biệt.

Vốn keo kiệt và tham lam của cải, hẳn gã sẽ dành suốt cả ngày để ngắm nghía bao nhiêu là vàng bạc tiền của nếu không chợt nhớ ra, mình đến đây cốt để lấy vàng thồ nặng mười con la mang về chứ không phải chỉ để xem.

Gã liền lấy một số túi, sức bao nhiêu mang ra bấy nhiêu; ra tới cửa, đầu óc còn đang mải nghĩ làm sao mang được nhiều hơn nữa, gã đâm quên khuấy mất câu thần chú. Đáng lẽ phải nói: “Vừng ơi, hãy mở ra”, gã lại niệm: “Đại mạch ơi, hãy mở ra” và rất ngạc nhiên thấy cánh cửa không mở mà cứ đóng im ỉm. Gã gọi tên nhiều loại hạt khác, trừ tiếng vừng, và cửa vẫn không chịu mở ra cho.

Catxim không chờ đợi cơ sự này. Trong cơn nguy cấp, gã đâm kinh hoàng. Và càng cố đập óc để nhớ lại tiếng vừng, gã càng làm cho trí nhớ rối như mớ bòng bong. Chẳng mấy chốc cái tiếng ấy biến mất như cả đời gã chưa từng nghe nói đến nó bao giờ. Gã ném xuống đất những túi tiền vừa lấy, và sải bước đi đi lại lại dọc ngang trong hang đá. Bao nhiêu của cải đổ đống dưới chân không còn làm gã động lòng mảy may.

Chúng ta hãy để cho Catxim khóc than cho số phận gã. Tên bất lương ấy chẳng đáng cho ta thương hại.

Đến trưa, bọn cướp trở lại cái hang; sắp tới nơi, chúng trông thấy đàn la của Catxim gần tảng đá con nào cũng mang hòm. Lo lắng về cảnh tượng mới lạ này, chúng cho ngựa phi nước đại đến, khiến lũ la, mà Catxim đã quên không buộc, sợ hãi chạy tản mác trong rừng, xa đến nỗi mất hút không nhìn thấy nữa.

Bọn cướp không thèm đuổi theo các con la. Điều quan trọng hơn đối với chúng là tìm xem chúng thuộc về ai. Trong lúc vài ba tên lùng sục quanh tảng đá, tên đầu lĩnh cùng cả bọn xuống ngựa, tuốt kiếm cầm tay và đi thẳng tới trước cửa, đọc câu thần chú; cánh cửa liền mở ra.

Catxim ở trong hang nghe tiếng ngựa đến gần, biết chắc bọn cướp trở về, và mình sắp chết đến nơi. Quyết định làm điều may ra thì thoát thân được, gã chờ sẵn để khi cánh cửa vừa mở ra thì lao ra ngoài. Sau khi nghe được tiếng vừng mà gã đã quên khuấy mất và thấy cánh cửa vừa mở, gã lập tức lao ra đột ngột đến nỗi xô ngã cả tên đầu lĩnh. Nhưng gã không thể nào chạy thoát khỏi những tên cướp khác, tên nào cũng lăm lăm kiếm ở tay, và bị chúng giết chết ngay lập tức.

Điều quan tâm đầu tiên của bọn cướp sau khi giết chết Catxim là vào ngay trong hang: chúng thấy ở gần cửa hang những chiếc túi gã bắt đầu mang ra đấy, định xếp lên các con la; chúng liền đưa trở về chỗ cũ mà không để ý nhận thấy thiếu phần Ali Baba đã lấy đi hôm trước. Họp nhau lại để bàn bạc về sự kiện vừa rồi, chúng hiểu ngay vì đâu Catxim không ra được ngoài hang, nhưng không làm sao sáng tỏ bằng cách nào gã vào được đến đây. Cũng có ý kiến gã có thể từ trên nóc hang tụt xuống, nhưng lỗ thông ánh sáng ở quá cao, và phía ngoài tảng đá quá hiểm trở, loại trừ khả năng có thể vào bằng con đường đó. Cả bọn đành chịu không làm sao lý giải được. Bọn chúng không thể tin là gã vào qua cửa trừ phi gã biết được câu thần chú. Bọn cướp chắc chắn là chỉ có bọn chúng mới biết điều bí mật. Ở chỗ này chúng đã nhầm vì không hay là Ali Baba tình cờ nghe trộm được, nên cũng là người biết rõ câu thần chú ấy.

Cho dù sự việc đã xảy ra cách nào chăng nữa thì nó cũng quan hệ tới sự an toàn cho tài sản chung của cả bọn, lũ cướp thỏa thuận xả thây Catxim ra làm bốn mảnh, đặt gần cửa ra vào phía trong hang mỗi bên hai mảnh, để làm khủng khiếp bất kỳ kẻ nào dám to gan làm một việc như thế nữa, trừ phi kẻ đó đến một thời gian rất lâu sau, khi mùi hôi thối của xác chết đã tiêu tan mất hết. Quyết định xong, chúng thực hiện ngay; và khi không còn việc gì cầm chân lại nữa, chúng lên ngựa đến những nơi các đoàn nhà buôn mang hàng hóa thường hay qua lại, để đón đường, đâm chém và cướp bóc như thường lệ.

Trong lúc ấy, vợ Catxim rất lo lắng thấy trời tối mịt rồi mà chồng chưa về. Thị hoảng hốt chạy đến nhà Ali Baba:

- Chú ơi, – thị nói – chắc chú cũng đã biết là anh Catxim của chú đi vào rừng có việc gì rồi. Trời tối đã lâu mà không thấy anh ấy về, tôi lo có việc gì không may xảy ra cho anh ấy chăng.

Ali Baba không lạ gì về chuyến đi của ông anh, sau khi nghe những lời gã thốt ra hôm qua. Chính vì vậy anh cố tình không vào rừng hôm ấy để khỏi làm phiền đến gã. Không tỏ ý trách móc để khỏi xúc phạm đến bà chị dâu hoặc ông anh trai, nếu gã còn sống, anh bảo thị chớ nên quá hoảng hốt, chắc chắn Catxim nghĩ là không nên trở về nhà lúc đầu hôm đó thôi.

Vợ Catxim tin ngay, và càng dễ tin bởi vì thị biết chồng thị phải hành động bí mật là điều cực kỳ quan trọng. Thị trở về nhà, kiên nhẫn chờ đợi cho đến nửa đêm. Nhưng sau nửa đêm, thị càng hoảng hốt, càng đau khổ hơn, nhất là vì biết rõ mình không được phép khóc lóc kêu la ầm ĩ làm kinh động hàng xóm. Thế là, nếu lỗi lầm của thị là vô phương cứu chữa, thì thị lấy làm hối hận về tính tò mò rồ dại của mình, vì sự ganh tị đáng chê trách, đã đi sâu vào chuyện làm ăn của em trai và em dâu. Thị khóc suốt đêm, vừa tảng sáng, chạy vội tới nhà báo tin cho em rõ bằng nước mắt hơn là lời nói.

Ali Baba không chờ chị dâu phải nhờ anh chịu khó đi tìm xem ông anh ra sao rồi. Anh vội thắng con lừa, rồi sau khi khuyên giải chị dâu chớ quá buồn phiền, anh đi thẳng vào rừng. Không gặp trên đường đi người anh hoặc đàn la, tới gần tảng đá, nhận thấy có vết máu gần cửa hang, anh biết đây là dấu hiệu không hay rồi.

Anh đến trước cửa hang, đọc câu thần chú; cửa mở, và quang cảnh đáng buồn hiện ra trước mắt: thi thể ông anh bị xả thành bốn mảnh vứt ở hai nơi.

Không chút do dự, quên đi cách đối xử tàn tệ của anh đối với mình, Ali Baba tính ngay tới chuyện làm lễ mai táng. Anh tìm trong hang những thứ có thể gói bốn mảnh thi thể, buộc lên lưng một con lừa rồi xếp củi lên trên để che mắt thế gian. Anh lại vội vã xếp lên lưng hai con lừa kia những túi đầy vàng, rồi cũng lại chất củi lên, giống hệt như lần trước, xong đâu đấy, niệm thần chú đóng cửa hang lại và tìm đường trở về nhà. Anh chỉ đánh hai con lừa chở vàng vào nhà mình và sau khi giao cho vợ việc cất dỡ hàng, cũng như khi nói vắn tắt về việc gì đã xảy ra cho Catxim, anh đánh con lừa kia sang nhà chị dâu.

Ali Baba gõ cửa, người ra mở cửa là Mocjian, một người ở gái lanh lợi, sáng ý và giàu mưu mẹo, có thể làm đến nơi đến chốn những công việc khó khăn nhất; xưa nay Ali Baba từng biết vậy. Vào trong sân, anh dỡ củi và hai túi kia xuống rồi gọi riêng Mocjian ra bảo:

- Mocjian à, điều đầu tiên ta yêu cầu ở cô là tuyệt đối giữ bí mật. Cô sẽ thấy nó cần thiết đến mức nào cho chủ của cô cũng như cho ta. Kia là thi hài chủ cô trong hai cái gói. Chúng ta cần phải chôn cất thi thể anh ấy như thể anh ấy qua đời một cách tự nhiên vậy. Cô hãy để ta bàn chuyện với chủ cô, và chú ý lắng nghe những điều ta nói.

Mocjian đi báo cho bà chủ hay. Ali Baba theo chân cô vào nhà. Người chị dâu nôn nóng hỏi:

- Thế nào chú? Chú có mang tin gì của anh về cho chị đấy? Xem vẻ mặt chú thì chẳng phải là tin vui.

- Chị ạ, tôi không thể nói gì với chị nếu chị không hứa sẽ lắng nghe tôi từ đầu chí cuối mà không mở miệng nói một lời nào. Trong cơ sự này, điều quan trọng không kém đối với tôi, vì lợi ích của chị cũng như sự yên ổn của tôi, là phải hết sức bí mật.

- Ôi! – Người chị thốt lên, nhưng không cao giọng – Qua câu mở đầu này tôi biết là anh ấy không còn nữa, nhưng đồng thời tôi cũng nhận ra cần phải giữ bí mật như lời chú dặn. Thôi đành phải nén lòng vậy, chứ biết làm sao; chú nói đi, tôi nghe đây.

Ali Baba kể cho chị dâu nghe đầu đuôi câu chuyện cho tới khi lấy được xác Catxim về, rồi nói tiếp:

- Chị ạ, việc đã xảy ra quả là đau buồn cho chị, nhất là vào lúc chị không chờ đợi chút nào. Mặc dù điều bất hạnh chẳng có gì bù đắp được, nhưng nếu có điều gì khả dĩ an ủi chị chừng nào, ấy là tôi khuyên chị nên lấy tôi, để có thể gộp phần của cải của trời vừa cho tôi vào tài sản của chị; tôi bảo đảm là vợ tôi sẽ không ghen tuông, và hai người rồi sẽ sống hòa thuận. Nếu chị chấp nhận điều đó thì chúng ta phải nghĩ cách cho ông anh tôi có vẻ như qua đời một cách tự nhiên. Việc này chị có thể tin tưởng ở Mocjian; về phần mình, tôi sẽ hết sức góp phần cho được việc.

Đối với người vợ góa của Catxim, còn đám nào tốt hơn điều Ali Baba vừa đề nghị: Cùng với những tài sản người chồng cũ để lại, lấy được một người chồng mới giàu có hơn, thậm chí với kho tàng vừa phát hiện, còn có thể giàu nhiều hơn. Thị không khước từ, ngược lại còn cho đấy là một cái lý phải chăng để mang lại những niềm an ủi. Thị lau khô nước mắt vừa tuôn lã chã và nén những tiếng gào la thông thường của đàn bà khi chồng mất, chừng ấy đủ chứng tỏ cho Ali Baba biết thị chấp nhận lời anh cầu hôn.

Sau khi dặn dò Mocjian sắm thật tốt vai tuồng, anh để người vợ góa của Catxim lại đó, và đánh lừa về nhà mình.

Mocjian không chậm trễ; cô đi ra cùng một lúc với Ali Baba, đến nhà một thầy lang vẫn bốc thuốc trong vùng. Cô gõ cửa hỏi mua một thứ thuốc viên rất công hiệu dùng trong những căn bệnh hiểm nghèo. Thầy lang nhận tiền, giao thuốc, và hỏi ở nhà chủ cô ai là người ốm nặng vậy. Mocjian thở dài:

- Ôi! Chính là Catxim, ông chủ hiền từ của tôi, chứ còn ai nữa! chẳng biết ông ấy mắc bệnh gì, mà chẳng nói năng ăn uống được gì sất.

Nói xong, cô mang thuốc về nhà, mà thực tế Catxim không còn dùng được nữa.

Ngày hôm sau, lại chính Mocjian đến đập cửa vẫn nhà thầy lang ấy, và nước mắt lưng tròng, hỏi mua một loại thuốc nước mà người ta vẫn dùng cho những người ốm thập tử nhất sinh uống, nếu loại thuốc này mà không công hiệu, thế là biết chẳng hy vọng gì cứu chữa nữa.

- Chao ôi! – Cô buồn rầu nói khi nhận chai thuốc trong tay – Tôi e rằng thứ thuốc nước này rồi cũng chẳng công hiệu gì hơn loại thuốc viên hôm qua. Ôi! Tôi đến bỏ mất một ông chủ tốt bụng xiết bao!

Mặt khác, bà con làng xóm thấy suốt ngày hai vợ chồng Ali Baba nhiều lần qua lại nhà Catxim, vẻ mặt âu sầu. Bởi vậy tối đến chẳng ai ngạc nhiên khi nghe tiếng khóc than thảm thiết của vợ Catxim và nhất là của Mocjian, báo tin gã đã qua đời.

Ngày hôm sau, rất sớm, ngay khi trời vừa bắt đầu rạng, Mocjian vốn biết ở gần chợ có một người thợ chữa giày rất già bao giờ cũng mở hiệu đầu tiên, sớm hơn tất cả mọi người, liền đến tìm ông ta. Cô đến gần, cất tiếng chào, và cúi đầu giúi vào tay ông một đồng tiền vàng.

Baba Muxtafa, đó là tên thường gọi của ông thợ chữa giày, bản tính vui nhộn, bao giờ cũng tìm được một câu hóm hỉnh, nhìn kỹ đồng tiền, bởi vì trời chưa thật sáng tỏ, sau khi nhận ra đúng là vàng, liền nói:

- Quà mở hàng tốt đẹp làm sao! Nào, có việc gì nào? Thân già này sẵn sàng làm giúp.

- Cụ Baba Muxtafa ạ, cụ hãy cầm những thứ cần thiết để khâu, và nhanh chóng đi theo cháu, nhưng với một điều kiện là đến một nơi nào đó, cụ phải để cho cháu bịt mắt cụ lại.

Nghe vậy, Baba Muxtafa làm ra vẻ khó dễ:

- Ô! Ô! Cô lại muốn già này làm một việc gì trái với lương tâm hay danh dự của già chăng?

Mocjian giúi thêm một đồng tiền vàng nữa vào tay ông và nói:

- Nói có trời chứng giám, cháu đâu dám đòi hỏi cụ làm việc gì trái với lương tâm. Xin cụ hãy đến đây, chớ sợ gì sất!

Baba Muxtafa đồng ý để cô dẫn đi, tới một nơi đã định, cô lấy khăn bịt mắt ông già lại rồi dắt đến phòng ông chủ vừa quá cố của mình; cô đưa thẳng ông vào phòng để xác chết, đã xếp bốn mảnh lại cho giống nguyên hình, rồi mới mở băng bịt mắt. Xong, cô nói:

- Cụ Baba Muxtafa, chính để khâu bốn mảnh kia lại với nhau mà cháu dẫn cụ tới đây. Xin cụ chớ để mất thời giờ, chừng nào cụ làm xong, cháu sẽ gửi cụ một đồng vàng nữa.

Baba Muxtafa khâu xong, Mocjian bịt mắt ông già ngay trong phòng, rồi sau khi trả cho ông đồng vàng thứ ba như đã hứa và dặn giữ bí mật, cô dẫn ông lão trở lại nơi bịt mắt lúc đến, mở khăn tay và để ông trở về. Cô còn cẩn thận đứng trông theo cho đến khi ông mất hút, để đề phòng ông lão nảy ra ý tò mò quay trở lại quan sát chính cô ta chăng.

Mocjian đã cho đun sẵn nước để rửa thi hài Catxim, bởi vậy khi Ali Baba đến, vừa lúc cô quay trở về, thì đã có thể lau rửa người, xức nước hương và khâm liệm ông theo đúng phong tục. Người thợ mộc, theo lời đặt hàng của Ali Baba, cũng vừa mang quan tài đến.

Để thợ mộc không nhận thấy điều gì khác thường, Mocjian đón nhận chiếc quan tài ở cổng; sau khi trả tiền và cho người thợ trở về, giúp Ali Baba đặt thi hài và đóng nắp quan tài xong, cô ra giáo đường báo tin mọi việc đã sẵn sàng để làm lễ an táng. Người của giáo đường chuyên lo việc lau rửa thi thể và khâm liệm, xin được làm công việc của họ, nhưng cô trả lời mọi sự đã xong xuôi.

Mocjian vừa quay về đến nhà, đã thấy giáo trưởng và các chức việc khác của giáo đường tới nơi. Bốn người hàng xóm vác quan tài lên vai, và theo sau viên giáo trưởng vừa đi vừa cầu kinh, đưa ra nghĩa địa. Mocjian, với tư cách là con ở của người quá cố, để đầu trần, nước mắt đầm đìa và bứt tóc; sau nữa là Ali Baba cùng những người hàng xóm, những người này thỉnh thoảng lại tách ra để lên đổi vai cho bốn người đang khiêng quan tài, cứ như vậy cho tới nghĩa địa.

Còn người vợ của Catxim, theo phong tục, ở lại nhà mà kêu la than khóc cùng bà con hàng xóm đến dự lễ tang, các bà cùng với người vợ góa lớn tiếng khóc than, làm buồn bã cả vùng.

Bằng cách đó, cái chết bất đắc kỳ tử của Catxim được che giấu và ngụy trang khéo léo giữa bốn người: Ali Baba cùng vợ, người vợ góa của Catxim và Mocjian, khiến cho không một ai trong thành phố hay biết chút gì mà thậm chí chẳng một ai gạn chút ngờ vực.

Ba bốn ngày sau khi chôn cất, Ali Baba chuyển số đồ đạc ít ỏi của mình cùng số tiền lấy được trong kho tàng của bọn cướp – tiền này chỉ chuyển vào ban đêm – sang nhà bà chị dâu góa, để ở đấy luôn, và báo tin cho xóm giềng bè bạn biết mình lấy bà chị dâu. Và, bởi vì những đám cưới kiểu ấy không phải là chuyện lạ trong tục lệ đạo Hồi, chẳng ai lấy việc đó làm ngạc nhiên.

Còn về cái cửa hiệu của Catxim, Ali Baba vốn có một đứa con trai lâu nay vẫn cho học việc ở một nhà buôn lớn và vẫn được người này khen là đức hạnh tốt. Anh cho luôn cậu con trai cái cửa hiệu ấy và còn hứa nếu con tiếp tục ăn ở cho phải đạo, thì sẽ cưới cho một cô vợ thật ra trò, xứng đáng với địa vị của cậu.

Chúng ta hãy để Ali Baba yên hưởng những ngày đầu tiên trong vận may của anh, mà nói về bốn mươi tên cướp. Chúng trở lại hang ổ trong rừng cùng vào lúc đã thỏa thuận với nhau, và đều ngạc nhiên hơn nữa khi thấy số túi vàng giảm bớt. Tên đầu lĩnh nói:

- Thế là chúng ta đã bị phát giác, và sẽ chết tất nếu không phòng bị. Nếu chúng ta không mau mau tìm ra phương sách đối phó, thì vô tình chúng ta để mất bao nhiêu của cải mà tổ tiên chúng ta và chúng ta đã vất vả gian nan biết bao mới có được. Căn cứ vào tình trạng thiệt hại ở đây thì rõ ràng tên kẻ cắp đã bất chợt biết được câu thần chú để mở cửa hang, và may mắn sao chúng ta trở về đúng lúc nó sắp ra. Nhưng nó không phải chỉ có một mình, một tên khác nữa cũng biết câu thần chú. Xác của nó được đưa đi và kho tàng chúng ta giảm bớt là những bằng chứng không thể chối cãi, và bởi vì không có dấu hiệu gì cho thấy có hơn hai đứa nắm được điều bí mật, vậy thì sau khi giết được một tên, chúng ta phải sát hạ nốt tên kia. Các bạn nghĩ sao, hở các trang hảo hán? Các bạn có đồng ý như kẻ này chăng?

Ý kiến của tên đầu lĩnh được cả bọn cho là hợp lý, chúng đều tán thưởng và đi đến thỏa thuận là phải bỏ công chuyện khác để lo riêng vụ này, và sẽ chưa thôi chừng nào chưa làm xong dự định. Tên đầu lĩnh lại nói:

- Tôi hoàn toàn tin tưởng ở sự dũng cảm và lòng gan dạ của các bạn, nhưng trước tất cả mọi sự, cần có một người trong các bạn gan góc, lanh lợi và tháo vát, vào thành phố không mang theo vũ khí và hóa trang thành một du khách từ nơi khác đến. Người ấy phải giở hết tài tháo vát của mình ra để dò hỏi xem trong phố người ta có bàn tán về cái chết bất thường của người nào không? Người ấy chính là kẻ chúng ta đã trừng trị một cách đích đáng, và phải dò xem nhà nó ở đâu. Đó là điều quan trọng chúng ta cần biết trước tiên, để khỏi có hành động gì rồi làm chúng ta hối hận, khi xuất đầu lộ diện ở một nơi đã từ lâu không ai hay biết hành tung chúng ta, mà chúng ta lại rất cần giữ nguyên tình trạng ấy vì lợi ích của mình. Nhưng, để khích lệ trang hảo hán trong số các bạn ở đây sẽ tình nguyện nhận làm việc ấy, và phòng ngừa vị đó nhầm lẫn báo với anh em một địa điểm sai có thể đưa đến nguy cơ tiêu diệt tất cả bọn, tôi xin cân nhắc xem trong trường hợp đó, vị ấy có nên tự ghép mình vào tội chết hay không.

Không chờ đợi cả bọn tỏ ý kiến, một tên cướp đứng ra nói:

- Tôi xin nhận và tôi lấy làm vinh quang xả thân vào chốn gian nguy để làm bổn phận. Nếu tôi làm không được việc, xin các bạn ít ra cũng nhớ cho là kẻ này không phải thiếu nhiệt tâm cũng như dũng khí, vì lợi ích chung của toàn đội.

Sau khi nhận lời khen nồng nhiệt của tên đầu lĩnh và của chúng bạn, tên cướp cải trang để không ai nhận được mặt. Từ giã đồng đội, nó ra đi trong đêm, và tính toán sao cho tới thành phố đúng vừa rạng sáng. Nó đến gần chợ, trông thấy chỉ một cái quán mở, ấy là quán của Baba Muxtafa.

Baba Muxtafa ngồi trên chiếc ghế xếp, tay cầm dùi sẵn sàng làm nghề. Tên cướp đến gần định cất tiếng chào, chợt nhận ra tuổi tác cao của lão, nó nói:

- Cụ già làm việc sớm thế. Lẽ nào cao tuổi như cụ mà mắt còn sáng vậy. Tôi e rằng khi trời sáng tỏ thì mắt cụ không còn đủ tốt để khâu nữa.

- Cho dù ngài là ai, – Baba Muxtafa đáp – đúng là ngài chưa biết rõ lão này. Tôi già thế này nhưng mắt tôi còn sáng lắm. Ngài không thể ngờ là cách đây chưa lâu, tôi đã khâu một xác chết ở một nơi còn kém sáng sủa hơn lúc này.

Tên cướp rất mừng là vừa tới nơi, nói chuyện với người đầu tiên, đã biết được điều khiến nó cất công đến tìm hiểu, mà không cần dò hỏi.

- Một xác chết ư? – Nó ngạc nhiên thốt lên. Và để khích ông già nói tiếp, nó lại hỏi: – Sao lại khâu một xác chết? Hẳn là cụ muốn nói khâu một tấm vải liệm người chết?

- Không, không, – Baba Muxtafa đáp – tôi biết tôi nói gì. Ngài muốn tôi mở miệng, nhưng ngài chẳng biết được gì thêm đâu.

Tên cướp không cần được giải thích sáng tỏ hơn nữa để tin chắc nó đã phát hiện được điều muốn tìm hiểu.

Nó rút ra một đồng tiền vàng đặt vào tay Baba Muxtafa và nói:

- Tôi chẳng muốn đi sâu vào điều bí mật của cụ làm gì mặc dù tôi có thể quả quyết với cụ là tôi sẽ chẳng cho ai biết nếu cụ tâm sự với tôi. Điều duy nhất tôi muốn nhờ cụ là hãy vui lòng cho tôi hay, hoặc dẫn tôi đến và chỉ cho tôi thấy ngôi nhà mà cụ đã khâu xác chết ấy.

Ông già nắm đồng tiền trong tay, sẵn sàng đưa trả lại:

- Cho dù có muốn thỏa mãn điều ngài nhờ, tôi xin quả quyết là không thể làm được, xin ngài hãy tin cho như vậy. Lý do là thế này: Người ta đưa tôi đến một chỗ bịt mắt tôi lại, mới dẫn tôi đến nhà; ở đấy tôi làm xong việc người ta lại bịt mắt và đưa tôi về chỗ cũ. Ngài thấy rõ tại sao tôi không có cách nào giúp ngài.

- Ít ra cụ cũng còn nhớ mang máng con đường mà người ta bịt mắt cụ rồi dắt đi chứ. Xin cụ hãy đi với tôi, tôi sẽ bịt mắt cụ đúng chỗ ấy, rồi hai chúng ta cùng đi theo con đường và rẽ những khúc quanh mà cụ còn nhớ được. Và bởi vì việc làm giúp nào cũng đáng được thưởng công đấy, xin biếu cụ một đồng vàng nữa. Nào, xin cụ hãy giúp cho tôi việc tôi nhờ!

Vừa nói, nó vừa giúi một đồng tiền nữa vào tay cụ già.

Hai đồng tiền vàng hấp dẫn Baba Muxtafa. Lão lặng yên ngắm nghía hai đồng tiền trong lòng bàn tay, vừa cố nghĩ xem nên làm thế nào. Cuối cùng, lão rút hầu bao của mình ra, bỏ hai đồng vàng vào đấy, và nói với tên cướp:

- Tôi không thể nói dứt khoát với ngài rằng tôi nhớ chính xác con đường người ta dẫn tôi đi. Nhưng vì ngài đã muốn như vậy thì chúng ta cùng đi, tôi sẽ cố gắng hết sức nhớ lại xem.

Baba Muxtafa đứng lên, khiến tên kẻ cướp rất bằng lòng. Không cần đóng cửa quán bởi vì cũng chẳng có gì đáng giá để mà sợ mất, lão dẫn tên cướp đến chỗ lần trước Mocjian đã bịt mắt lão. Tới nơi, lão nói:

- Chính chỗ này đây, người ta bịt mắt tôi ở đây, rồi tôi quay về phía ngài đang đứng đây này.

Tên cướp đã sắp sẵn một chiếc khăn tay, liền bịt mắt lão lại, rồi cặp kè dắt lão đi bên cạnh, nửa để cho lão dẫn đường, nửa tự nó dẫn đường lão; đi cho đến nơi lão dừng lại và nói:

- Có lẽ lão đi không quá chỗ này.

Quả thật lão đang đứng trước cửa nhà Catxim, nơi hiện Ali Baba ở. Trước khi cất chiếc khăn bịt mặt lão, tên cướp nhanh nhẹn đưa viên phấn cầm sẵn ở tay, đánh đấu vào cửa. Sau khi tháo khăn, hỏi lão có biết nhà này của ai không. Baba Muxtafa nói lão không phải là người cùng khu phố, cho nên không thể trả lời.

Tên cướp không thể moi gì hơn nữa từ miệng của Baba Muxtafa, liền cảm ơn lão đã chịu khó vì mình. Cho lão trở lại quán của lão, nó tìm đường dông lên rừng, bụng tin chắc là sẽ được đồng bọn hoan nghênh.

Ít lâu sau khi tên cướp và Baba Muxtafa chia tay nhau, Mocjian ra khỏi nhà có việc gì đấy. Lúc trở lại, thấy dấu phấn mà tên cướp vừa vẽ lên cửa, liền dừng lại để xem cho kỹ:

- Cái dấu ấy nghĩa là thế nào? – Cô tự hỏi – Có ai muốn làm hại chủ ta, hay là họ làm như vậy vì nghịch ngợm thôi? Dù với ý đồ nào đi nữa, thì ta cẩn tắc vô áy náy.

Cô liền lấy viên phấn, và bởi vì cửa mấy nhà liền đều giống hệt nhau, cô đánh dấu luôn mấy cái, vào cùng một nơi tương tự, rồi vào nhà mà chẳng nói gì với ông chủ hay bà chủ.

Trong thời gian đó, tên cướp vẫn tiếp tục đi, nó lên tới rừng và gặp đồng bọn rất sớm. Đến nơi, nó thuật lại chuyến đi thành công của mình, còn nói quá đi về sự may mắn là ngay từ phút đầu tiên đã gặp một con người cho biết sự việc đang điều tra, mà chắc chắn ngoài ông lão ra, chẳng còn ai có thể hay biết. Cả bọn lấy làm hài lòng. Sau khi khen ngợi sự nhanh nhảu của nó, tên đầu lĩnh cất lời nói với cả bọn:

- Các bạn ạ, chúng ta không được để mất thời giờ. Hãy lên đường, vũ trang đầy đủ, nhưng lại làm sao cho người ta khỏi thấy là chúng ta mang theo vũ khí. Chúng ta lại phải vào trong thành phố từng nhóm một, kẻ trước người sau, để đừng gây nên sự ngờ vực. Nơi hẹn gặp nhau là ở quảng trường lớn. Một số anh em đứng mạn bên này, một số khác đứng phía bên kia. Trong lúc ấy, tôi sẽ cùng anh bạn vừa mang tin tốt lành về với chúng ta đây đi nhận dạng ngôi nhà, để quyết định xem nên ra tay cách nào là hay nhất.

Lời tên đầu lĩnh được cả bọn nhiệt liệt tán thưởng.

Chẳng mấy chốc cả bọn sẵn sàng lên đường, chúng đi thành từng tốp hai, ba tên một, đi cách nhau khá xa, và vào gọn trong thành phố chẳng để ai ngờ vực. Tên đầu lĩnh và tên buổi sáng đã tới đây, vào sau rốt. Tên này dẫn chỉ huy của nó tới phố có nhà của Ali Baba. Đến trước ngôi nhà có đánh dấu phấn của Mocjian, nó bảo chính là nhà này đây. Nhưng, tiếp tục đi một quãng nữa để khỏi bị nghi ngờ, tên đầu lĩnh để ý thấy ngôi nhà tiếp theo cũng được đánh dấu ở cửa, vào cùng một chỗ ấy. Nó liền chỉ cho tên dẫn đường thấy và hỏi, vậy là nhà này hay nhà kia. Tên đưa đường bối rối, không biết trả lời thế nào, nhất là khi cùng với tên đầu lĩnh, nó thấy những bốn, năm nhà liền đều có vạch phấn giống nhau. Nó thề rằng nó chỉ đánh dấu mỗi một mà thôi, và nói tiếp:

- Tôi không rõ ai là người đánh dấu các nhà kia mà giống hệt nhau như vậy. Thú thật là tôi hoang mang chẳng nhận ra được mình đã đánh dấu nhà nào.

Tên đầu lĩnh thấy mưu đồ của mình đã bị ung từ trong trứng, liền đến quảng trường, gặp một tên đồng bọn. Nó sai báo cho tất cả biết, cả đội đã vất vả một chuyến vô ích, giờ chỉ còn có việc đi tìm đường tháo lui thôi. Chính nó rút trước, cả bọn lần lượt theo sau, vẫn với cung cách như lúc đến.

~

Khi cả bọn tập trung đông đủ trong rừng rồi, tên đầu lĩnh giải thích lý do tại sao nó ra lệnh rút lui. Lập tức, chúng đồng thanh tuyên bố tên dẫn đường đáng tội chết. Chính tên này cũng tự kết tội ấy, nói đáng lẽ nó phải chu đáo hơn, rồi mạnh bạo giương cổ ra để chịu chặt đầu.

Vì sự tồn vong của cả lũ, không thể để cho kẻ khác gây thiệt hại mà không trả thù, một tên cướp khác tự cho mình sẽ được việc hơn tên vừa bị xử phạt, nó bước ra xin được chọn đi làm bổn phận. Cả bọn cướp đồng ý.

Tên này lại đi vào thành phố, lại mua chuộc Baba Muxtafa như tên trước nó đã làm. Lão lại chịu để bịt mắt và dẫn nó tới nhà Ali Baba. Nó đánh dấu đỏ ở một nơi ít lộ liễu hơn, cho rằng như vậy sẽ dễ dàng phân biệt với nhà khác được đánh dấu bằng phấn trắng.

Nhưng một lát sau, Mocjian đi ra khỏi nhà y như hôm trước. Khi trở lại, cái dấu đỏ không thoát khỏi đôi mắt tinh tường của cô. Cô lại lập luận y như hôm trước, và lại không quên đánh dấu phấn đỏ tất cả các cửa nhà hàng xóm, vào cùng một chỗ như nhau.

Tên trộm trở lại với đồng bọn trong rừng, khoe khoang sự cẩn thận mà nó cho là không thể nhầm lẫn, để phân biệt nhà của Ali Baba với các nhà khác. Tên đầu lĩnh cùng với cả bọn đều nghĩ rằng lần này ắt thành công. Chúng lại trở về thành phố, với sự sắp đặt và cung cách đi đường giống hệt như lần trước, cũng mang theo vũ khí được che giấu cẩn thận, sẵn sàng thực hiện ý đồ chúng nghiền ngẫm. Tên đầu lĩnh cùng đứa dẫn đường lại đến thẳng phố có nhà Ali Baba.

Chúng cũng lại gặp trở ngại như lần trước. Tên đầu lĩnh rất bất bình, và tên dẫn đường cũng hoang mang không kém đứa bạn của nó đã làm công việc này lần trước.

Thế là tên trùm buộc phải rút lui cùng đồng bọn và cũng không kém bực mình. Tên dẫn đường, do đã phạm nhầm lẫn, lại tự nguyện giơ cổ ra chịu chém vì tội lỗi của mình.

Thấy toán lâu la của mình đã hụt mất hai tên dũng mãnh. Tên đầu lĩnh sợ nếu cứ tiếp tục dựa vào những đứa khác để dò xem đâu là ngôi nhà thật của Ali Baba, thì sẽ còn tiếp tục chịu tổn thất nữa. Gương của chúng cho nó thấy rõ bọn này chỉ giỏi tay gậy tay đao, còn dùng trí thông minh vào những trường họp như thế này thì hoàn toàn bất lực. Nó đứng ra tự mình đảm đương công việc ấy. Nó vào thành phố và cùng sự giúp đỡ của Baba Muxtafa y như lão từng làm cho hai tên do thám trước, nó đến tận nơi nhưng không dại gì đánh dấu để sau này nhận dạng, mà quan sát thật kỹ lưỡng, không chỉ bằng lòng xem xét đến nơi đến chốn, nó còn đi qua đi lại trước cửa nhà nhiều lần cho đến khi không thể nào nhầm được nữa thì mới thôi.

Hài lòng vì chuyến đi, tên trùm bọn cướp trở lại rừng. Khi đã vào trong hang, nơi cả bọn đang chờ, nó nói:

- Các bạn, bây giờ thì chẳng còn gì có thể ngăn cản chúng ta trả thù tận gốc sự thiệt hại gây nên cho chúng ta. Tôi đã nắm chắc ngôi nhà kẻ thủ phạm mà chúng ta phải trả thù. Trên đường tôi đã suy nghĩ cách ra tay sao cho khéo léo, để không một ai còn có thể biết được nơi ẩn náu cũng như chốn cất giấu kho tàng của chúng ta. Đấy là mục tiêu của chuyến ra quân này; làm khác đi thì chẳng những không có ích mà có thể còn tai hại cho chúng ta. Để đạt được mục đích ấy, – nó nói tiếp – đây là cách tôi nghĩ ra. Sau khi tôi trình bày xong nếu bạn nào nghĩ ra một phương sách tốt hơn xin cứ cho biết.

Thế là nó trình bày cách thức nó định làm. Được cả bọn đồng tình, nó liền sai chúng chia nhau về các thị trấn, các làng lân cận, thậm chí vào cả trong thành phố mua lừa cho đủ số lượng mười chín con, và ba mươi tám chiếc vại bằng da dùng để đựng dầu, một cái chứa đầy dầu, còn những cái khác để không.

Sau hai hoặc ba ngày, bọn cướp đã thu thập đủ các thứ đó. Vì các vại có hơi chật miệng cho việc thực hiện ý đồ của nó, tên đầu lĩnh sai nới ra một chút. Sau khi cả bọn lâu la mang theo vũ khí cần thiết, mỗi đứa vào trong một cái vại, mà không khâu lại chỗ vừa rạch ra để có không khí thở, lại đóng nắp các túi sao cho trông như có vẻ đựng đầy dầu. Để ngụy trang cho khéo hơn nữa, nó lấy dầu bôi lên bên ngoài những chiếc kia.

Mọi thứ được sắp đặt như vậy rồi, ba mươi bảy tên cướp được xếp trên lưng các con lừa, mỗi tên trong một cái vại cùng với cái vại đựng dầu. Tên đầu lĩnh đóng vai người dẫn đường, kéo nhau về thành phố. Chúng tính toán để đến nơi vào buổi tối, chừng một giờ sau khi mặt trời lặn, như đã bàn bạc với nhau. Tên đầu lĩnh đi thẳng tới nhà Ali Baba, với ý định gõ cửa và xin nghỉ nhờ lại ban đêm cùng với đàn lừa, nếu chủ nhà vui lòng cho phép. Nó vừa gõ cửa, đã thấy Ali Baba ra mở cổng. Anh vừa ra đây hóng mát sau bữa cơm chiều. Nó cho đàn lừa đứng lại, thưa với Ali Baba:

- Thưa ngài, tôi từ xa đến mang theo dầu mà ngài trông thấy kia để sáng mai đưa ra chợ bán. Vào giờ này quả thật tôi không biết trọ ở đâu. Nếu không phiền ngài nhiều quá, xin ngài vui lòng cho tôi được nghỉ nhờ một tối, tôi sẽ xin đội ơn ngài.

Mặc dù Ali Baba đã từng trông thấy người đang nói chuyện với mình ở trong rừng, thậm chí nghe cả giọng nói của hắn ta, nhưng làm sao anh có thể nhận ra được tên cầm đầu bốn mươi tên cướp hóa trang dưới dạng một người buôn dầu lương thiện?

- Xin vui lòng, – anh đáp – mời vào!

Nói xong, anh đứng tránh ra bên để tên đầu lĩnh đưa đàn lừa vào. Đồng thời, Ali Baba gọi một người ở đến, ra lệnh, sau khi hàng được dỡ xuống rồi, không những cần lùa đàn lừa vào chuồng mà còn cho chúng ăn cỏ khô và đại mạch nữa. Anh lại chịu khó vào bếp bảo Mocjian mau mau làm cho người khách mới tới một bữa ăn chiều, và soạn cho ông ta chỗ nghỉ trong một căn buồng.

Ali Baba còn làm hơn nữa. Để tiếp đón khách thật ân cần, khi thấy tên đầu lĩnh đã dỡ hết hàng xuống, và đàn lừa được người nhà đánh vào chuồng như anh dặn, hắn ta đang tìm chỗ ngủ ngoài trời, anh liền đến mời hắn vào phòng khách, nói rằng mình không thể nào chịu để khách ngủ đêm ngoài sân. Tên trùm cướp hết lời từ tạ, lấy cớ là không dám phiền, nhưng kỳ thực là để được dễ dàng thực hiện mưu đồ của nó. Ali Baba mời mọc mãi, nó đành không thể không nhận lời.

Không chỉ bằng lòng ngồi tiếp chuyện kẻ đang mưu đồ giết hại mình cho đến khi Mocjian dọn bữa tối ra, Ali Baba còn ngồi nán lại tiếp tục nói những chuyện tưởng làm cho khách vui lòng, cho tới khi hắn ăn xong, anh mới giã từ:

- Xin ngài cứ tự nhiên như ở nhà! – Anh bảo nó – cần gì xin ngài cứ hỏi; bất cứ vật gì ở đây ngài đều có thể dùng.

Tên đầu lĩnh đứng lên cùng một lúc với Ali Baba và tiễn anh ra tận cửa. Trong khi anh vào bếp nói chuyện với Mocjian thì nó ra sân, viện cớ đến chuồng ngựa xem các con lừa của nó còn thiếu gì không.

Sau khi một lần nữa dặn dò Mocjian hãy hết sức chăm nom người khách, đừng để cho ông ta thiếu thốn thứ gì, Ali Baba nói thêm:

- Mocjian à, ta báo trước cho cô biết, sáng mai ta sẽ đi nhà tắm lúc trời chưa sáng. Vậy cô hãy soạn sẵn áo quần thay cho ta và đưa cho Apđanla giữ (Apđanla là tên người đầy tớ trai), rồi nấu cho ta một bát cháo thật ngon, để ta ăn khi đi tắm về.

Trong khi đó, tên trùm kẻ cướp thăm đàn lừa xong, đi ra lệnh cho người của nó nên làm những gì. Nó đi từ vại đầu tiên đến vại cuối và nói với từng đứa: “Khi nào từ căn buồng ta nghỉ, ta ném sỏi xuống, thì các bạn hãy lấy con dao mà các bạn mang theo, rạch chiếc vại từ trên xuống dưới, rồi bước ra ngoài, lập tức ta sẽ đến ngay với các bạn.”

Các con dao mà nó nói, đều nhọn và được mài rất sắc để dùng vào mục đích ấy.

Dặn dò xong, nó trở lại. Vừa đi ngang qua cửa nhà bếp, Mocjian vội cầm đèn dẫn nó vào phòng khách đã dọn dẹp, mời nghỉ lại đấy, sau khi hỏi khách có còn cần thứ gì nữa hay không. Để khỏi bị ngờ vực, lát sau nó tắt đèn, và cứ để nguyên quần áo đi nằm, tự hẹn sẽ dậy hành động sau một giấc ngủ ngắn.

Mocjian không quên những lời chủ dặn. Cô sửa soạn quần áo tắm cho chủ, giao cho Apđanla, anh này cũng chưa đi ngủ, rồi nhóm lửa nấu cháo. Cháo vừa sôi thì cây đèn vụt tắt. Trong nhà hết dầu, nến cũng không còn nốt. Cô lại cần có ánh sáng để hớt bọt cháo, liền phàn nàn với Apđanla.

- Sao cô ngốc quá thế? – Anh ta bảo. – Sao không ra lấy ít dầu ở một trong những cái vại ngoài sân?

Mocjian cảm ơn Apđanla về ý kiến ấy. Trong khi anh đi ngủ ngay cạnh phòng của Ali Baba để sáng mai theo chủ đi nhà tắm sớm, cô cầm cái bình đựng dầu ra sân. Vừa đi đến vại đầu tiên, thì nghe tiếng tên cướp nào trong ấy hỏi thì thào.

- Đã đến giờ chưa?

Dù tên cướp nói rất nhỏ, Mocjian vẫn nghe rành mạch, vì khi dỡ hàng trên lưng lừa xuống, tên đầu lĩnh không những mở nắp chiếc vại này mà còn mở tất cả ra để cho người của nó được thoáng hơn. Bọn này tuy không chết ngạt song vẫn tù túng khó chịu.

Bất kỳ một người ở nào khác, bất chợt thấy có người trong vại, chứ không phải dầu, đã làm ầm ĩ lên và do đó có thể gây nên điều bất hạnh lớn. Nhưng Mocjian khôn ngoan hơn tất cả, cô hiểu ra ngay tức khắc cần phải nhẹm việc này. Ali Baba và cả gia đình, trong đó có cô đang trải qua một cơn nguy biến khẩn cấp, cần phải tìm phương sách đối phó mà không làm ồn ào. Vốn thông minh, cô hiểu nên làm những gì. Bình tĩnh lại ngay, không tỏ ra chút xúc động, cô giả giọng tên đầu lĩnh đáp:

- Chưa, nhưng sắp rồi.

Cô sang vại thứ hai, lại nghe câu hỏi đó, cứ thế cho đến cái vại cuối cùng, và cô lại vẫn trả lời như thế ấy.

Qua việc đó, Mocjian hiểu rằng ông chủ của mình tưởng cho một người buôn dầu trú ngụ, thật ra là để cho ba mươi tám tên cướp, kể cả tên đầu lĩnh vào nhà. Cô vội vàng múc dầu cho đầy cái bình của mình, trở lại nhà bếp rót vào đèn và châm lên, tiếp đó lấy một cái chảo lớn, trở ra sân, vục đầy dầu. Đặt cái chảo lên bếp, cô chất thật đầy củi vào đun, nghĩ rằng dầu càng chóng sôi mình càng mau chóng thực hiện được việc sẽ cứu sống cả nhà. Cuối cùng dầu sôi, Mocjian bưng ra, rót dầu đang sôi sùng sục vào từng vại một, giết chết tất cả bọn cướp, từ tên đầu tới tên cuối. Cả bọn ngoéo không còn đứa nào.

Hành động dũng cảm ấy của Mocjian được thực hiện một cách im lìm, như dự định của cô. Làm xong, cô trở vào nhà bếp với chiếc chảo không, rồi đóng cửa lại. Cô dụi bớt củi, chỉ để lửa cháy lim rim, đủ hầm nhừ nồi cháo nấu cho Ali Baba. Cô tắt đèn, dứt khoát không đi ngủ mà ngồi thật im ắng, nhìn ra cửa sổ trông xuống sân, chờ xem việc gì sẽ xảy ra.

Mocjian chờ chưa được một khắc thì tên đầu lĩnh bọn cướp thức giấc. Nó đứng lên, mở cửa sổ nhìn ra, thấy khắp nhà không còn ánh đèn lửa và hoàn toàn im ắng. Nó ném những viên sỏi xuống báo hiệu, nhiều viên rơi trúng các vại. Nghe tiếng dội lại nó biết chắc như vậy. Nhưng cố lắng tai, nó vẫn không nghe cũng như không thấy đồng bọn của nó động tĩnh gì. Đâm lo, nó lại ném sỏi lần thứ hai rồi lần thứ ba nữa. sỏi lại rơi trúng các vại, thế mà đồng bọn của nó vẫn im lặng như tờ, nó chẳng hiểu ra làm sao cả. Hoảng hốt, nó nhào xuống sân, cố đi hết sức nhẹ nhàng. Đến gần chiếc vại đầu tiên, nó định hỏi tên lâu la mà nó ngỡ còn sống, có phải đang ngủ say chăng, thì chọt ngửi mùi dầu sôi và mùi thịt cháy tỏa ra khỏi vại. Thế là nó hiểu đã thất bại âm mưu giết hại Ali Baba, cướp bóc của cải trong nhà, và nếu có thể thì mang theo luôn cả số vàng của chúng bị mất. Lần lượt đi qua tất cả các vại, nó đều thấy đồng bọn bị giết chết theo cùng một cách. Đến vại đựng dầu, nhìn thấy dầu vơi hẳn đi, nó hiểu ra người ta đã làm thế nào diệt gọn cả lũ, bây giờ không còn ai để tiếp tay cho nó. Tuyệt vọng vì hỏng việc, tên trùm kẻ cướp lẻn qua ngõ sân thông ra vườn. Rồi vượt tường từ vườn này sang vườn khác, cu cậu chuồn thẳng.

Chờ một chốc không nghe có tiếng động, và cũng không trông thấy tên cướp quay lại, Mocjian biết nó đã trốn theo lối nào, vì cổng chính thông ra đường phố đã bị khóa chặt. Hài lòng, và rất vui mừng vì đã gìn giữ trọn vẹn sự bằng yên cho cả nhà, cô đi nằm và ngủ luôn.

Trong thời gian đó, Ali Baba dậy khi trời chưa sáng, cùng với người đầy tớ đến nhà tắm, hoàn toàn không hay biết gì về sự việc kỳ lạ vừa xảy ra trong nhà khi anh ngủ mà Mocjian chẳng hề cho biết. Cô cho rằng không thể để mất thì giờ khi cần đối phó với nỗi nguy hiểm, còn khi làm xong đâu đấy rồi thì lại chẳng cần phải làm mất giấc ngủ của ông chủ làm chi.

Tắm xong trở về nhà, thì mặt trời đã mọc, Ali Baba ngạc nhiên thấy các vại dầu vẫn y nguyên chỗ cũ, và người buôn dầu không đánh đàn lừa ra chợ, liền hỏi Mocjian.

Cô dẫn anh tới, mở từng chiếc vại cho anh thấy, để dễ kể lại rành mạch làm thế nào bảo toàn tính mạng cho cả nhà.

- Thưa ông chủ, xin Thượng đế phù hộ cho ông và cả gia đình ta! Ông sẽ hiểu rõ hơn điều ông muốn biết, khi nhìn thấy những gì tôi chỉ cho ông đây. Mời ông vui lòng đi theo tôi.

Ali Baba đi theo cô. Mocjian đóng cửa lại rồi dẫn anh tới vại thứ nhất:

- Xin ông hãy ghé mắt nhìn vào bên trong, – cô nói -xem có dầu hay không.

Ali Baba nhìn vào, trông thấy một con người trong vại, anh khủng khiếp nhảy thụt lùi và thét lên một tiếng lớn.

- Xin ông đừng sợ hãi, – Mocjian bảo anh – người ông trông thấy kia không còn có thể làm hại ông được nữa. Nó đã từng làm hại nhiều người, nhưng giờ nó không thể làm hại ông nữa hay hại bất cứ người nào khác. Nó chết rồi.

- Mocjian, – Ali Baba kêu lên – tất cả những chuyện cô cho ta thấy đây là thế nào? Hãy nói rõ đi!

- Tôi sẽ nói rõ, – Mocjian đáp – nhưng xin ông chớ tỏ vẻ ngạc nhiên quá, làm thu hút sự tò mò của hàng xóm, họ sẽ muốn biết một việc mà ông rất cần phải giữ cho nhẹm, xin mời ông hãy đi xem các vại khác hẵng.

Ali Baba đi xem các vại, từ chiếc đầu tới chiếc cuối, và thấy dầu đựng trong chiếc cuối này vợi hẳn đi. Xem xong anh đứng im như phỗng, khi nhìn những cái vại, khi thì nhìn Mocjian mà không thốt ra được lời nào, bởi ngạc nhiên quá mức. Cuối cùng khi nói được ra lời, anh hỏi:

- Thế còn lão buôn dầu? Nó ra sao rồi?

- Lão ấy không phải nhà buôn, cũng giống như tôi đây không phải là nhà buôn vậy. Tôi sẽ nói rõ nó ra sao rồi. Nhưng ông vào trong nhà nghe chuyện tiện hơn. Đã đến lúc ông nên dùng một bát cháo nóng; ăn cháo sau khi tắm, có lợi cho sức khỏe.

Trong khi Ali Baba lên buồng mình, Mocjian vào nhà lấy bát cháo bưng lên theo, nhưng anh không chịu ăn ngay mà nói:

- Ta đang nôn nóng muốn biết, cô hãy kể lại cho ta nghe đầy đủ chi tiết câu chuyện lạ lùng đến như vậy.

Vâng lời anh, Mocjian kể:

- Thưa ông, tối hôm qua, khi ông đã đi nghỉ, tôi chuẩn bị áo quần tắm cho ông, như ông vừa dặn, và giao cho Apđanla. Sau đó tôi nhóm lò hầm cháo, và trong khi hớt bọt thì ngọn đèn hết dầu, tắt phụt, mà trong nhà mình cũng chẳng còn một giọt nào. Tôi tìm các mẩu nến, cũng không có nốt. Apđanla thấy tôi bối rối, nhắc tôi ở ngoài sân có nhiều vại đựng dầu. Anh ta tưởng như vậy cũng giống như tôi và ông tưởng. Tôi xách chiếc bình chạy ra ngoài vại gần nhất. Nhưng vừa tới nơi, đã nghe có tiếng người nói: “Đến giờ chưa?” Tôi không sợ hãi, mà hiểu ngay ra thủ đoạn của lão nhà buôn giả hiệu, tôi không ngần ngại đáp: “Chưa, nhưng sắp rồi.” Tôi sang cái vại thứ hai, lại có tiếng người hỏi câu đó, và tôi lại trả lời y như lần trước. Tôi đi qua hết các vại, đến đâu cũng vẫn câu hỏi ấy và vẫn được trả lời như vậy, mãi đến vại cuối cùng mới thấy có dầu thật. Tôi múc đầy bình. Khi nhận ra trong sân nhà có ba mươi bảy tên cướp đang chờ lệnh của trùm bọn chúng, mà ông ngỡ là nhà buôn và đón tiếp linh đình, đến mức đổ cửa đổ nhà ra thết đãi nó, tôi liền không để mất thời giờ.

Tôi mang bình dầu về thắp đèn lên, rồi lấy cái chảo to nhất nhà bếp, đưa ra vục đầy dầu. Tôi đặt chảo lên bếp đun, khi dầu đã sôi sùng sục, tôi mang ra rót vào các vại chứa quân ăn cướp, đủ để ngăn không cho chúng thực hiện ý đồ độc địa đã dẫn chúng tới đây. Mọi việc xong xuôi đâu vào đấy như dự định tôi trở lại bếp, tắt đèn. Trước khi đi ngủ tôi còn ngồi bình tĩnh nhìn qua cửa sổ ngóng xem lão buôn dầu giả sẽ hành động thế nào.

Một lát sau, tôi nghe nó ném sỏi từ cửa sổ xuống để ra hiệu, nhiều viên sỏi rơi chạm vào các vại. Nó ném lần thứ hai rồi một lần thứ ba nữa. Bởi không nghe thấy động tĩnh gì, nó xuống sân. Tôi thấy rõ nó đi từ vại này sang vại khác, rồi sau đó tối quá mất hút không nhìn thấy nữa. Tôi ngóng thêm ít lâu, nhưng không thấy nó trở lại, bèn nghĩ rằng do tuyệt vọng vì hỏng việc, nó đã chuồn theo ngả thông ra vườn rồi. Thế là cho rằng cả nhà đã được bình an, tôi đi ngủ.

Đến đây, Mocjian nói tiếp:

- Đó là câu chuyện ông bảo tôi thuật lại, và tôi tin chắc đấy là cái đuôi của một việc tôi để ý thấy vài ba ngày nay, mà tôi nghĩ chẳng cần thưa ông rõ. Ấy là một lần, vào lúc rất sớm; tôi ra phố về, nhận thấy cửa ra đường của nhà ta có một dấu phấn trắng, rồi hôm sau có một dấu phấn đỏ. Mỗi lần như vậy, tuy không rõ ai có ý đồ gì, tôi vẫn đánh dấu thêm vào cùng chỗ ấy ở cửa hai ba nhà hàng xóm nữa, phía trên cũng như phía dưới nhà ta. Nếu ông ráp nối việc đó với chuyện vừa xảy ra, ông sẽ thấy rằng tất cả mọi việc đều do bọn cướp trong rừng mưu đồ xếp đặt, mà không hiểu sao bọn chúng lại thiếu mặt hai tên. Dù sao đi nữa, bây giờ còn nhiều lắm cũng chỉ ba thằng. Những việc vừa xảy ra chứng tỏ chúng quyết diệt ông, và tốt hơn là ông nên phòng bị, chừng nào còn sót lại một tên trên đời. về phần tôi, tôi sẽ không lơ là trông nom tính mệnh ông cho được bằng an, bổn phận của tôi là như vậy.

Mocjian kể xong, Ali Baba rất lấy làm cảm kích, liền nói:

- Ta chưa chết chừng nào chưa thưởng công xứng đáng cho cô. Cô đã cứu sống ta, và để bắt đầu tỏ lòng cảm ơn, ta cho cô được tự do kể từ giờ phút này, trong khi chờ đợi thực hiện đầy đủ hơn nữa điều ta đang suy tính. Ta cũng tin chắc như cô rằng chính bốn mươi tên cướp đã bày ra những cạm bẫy này để hại ta. Thượng đế đã qua tay cô cứu cho ta thoát khỏi. Ta hy vọng Người sẽ còn bảo hộ ta khỏi tội ác của chúng, và qua đó mà giải thoát cho loài người đỡ những hành vi tội lỗi đáng nguyền rủa của chúng. Công việc chúng ta cần phải làm là chôn ngay những xác chết thối tha kia, sao cho thật bí mật, không để một ai nghi ngờ về số phận của chúng. Công việc này để ta cùng Apđanla lo liệu.

Vườn của Ali Baba rất rộng, ở phía cuối có nhiều cây to. Không chút chậm trễ, anh cùng người đầy tớ trai đào dưới hàng cây ấy một cái hố vừa đủ rộng và sâu để chôn bằng ấy cái xác chết khỏi các vại, lấy vũ khí của chúng để riêng ra, rồi mang ra vườn xếp xuống hố. Sau khi vùi lại, họ san số đất còn thừa ra xung quanh để cho mặt đất bằng phẳng y như cũ, Ali Baba sai cất giấu cẩn thận các vại cùng vũ khí. Còn đàn lừa, vì lúc ấy chưa cần dùng đến, anh cho người đầy tớ trai mang ra ngoài chợ bán dần.

Trong khi Ali Baba lo làm những việc ấy để cho mọi người khỏi thấy được tại sao anh trở nên giàu có trong một thời gian ngắn như vậy, tên đầu lĩnh bọn cướp trở lại rừng, buồn phiền không thể nào tả xiết. Trong niềm xúc động, hay đúng hơn là sự hoang mang về một thất bại sâu cay trái ngược với dự định, hắn vào đến trong hang mà vẫn chưa suy tính được, cũng như trong suốt cả thời gian đi đường, là nên làm gì hoặc không làm gì đây đối với Ali Baba.

Sự cô đơn trong hang thật khủng khiếp đối với hắn.

- Hỡi các trang hảo hán, đồng đội của ta trong những chuyến ngang dọc giang hồ, các bạn đâu cả rồi? Ta có thể làm gì nếu thiếu các bạn? Phải chăng ta đã chọn lọc và tụ tập các bạn lại để rồi trông thấy các bạn bỏ mình cùng một lúc vì số phận tai ương và không chút xứng đáng với sự quả cảm của các bạn? Ta sẽ đỡ thương tiếc hơn, nếu các bạn bỏ mình trong trận mạc, gươm cầm tay, như những trang hảo hán. Đến bao giờ ta mới có thể đào tạo nên một toán tay chân như các bạn. Và dù muốn chăng nữa, sao lại làm chuyện đó trong khi đang phơi bày bao nhiêu vàng, bạc và của cải cho một tên đã làm giàu một phần nhờ những thứ ấy? Ta chưa thể và chưa nên nghĩ đến chuyện ấy chừng nào chưa hạ sát được tên này. Điều mà ta đã không thể làm nên với sự trợ giúp hùng hậu của các bạn, ta sẽ tự làm lấy một mình. Đến bao giờ biết chắc kho tàng của ta không bị kẻ khác nhòm ngó nữa, ta mới cố làm sao để khi qua đời rồi không đến nỗi không có người thừa kế, để cho kho báu ấy được bảo toàn và tiếp tục tăng lên cùng với hậu thế.

Đã định bụng như vậy rồi, thì chẳng khó khăn gì mà không tìm ra cách thực hiện. Thế là lòng tràn trề hy vọng và thanh thản, hắn đi nằm và ngủ yên giấc suốt cả đêm.

Sáng hôm sau, tên đầu lĩnh thức dậy thật sớm, mặc bộ quần áo tươm tất, thích hợp với mưu đồ định thực hiện, đi vào thành phố, đến trọ trong một cái khan. Hắn chờ đợi việc xảy ra ở nhà Ali Baba đang làm ồn ào cả thành phố, vì vậy tìm người gác cổng chuyện trò, hỏi thăm có gì mới lạ xảy ra trong phố xá hay không. Người này kể toàn những chuyện khác xa điều hắn muốn biết.

Từ đó hắn suy đoán ra lý do sở dĩ Ali Baba phải giữ kín nhẹm như vậy, là để khỏi loan truyền rộng rãi cho mọi người biết anh ta làm chủ kho vàng và biết cách thức để vào nơi cất giấu. Hơn nữa, anh ta cũng biết rằng chính vì chuyện ấy mà có người đang âm mưu hại anh ta. Điều đó càng làm cho hắn cũng phải tính toán sao để trừ khử được anh trong vòng bí mật.

Tên đầu lĩnh tậu một con ngựa, dùng ngựa chở từ hang về nơi trọ nhiều loại vải lụa đẹp và đắt tiền, bằng cách đi lại nhiều lần với sự giữ gìn ý tứ để không cho ai biết rõ nơi lấy hàng. Khi xét thấy đã mang về tạm đủ, hắn tìm thuê một cửa hiệu bày ra bán. Tìm được một nơi, nó hỏi thuê, rồi cho sắm đồ đạc và dọn đến ở. Hiệu buôn của hắn đối diện với cửa hiệu trước đây thuộc về Catxim, và nay do con trai của Ali Baba cai quản chưa được bao lâu.

Tên đầu lĩnh kẻ cướp, đội tên là Côjia Hutxanhvới tư cách người mới dọn đến, không quên đi chào hỏi các ông chủ hiệu láng giềng, đúng như phong tục. Nhưng vì cậu con trai Ali Baba còn trẻ, khôi ngô, khá thông minh, và vì có nhiều dịp chuyện trò cho nên chẳng bao lâu hắn kết thân với cậu hơn những người khác. Nó càng chăm lo lui tới và làm thân với người bạn mới quen này nhiều hơn nữa, nhất là ba, bốn hôm sau, khi hắn nhận được ra chính Ali Baba đến thăm và trò chuyện với cậu, như anh thỉnh thoảng vẫn làm.

Hỏi ra, biết rằng đấy chính là cha đẻ của cậu, hắn càng thêm săn đón vuốt ve, quà cáp, đãi đằng, và có nhiều lần mời cậu ta ăn cơm nữa. Cậu con trai của Ali Baba không muốn chịu ơn Côjia Hutxanh nhiều mà không đáp lại. Nhưng cửa hiệu của cậu chật chội, và cũng không có điều kiện thuận tiện để có thể tiếp đãi Côjia Hutxanh như hắn đã tiếp cậu, nếu để lâu hơn nữa mà không đáp lễ Côjia Hutxanh.

Cậu đành nói thật với cha. Ali Baba cho rằng nếu chần chừ lâu hơn nữa mà không đáp lễ thì thật không tiện, và vui lòng nhận lấy việc thiết đãi khách giúp con.

Anh nói:

- Con ạ, mai là thứ sáu, là ngày mà các nhà buôn lớn như Côjia Hutxanh và con đóng cửa hiệu nghỉ, con hãy rủ ông ta đi dạo chơi vào buổi chiều. Khi trở về, con hãy làm sao đưa ông đi ngang qua nhà ta và mời ông ta ghé vào. Như thế sẽ hay hơn là con ngỏ lời mời hẳn hoi. Ta sẽ bảo Mocjian lo sửa soạn bữa tối cho đâu vào đấy.

Chiều thứ sáu, con trai Ali Baba và Côjia Hutxanh hẹn gặp nhau cùng một nơi, rồi cùng đi dạo mát. Trên đường về, cậu con trai cố tình đưa bạn qua phố có nhà của Ali Baba. Đến trước nhà, cậu dừng lại gõ cửa và bảo:

- Đây là nhà cha tôi. Ông cụ nghe tôi kể lại tình bạn mà ngài có lòng hạ cố kết thân với tôi, đã giao cho tôi bổn phận giới thiệu, để cha tôi cũng được hân hạnh làm quen với ngài. Tôi mong ngài vui lòng nhận lời cho một điều ấy nữa, sau bấy nhiêu điều ngài đã làm ơn cho tôi.

Mặc dù Côjia Hutxanh đã đạt được mục đích tự hắn đề ra, là vào nhà của Ali Baba và giết hại anh ta mà không làm nguy hại đến tính mạng của hắn và cũng chẳng gây chuyện ồn ào, hắn vẫn tạ từ, làm ra vẻ muốn xin cáo biệt. Nhưng lúc đó, người ở đã ra mở cổng, và cậu con trai đã nhã nhặn nắm tay hắn, bước vào trước và chèo kéo ép khách cùng vào. Thế là hắn làm như thể vì miễn cưỡng mà vào chơi vậy.

Ali Baba đón Côjia Hutxanh cởi mở và ân cần. Anh cảm ơn hắn về lòng tốt đối với cậu con trai mình.

- Ngài làm ơn cho cháu cũng chính là làm ơn cho tôi vậy. – Anh nói – Nhất là cháu còn trẻ dại, chưa quen giao thiệp với đời. Thật là ngài đã có lòng thương mà góp phần kèm cặp cháu.

Côjia Hutxanh hết lời đưa đẩy, hắn quả quyết với Ali Baba rằng, nếu cậu quý tử của anh chưa từng trải bằng một số vị cao niên nào đó, thì cậu lại có cái khiếu làm cho cậu trội hơn hẳn bao nhiêu người khác từng trải với đời.

Sau vài ba câu trao đổi ngắn ngủi về những chuyện chẳng có liên quan gì đến ai, Côjia Hutxanh làm ra vẻ muốn cáo từ. Ali Baba vội ngăn lại:

- Ấy, ngài định đi đâu, thưa ngài? Xin ngài cho tôi hân hạnh được mời ngài dùng bữa tối với gia đình. Bữa của chúng tôi thật quá xoàng xĩnh đối với ngài. Mặc dù vậy, tôi mong ngài hãy vui lòng nhận lời, đáp lại cái thiện ý của tôi.

- Thưa ngài All Baba, – Côjia Hutxanh đáp – tôi hoàn toàn tin chắc vào thiện ý của ngài, và xin ngài chớ cho việc tôi ra về mà không nhận lời mời mọc ân cần của ngài là xuất phát từ sự khinh khi hoặc bất lịch sự mà chính vì một lý do mà ngài hẳn sẽ đồng tình nếu ngài rõ.

- Lý do gì vậy, thưa ngài? Có thể hỏi ngài được chăng?

- Tôi có thể nói rõ thôi, – Côjia Hutxanh nói tiếp – ấy là bởi tôi không ăn được thịt hoặc các món có bỏ muối; ngài thấy như vậy là tôi phải kiêng khem thế nào khi cùng dùng bữa với ngài.

- Nếu chỉ vì một lý do ấy thôi, – Ali Baba nài – thì không nên vì thế mà ngài không cho tôi được hân hạnh hầu tiếp, trừ phi ngài thật lòng không muốn. Trước hết, trong bánh mì của nhà tôi không có muối, còn về món thịt và món hầm, xin hứa là sẽ không bỏ muối trong đĩa mời ngài, tôi ra lệnh ngay tức khắc cho người nhà. Vậy là xin mời ngài hãy ngồi lại, tôi trở về trong chốc lát thôi.

Ali Baba xuống bếp dặn Mocjian chớ cho muối vào thịt mời khách, và làm thành vài món hầm nhạt, thêm vào số món ăn anh đã dặn làm từ trước.

Mocjian đã nấu nướng xong đâu vào đấy, không thể không bực mình về lệnh mới này. Cô nói thẳng với Ali Baba:

- Vị khách khó tính ấy là ai mà không chịu ăn muối? Bữa ăn chiều của ông thế là chẳng ngon lành gì nữa, nếu tôi phải dọn muộn hơn.

- Chớ có bực mình, Mocjian ạ, – Ali Baba nói – đấy là một con người trung hậu. Cô hãy làm điều ta bảo.

Mocjian vâng lời, nhưng trong bụng không vui. Cô nảy ra sự tò mò muốn biết ông khách không ăn muối ấy là ai. Khi đã nấu nướng xong và Apđanla đã bày ra bàn, cô giúp anh ta bưng thức ăn lên. Nhìn Côjia Hutxanh, cô nhận ra ngay đấy chính là tên đầu lĩnh bọn cướp, mặc dù hắn đã ngụy trang. Xem xét cẩn thận, cô thấy hắn mang theo một con dao găm giấu dưới tà áo. Cô tự bảo:

- Ta chẳng lấy gì làm ngạc nhiên sao tên vô lại này lại không chịu ăn muối cùng với chủ ta. Ông ta là kẻ thù không đội trời chung của hắn mà. Nó muốn giết hại ông nhưng ta sẽ ngăn không cho nó ra tay.

Khi đã cùng với Apđanla bày bàn xong. Mocjian nhân lúc mọi người đang ăn, đi chuẩn bị những thứ cần thiết để làm một việc thật táo bạo; vừa xong thì Apđanla xuống báo đã đến lúc mang trái cây ra. Cô mang trái cây lên, và trong khi Apđanla thu dọn bàn ăn, cô đưa trái cây mời khách. Tiếp đó, cô lại để lại bên cạnh Ali Baba một chiếc bàn nhỏ trên có rượu nho cùng ba cái chén. Bước ra khỏi phòng, cô kéo Apđanla theo, làm như thể gọi nhau đi ăn, để cho Ali Baba, theo phong tục, được tự do trò chuyện và chơi thoải mái với khách, cũng như mời khách uống rượu.

Thế là anh chàng Côjia Hutxanh giả hiệu hay đúng hơn là tên đầu lĩnh bọn cướp tưởng rằng cơ hội thuận tiện để hạ sát Ali Baba đã tới.

- Ta sẽ làm cho cả bố lẫn con mày cùng say túy lúy, -hắn tự nhủ – và thằng con, mà ta muốn để cho sống, lúc ấy cũng không thể ngăn ta thọc lưỡi dao găm vào tim bố nó; rồi ta sẽ theo ngõ sau mà chuồn như ta đã có lần làm, trong khi con nấu bếp và tên đấy tớ ăn chưa xong bữa hoặc đã ngủ kỹ trong bếp.

Nắm được mưu đồ của Côjia Hutxanh giả hiệu, Mocjian không đi ăn tối, và không để cho nó có đủ thời giờ thực hiện tội ác của nó. Cô vận một bộ đồ quần vũ nữ thật tinh tươm, đội chiếc khăn đúng kiểu và thắt một sợi thắt lưng bạc mạ vàng, đeo một con dao găm vỏ và chuôi dao đều bằng bạc, thêm vào đó còn mang một mặt người thật đẹp. Hóa trang như vậy rồi, cô bảo Apđanla:

- Apđanla này, hãy mang cái trống của anh ra đây, chúng ta sẽ mua vui cho vị khách của chủ ta và là bạn của cậu cả, như thỉnh thoảng chúng ta vẫn mua vui cho ông chủ ấy mà.

Apđanla mang trống ra, vừa chơi vừa bước vào phòng, đi trước Mocjian. Cô vào sau cúi đầu chào thật thấp, dáng điệu ung dung và cố tình để người ta nhìn ngắm, làm như thể chờ được phép trình diễn những gì có thể làm.

Apđanla thấy Ali Baba có ý muốn nói, liền thôi đánh trống.

- Hãy vào đi, Mocjian vào đi, – Ali Baba nói – ngài Côjia Hutxanh sẽ xem cô làm được những gì và sẽ nói cho chúng ta hay ý kiến của ngài. Ít ra, thưa ngài, – anh quay sang nói với tên nhà buôn giả hiệu – xin ngài chớ nghĩ là tôi bày ra chuyện tiêu xài tốn kém để mua vui cho ngài. Đây là cây nhà lá vườn, ngài thấy đó, chỉ là tên đầy tớ cùng với cô đầu bếp của gia đình trình diễn mà thôi. Tôi mong ngài sẽ không cho là quá dở.

Côjia Hutxanh không chờ đợi Ali Baba lại có tiết mục giải trí này sau bữa thiết đãi mình. Hắn hiểu ngay, như vậy là không thể lợi dụng được dịp tốt nữa. Sự việc đã diễn ra thế này, âu là đành tự an ủi sẽ tìm được một dịp khác, bằng cách nuôi dưỡng tình bạn bè với cả hai cha con. Bởi vậy, mặc dù trong lòng không muốn Ali Baba bày trò này ra, nó vẫn làm ra vẻ như lấy làm cảm kích, và đành phải nói đãi bôi rằng cái gì ông chủ đã cho là hay thì chắc chắn hắn cũng sẽ lấy làm thích thú.

Khi Apđanla thấy Ali Baba và Côjia Hutxanh thôi nói chuyện với nhau, anh tiếp tục đánh trống và cất giọng hát. Mocjian múa rất khéo, không thua kém gì những vũ nữ chuyên nghiệp, đến nỗi không những mấy người xem ở đây mà bất kỳ ở đâu khác cũng phải thán phục, có loại trừ chăng là anh chàng Côjia Hutxanh giả hiệu đang chẳng còn bụng dạ nào chú ý đến trò vui.

Sau khi múa nhiều khúc cũng duyên dáng cũng mạnh mẽ như nhau, cuối cùng cô rút dao găm ra cầm ở tay, rồi bắt đầu múa một bài còn hay hơn các bài trước, với những cử chỉ uyển chuyển, những bước nhảy bất ngờ, những cố gắng kỳ diệu, khi thì giơ con dao ra phía trước như sắp đâm ai, khi thì quay dao trở lại như định thọc vào chính ngực mình.

Cuối cùng như thể hết hơi, cô giật cái trống khỏi tay Apđanla cầm bằng tay trái, trong khi tay phải vẫn nắm cây dao găm, cô lật ngược cái trống chìa ra trước mặt Ali Baba, bắt chước cách các vũ công và vũ nữ chuyên nghiệp vẫn làm với khán giả để xin tiền thưởng.

Ali Baba ném một đồng tiền vàng vào trống của Mocjian. Cô lại chìa cái trống sang con trai Ali Baba, cậu bắt chước bố cũng thưởng tiền. Côjia Hutxanh thấy cô sắp chìa cái trống về phía mình, đã rút sẵn túi tiền chực thưởng; nó vừa cho tay vào túi thì Mocjian, với sự dũng cảm xứng đáng với tính tình cứng rắn và sự gan dạ cô vẫn biểu lộ cho đến lúc bấy giờ, thọc lưỡi dao vào đúng tim nó, thật sâu, và chỉ rút ra khi tên cướp tắt thở.

Ali Baba và cậu con trai kinh hoàng trước cảnh tượng ấy, anh thét to lên một tiếng:

- Ôi con khốn nạn, – Ali Baba kêu – mày làm gì vậy? Để giết ta và cả gia đình ta hay sao?

- Không phải để giết ông, – Mocjian đáp – tôi làm như vậy là để cứu cho ông sống đấy.

Vén tà áo của Côjia Hutxanh, cô trỏ cho Ali Baba thấy con dao găm của hắn, và nói tiếp:

- Ông thấy đấy, ông gặp một kẻ thù nguy hiểm thế nào. Hãy nhìn kỹ mặt hắn, ông sẽ nhận thấy lão buôn dầu giả hiệu và cũng chính là đầu sỏ của bốn mươi tên cướp ông không để ý hắn không chịu ăn muối cùng với ông ư? Ông còn cần gì thêm nữa để tin chắc âm mưu thâm độc của hắn? Chưa nhìn thấy hắn, tôi đã đâm nghi khi mới nghe ông nói cho hay có một người khách lạ lùng như vậy. Tôi chú ý nhìn kỹ hắn, và các ông rõ rồi đấy, sự nghi ngờ của tôi không phải là vô căn cứ.

Một lần nữa, biết ơn Mocjian đã cứu sống mình lần thứ hai, Ali Baba ôm cô hôn:

- Mocjian à, – anh nói – hôm ta trả lại tự do cho cô, ta đã hứa là không chỉ dừng lại ở đấy, và chẳng bao lâu sẽ còn thưởng một mức cao hơn nữa. Cái ấy đã đến rồi. Ta cưới cô làm con dâu của ta.

Quay về phía cậu con trai, anh nói tiếp:

- Con ơi, cha tin rằng con là đứa con hiếu thảo, con không lấy làm lạ sao cha định cưới Mocjian cho con làm vợ, mà không hỏi trước ý kiến của con. Con cũng chịu ơn nó không kém gì cha. Con thấy đấy, Côjia Hutxanh kết bạn với con là nhằm giết hại cha một cách phản trắc. Nếu nó làm được việc ấy, thì hẳn con không nghi ngờ gì nó không giết con nốt để trả thù. Hãy nên nghĩ thêm rằng, lấy Mocjian con sẽ lấy một người đảm đang cho nhà cha chừng nào cha còn sống, và là người sẽ làm rường cột cho gia đình suốt cả đời con.

Cậu con trai chẳng những không mảy may tỏ ra phật ý, mà còn nói rõ mình bằng lòng kết hôn, không chỉ vì để khỏi trái ý cha, mà chính mình cũng có cảm tình với cô gái ấy.

Tiếp đó, cả nhà Ali Baba lo chuyện chôn xác tên đầu lĩnh bên cạnh xác ba mươi bảy tên cướp kia; công việc ấy làm kín đáo đến nỗi nhiều năm sau người ta mới hay biết, khi không còn một ai quan tâm tới việc công bố câu chuyện đáng ghi nhớ này.

Mấy tháng sau, Ali Baba làm đám cưới cho con trai lấy Mocjian rất trọng thể, chè chén linh đình, kèm theo các cuộc nhảy múa, diễn trò và vui chơi như phong tục đã định. Anh rất vui lòng thấy bạn bè và hàng xóm được mời, đều đến dự đông đủ. Tuy không ai rõ nguyên nhân thật của vụ hôn nhân nhưng ai cũng biết chắc phẩm chất tốt đẹp của Mocjian, cho nên đều hết lời ca ngợi lòng hào hiệp và sự tốt bụng của anh.

Sau lễ cưới, Ali Baba vốn đã tránh không quay trở lại cái hang kể từ lần cuối cùng, khi anh đến lấy xác của ông anh Catxim chở trên lưng lừa mang về với số vàng, vì sợ xáp mặt bọn cướp ở đây. Nay anh cũng tránh không đến, dù ba mươi tám tên cướp, kể cả tên đầu lĩnh, đã bị tiêu diệt, vì anh ngại còn hai tên nữa mà anh chưa rõ số phận ra sao, biết đâu đang còn sống.

Nhưng sau một năm thấy không có hiện tượng gì đáng lo lắng, anh muốn trở lại đấy xem sao. Anh lên ngựa, đến gần cái hang, thấy tuyệt nhiên không có dấu chân người hay chân ngựa, đã cho là triệu chứng đáng mừng. Anh đặt chân xuống đất, buộc ngựa vào một nơi, rồi đến trước cửa hang, đọc câu thần chú mà anh vẫn chưa quên: “Vừng ơi, hãy mở cửa ra.” Cửa hang mở, anh bước vào. Nhìn quang cảnh trong hang, anh biết rằng kể từ khoảng thời gian tên buôn giả hiệu Côjia Hutxanh về thuê một cửa hàng trong phố cho đến nay không có người nào đặt chân vào hang. Như vậy là cả bọn bốn mươi tên cướp đã bị tiêu diệt hoàn toàn trong cùng một lúc. Không nghi ngờ gì nữa, anh là người duy nhất trên đời biết được câu thần chú để mở cửa hang, và như vậy cả một kho tàng này thuộc quyền sở hữu của anh. Hôm ấy có mang theo một cái hòm xách tay, anh lấy vàng vừa đủ sức chở của con ngựa và trở về thành phố.

Từ buổi ấy, Ali Baba cùng con trai, mà anh dẫn đến hang và bày cho câu thần chú để mở cửa, tiếp đến là những thế hệ sau của họ, được truyền khẩu câu đó, nối tiếp sử dụng nguồn của cải ấy một cách phải chăng.

Tất cả đều sống giàu sang và được cất nhắc lên những vai vế quan trọng nhất nhì trong thành phố.

 

Chú thích:

        ‘Côjia’có nghĩa là thương gia (ND).

 

➖➖➖

 

 

Stories from the Thousand and One Nights.

The Harvard Classics.  1909–14.

Translated by Edward William Lane

Revised by Stanley Lane-Poole

***

The Story of ‘Ali Baba and the Forty Thieves

IN former days there lived in a town of Persia two brothers, one named Kasim, and the other ‘Ali Baba. Their father divided a small inheritance equally between them. Kasim married a rich wife, and became a wealthy merchant. ‘Ali Baba married a woman as poor as himself, and lived by cutting wood and bringing it upon three asses into the town to sell.

One day, when ‘Ali Baba was in the forest, and had just cut wood enough to load his asses, he saw at a distance a great cloud of dust approaching him. He observed it with attention, and distinguished soon after a body of horsemen, whom he suspected to be robbers. He determined to leave his asses in order to save himself; so climbed up a large tree, planted on a high rock, the branches of which were thick enough to conceal him, and yet enabled him to see all that passed without being discovered.

The troop, to the number of forty, well mounted and armed, came to the foot of the rock on which the tree stood, and there dismounted. Every man unbridled his horse, tied him to some shrub, and hung about his neck a bag of corn which they carried behind them. Then each took off his saddle-bag, which from its weight seemed to ‘Ali Baba to be full of gold and silver. One, whom he took to be their captain, came under the tree in which he was concealed, and making his way through some shrubs, pronounced the words: “Open, Simsim!” A door opened in the rock; and after he had made all his troop enter before him, he followed them, when the door shut again of itself.

The robbers stayed some time within the rock, during which ‘Ali Baba, fearful of being caught, remained in the tree.

At last the door opened again, and as the captain went in last, so he came out first, and stood to see them all pass by him; when ‘Ali Baba heard him make the door close by pronouncing the words: “Shut, Simsim!” Every man at once went and bridled his horse, fastened his wallet, and mounted again; and when the captain saw them all ready, he put himself at their head, and returned the way they had come.

‘Ali Baba followed them with his eyes as far as he could see them, and afterward waited a long time before he descended. Remembering the words the captain of the robbers used to cause the door to open and shut, he wished to try if his pronouncing them would have the same effect. Accordingly he went among the shrubs, and, receiving the door concealed behind them, stood before it, and said, “Open, Simsim” Whereupon the door instantly flew wide open.

Now ‘Ali Baba expected a dark, dismal cavern, but was surprised to see a well-lighted and spacious chamber, lighted from an opening at the top of the rock, and filled with all sorts of provisions, rich bales of silk, embroideries, and valuable tissues, piled upon one another, gold and silver ingots in great heaps, and money in bags. The sight of all these riches made him suppose that this cave must have been occupied for ages by robbers, who had succeeded one another.

‘Ali Baba went boldly into the cave, and collected as much of the gold coin, which was in bags, as his three asses could carry. When he had loaded them with the bags, he laid wood over them so that they could not be seen. Then he stood before the door, and pronouncing the words, “Shut, Simsim!” the door closed of itself; and he made the best of his way to the town.

When he got home, he drove his asses into a little yard, shut the gates carefully, threw off the wood that covered the panniers, carried the bags into his house, and ranged them in order before his wife. He then emptied the bags, which raised such a heap of gold as dazzled his wife’s eyes, and then he told her the whole adventure from beginning to end, and, above all, recommended her to keep it secret.

The wife rejoiced greatly at their good fortune, and would count all the gold piece by piece. “Wifey,” replied ‘Ali Baba, “you do not know what you undertake, when you pretend to count the money; you will never have done. I will dig a hole, and bury it. There is no time to be lost.” “You are in the right, husband,” replied she, “but let us know, as nigh as possible, how much we have. I will borrow a small measure, and measure it, while you dig the hole.”

So the wife ran to her brother-in-law Kasim, who lived hard by, and addressing herself to his wife desired her to lend her a measure for a little while. The sister-in-law did so, but as she knew ‘Ali Baba’s poverty, she was curious to know what sort of grain his wife wanted to measure, and artfully put some suet at the bottom of the measure.

‘Ali Baba’s wife went home, set the measure upon the heap of gold, filled it, and emptied it often upon the divan, till she had done, when she was very well satisfied to find the number of measures amounted to so many as they did, and went to tell her husband, who had almost finished digging hole. While ‘Ali Baba was burying the gold, his wife carried the measure back again to her sister-in-law, but without taking notice that a piece of gold had stuck to the bottom. “Sister,” said she, giving it to her again, “you see that I have not kept your measure long. I am obliged to you for it, and return it with thanks.”

As soon as she was gone, Kasim’s wife looked at the bottom of the measure, and was amazed to find a piece of gold sticking to it. Envy immediately possessed her breast. “What!” Said she, “has ‘Ali Baba gold so plentiful as to measure it? Whence has he all this wealth?”

Kasim, her husband, was at his shop. When he came home, his wife said to him: “Kasim, I know you think yourself rich, but ‘Ali Baba is infinitely richer than you. He does not count his money, he measures it.” Then she told him the stratagem she had used to make the discovery, and shewed him the piece of money, which was so old that they could not tell in what prince’s reign it was coined.

Now Kasim, after he had married the rich widow, had never treated ‘Ali Baba as a brother, but neglected him; and now, instead of being pleased, he conceived a base envy at his brother’s prosperity. He could not sleep all that night, and went to him in the morning before sunrise. “‘Ali Baba,” said he, “I am surprised at you; you pretend to be miserably poor, and yet you measure gold. My wife found this at the bottom of the measure you borrowed yesterday.”

By this discourse, ‘Ali Baba perceived that Kasim and his wife, through his own wife’s folly, knew what they had so much reason to conceal; but what was done could not be undone. Therefore, without showing the least surprise or trouble, he confessed all, and offered his brother part of his treasure to keep the secret.

Kasim rose the next morning long before the sun, and set out for the forest with ten mules bearing great chests, which he intended to fill, and followed the road which ‘Ali Baba had indicated. He was not long before he reached the rock, and found the place, by the tree and other marks which his brother had given him. When he reached the entrance of the cavern, he pronounced the words, “Open Simsim!” The door immediately opened, and when he was in, closed upon him. In examining the cave, he was rejoiced to find much more riches than he had expected. He quickly laid as many bags of gold as he could carry at the door of the cavern; but his thoughts were so full of the great riches he should possess, that he could not think of the word to make it open, but instead of “Simsim,” said, “Open, Barley!” and was much amazed to find that the door remained fast shut. He named several sorts of grain, but still the door would not open, and the more he endeavoured to remember the word “Simsim,” the more his memory was confounded, and he had as much forgotten it as if he had never heard it mentioned. He threw down the bags he had loaded himself with, and walked distractedly up and down the cave, without having any regard to the riches around him.

About noon the robbers visited their cave. At some distance they saw Kasim’s mules straggling about the rock, with great chests on their backs. Alarmed at this, they galloped full speed to the cave. They drove away the mules, who strayed through the forest so far, that they were soon out of sight, and then, with naked sabres in their hands, they approached the door, which, on their captain pronouncing the proper words, immediately opened.

Kasim, who heard the noise of the horses’ feet, at once guessed the arrival of the robbers, and resolved to make one effort for his life. He rushed to the door, and no sooner saw the door open, than he ran out and threw the leader down; but he could not escape the other robbers, who, with their scimitars, soon deprived him of life.

The first care of the robbers after this was to examine the cave. They found all the bags which Kasim had brought to the door, to be ready to load his mules, and carried them back to their places, but they did not miss what ‘Ali Baba had taken away before. Then holding a council, and deliberating upon this occurrence, they guessed that Kasim, why he was in, could not get out again, but could not imagine how he had learned the secret words by which alone he could enter. So to terrify any person who should attempt the same thing, they cut Kasim’s body into four quarters and hung two on one side, and two on the other, within the door of the cave. Then they mounted their horses, and went to beat the roads again, and to attack the caravans they might meet.

In the meantime, Kasim’s wife was very uneasy, when night came, and her husband was not returned. She ran to ‘Ali Baba in great alarm, and said: “I believe, brother-in-law, that you know Kasim is gone to the forest, and upon what account; it is now night, and he has not returned; I am afraid some misfortune has happened to him.” So after midnight, ‘Ali Baba departed with his three asses, and went to the forest, and when he came near the rock, having seen neither his brother nor the mules in his way, was alarmed at finding some blood spilt near the door, which he took for an ill omen; but when he had pronounced the word, and the door had opened, he was struck with horror at the dismal sight of his brother’s body. He went into the cave, however, to find something to enshroud the remains; and having loaded one of his assess with them, covered them over with wood. The other two asses he loaded with bags of gold, covering them with wood also as before; and then bidding the door shut came away. When he came home, he drove the two asses loaded with gold into his yard, and left the care of unloading them to his wife, while he led the other to his sister-in-law’s house.

There he knocked at the door, which was opened by Marjaneh, a clever slave-girl, who was fruitful in inventions to meet the most difficult circumstances. When he came into the court, he unloaded the ass, and taking Marjaneh aside, said to her: “You must observe an inviolable secrecy. Your master’s body is contained in these two panniers. We must bury him as if he had died a natural death. Go now and tell your mistress. I leave the matter to your wit and skilful devices.”

Marjaneh went out early the next morning to a druggist, and asked for a sort of lozenge which was considered efficacious in the most dangerous disorders. The apothecary inquired who was ill. She replied, with a sigh: “Her good master Kasim himself; and that he could neither eat nor speak.” In the evening Marjaneh went to the same druggist’s again, and with tears in her eyes, asked for an essence which they used to give to sick people only when at the last extremity. “Alas!” said she, taking it from the apothecary, “I am afraid that this remedy will have no better effect than the lozenges, and that I shall lose my good master.”

All that day ‘Ali Baba and his wife were seen going between Kasim’s and their own house, and nobody was surprised in the evening to hear the lamentable shrieks and cries of Kasim’s wife and Marjaneh, who gave out everywhere that her master was dead. The next morning, at daybreak, Marjaneh went to an old cobbler whom she knew to be always early at his stall, and bidding him good morrow, put a piece of gold into his hand, saying: “Baba Mustafa, you must bring with you your sewing tackle, and come with me; but I must tell you, I shall blindfold you when you come to such a place.”

Baba Mustafa seemed to hesitate a little at these words. “Oh! oh!” replied he, “you would have me do something against my conscience or against my honour?” “God forbid!” said Marjaneh, putting another piece of gold into his hand, “that I should ask anything that is contrary to your honour! only come along with me and fear nothing.”

Baba Mustafa went with Marjaneh, who, after she had bound his eyes with a handkerchief at the place she had mentioned, conveyed him to her deceased master’s house, and never uncovered his eyes till he had entered the room where she had put the corpse together. “Baba Mustafa,” said she, “you must make haste and sew the parts of this body together; and when you have done, I will give you another piece of gold.”

After Baba Mustafa had finished his task, she blindfolded him again, gave him the third piece of gold as she had promised, and recommending secrecy to him, carried him back to the place where she first bound his eyes, pulled off the bandage, and let him go home, but watched him that he returned towards his stall, till he was quite out of sight, for fear he should have the curiosity to return and follow her. She then went home, and, on her return, warmed some water to wash the body, and at the same time ‘Ali Baba perfumed it with incense, and wrapped it in the grave-clothes with the accustomed ceremonies. Not long after, they brought the bier, and the Imam and the other ministers of the mosque arrived. Four neighbours carried the corpse to the burying-ground, following the Imam, who recited the prayers. ‘Ali Baba came after, and Marjaneh followed in the procession, weeping, beating her breast, and tearing her hair. Kasim’s wife stayed at home mourning, uttering lamentable cries with the women of the neighbourhood, who came, according to custom, during the funeral, and, joining their lamentations with hers, filled the quarter far and near with sounds of grief.

Three or four days after the funeral, ‘Ali Baba removed his few goods openly to his sister-in-law’s house, in which he would in future live; but the money he had taken from the robbers he conveyed thither by night. As for Kasim’s shop, he intrusted it entirely to the management of his eldest son.

While these things were being done, the forty robbers again visited their retreat in the forest. Great, then, was their surprise to find Kasim’s body taken away, with some of their bags of gold. “We are certainly discovered,” said the captain. “The removal of the body, and the loss of some of the money, plainly shews that the man whom we killed had an accomplice; and for our own lives’ sake we must try and find him. What say you, my sons?”

All the robbers unanimously approved of the captain’s proposal.

  “Well,” said the captain, “one of you, the boldest and most skilful among you, must go into the town, disguised as a traveller and a stranger, to try if he can hear any talk of the man whom we have killed, and endeavour to find out who he was, and where he lived. This is a matter of the first importance, and for fear of any treachery, I propose that whoever undertakes this business without success, even though the failure arises only from an error of judgment, shall suffer death.”

Without waiting for the sentiments of his companions, one of the robbers started up, and said: “I submit to this condition, and deem it an honour to expose my life to serve the troop.” He then disguised himself and went into the town just at daybreak, and walked up and down, till accidentally he came to Baba Mustafa’s stall, which was always open before any of the shops. Baba Mustafa was seated with an awl in his hand, just going to work. The robber gave him good-morrow, and perceiving that he was old, said: “O Uncle, you begin to work very early. Is it possible that one of your age can see so well? I question, even if it were somewhat lighter, whether you could see to stitch.”

“You do not know me,” replied Baba Mustafa; “for old as I am, I have extraordinary good eyes; and you will not doubt it when I tell you that I sewed the body of a dead man together in a place where I had not so much light as I have now.”

“A dead body!” exclaimed the robber, with affected amazement. “Yes, yes,” answered Baba Mustafa, “I see you want to have me speak out, but you shall know no more.”

The robber felt sure that he had discovered what he sought. He pulled out a piece of gold, and putting it into Baba Mustafa’s hand, said to him: “I do not want to learn your secret, though you might safely trust me with it. The only thing I desire of you is to shew me the house where you stitched up the dead body.”

“If I were disposed to do you that favour,” replied Baba Mustafa, “I could not. I was taken to a certain place, whence I was led blindfold to the house, and afterwards brought back again in the same manner; it is therefore impossible for me again to do what you wish.”

“Perhaps,” said the robber, “you may remember a little of the way that you were led blindfold. Come, let me blind your eyes at the same place. We will walk together: perhaps you may recognize some part; and as everybody ought to be paid for their trouble, there is another piece of gold for you; gratify me in what I ask you.” So saying, he put another piece of gold into his hand.

“I cannot promise,” said Baba Mustafa, “that I can remember the way exactly; but since you wish it, I will try what I can do.” At these words he arose, to the great joy of the robber, and led him to the place where Marjaneh had bound his eyes. “It was here,” said Baba Mustafa, “I was blindfolded; and I turned this way.” The robber tied his handkerchief over his eyes, and walked by him till he stopped at Kasim’s house, where ‘Ali Baba then lived. The thief, before he pulled off the band, marked the door with a piece of chalk which he had ready in his hand, and then asked him if he knew whose house that was; to which Baba Mustafa replied, that as he did not live in that neighbourhood, he could not tell. The robber thanked him for the trouble he had taken, and left him to go back to his stall, while he returned to the forest.

A little after the robber and Baba Mustafa had parted, Marjaneh went out of ‘Ali Baba’s house upon an errand, and upon her return, seeing the mark the robber had made, stopped to observe it. “What can be the meaning of this mark?” she said to herself; “somebody intends my master no good; however, with whatever intention it was done, it is advisable to guard against the worst.” Accordingly, she fetched a piece of chalk, and marked two or three doors on each side, in the same manner, without saying a word to her master or mistress.

In the meantime, the robber rejoined his troop in the forest, and recounted to them his success; expatiating upon his good fortune in meeting so soon with the only person who could inform him of what he wanted to know. All the robbers listened to him with the utmost satisfaction, when the captain, after commending his diligence, addressing himself to them all, said: “Comrades, we have no time to lose; let us set off well armed, without its appearing who we are; but that we may not excite any suspicion, let only one or two go into the town together, and join at our rendezvous, which shall be the great square. In the meantime, our comrade who brought us the good news and I will go and find out the house, that we may consult what had best be done.”

This was approved by all, and they filed off in parties of two each, after some interval of time, and got into the town without being suspected. The captain and he who had visited the town in the morning as spy came in the last. He led the captain into the street where he had marked ‘Ali Baba’s residence; and when they came to the first of the houses which Marjaneh had marked, he pointed it out. But the Captain observed that the next door was chalked in the same manner, and in the same place; and shewing it to his guide, asked him what house it was, that, or the first. The guide was so confounded, that he knew not what answer to make, but still more puzzled, when he and the captain saw five or six houses similarly marked. He assured the captain, with an oath, that he had marked but one, and could not tell who had chalked the rest, so that he could not distinguish the house which the cobbler had stopped at.

The captain, finding that their design had proved abortive, went directly to the place of rendezvous, and told his followers that they had lost their labour and must return to the cave. So they all returned as they had come.

When the troop was all got together, the captain told them the reason of their returning; and presently the conductor was declared by all worthy of death. But as the safety of the troop required the discovery of the second intruder into the cave, another of the gang, who promised himself that he should succeed better, came forward, and his offer being accepted, he went and corrupted Baba Mustafa, as the other had done; and being shewn the house, marked it in a place more remote from sight, with red chalk. Not long after, Marjaneh, whose eyes nothing could escape, went out, and seeing the red chalk, and arguing with herself as she had done before, marked the other neighbours’ houses in the same place and manner. Accordingly, when the robber and his captain came to the street, they found the same difficulty; at which the captain was enraged, and the robber in as great confusion as his predecessor. Thus the captain and his troop were forced to retire a second time, and much more dissatisfied; while the robber, who had been the author of the mistake, underwent the same punishment.

The captain, having lost two brave fellows of his troop, was afraid of diminishing it too much by pursuing this plan to get information of the residence of their plunderer; and therefore resolved to take upon himself the important commission. Accordingly, he addressed himself to Baba Mustafa, who did him the same service he had done to the other robbers. He had not set any particular mark on the house, but examined and observed it so carefully, by passing often by it, that it was impossible for him to mistake it. Well satisfied with his attempt, and informed of what he wanted to know, he returned to the forest; and when he came into the cave, where the troop waited for him, said: “Now, comrades, nothing can prevent our full revenge, as I am certain of the house; and in my way hither I have thought how to put it into execution; but if any one can form a better expedient, let him communicate it.” He then told them his contrivance; and as they approved of it, ordered them to go into the villages about, and buy nineteen mules, with thirty-eight large leather jars, one full of oil, and the others empty.

In two or three days’ time the robbers had purchased the mules and jars, and as the mouths of the jars were rather too narrow for his purpose, the captain caused them to be widened; and after having put one of his men into each, with the weapons which he thought fit, leaving open the seam which had been undone to leave them room to breathe, he rubbed the jars on the outside with oil from the full vessel.

When the nineteen mules were loaded with thirty-seven robbers in jars, and the jar of oil, the captain set out with them, and reached the town by the dusk of the evening. He led them through the streets till he came to ‘Ali Baba’s door where he was sitting after supper to take the air. He stopped his mules, addressed himself to him, and said: “I have brought some oil a great way, to sell at tomorrow’s market; and it is now so late that I do not know where to lodge. If I should not be troublesome to you, do me the favour to let me pass the night with you.

Though ‘Ali Baba had seen the captain of the robbers in the forest, and had heard him speak, it was impossible to know him in the disguise of an oil-merchant. He told him he should be welcome, and immediately opened his gates for the mules to go into the yard. At the same time he called to a slave, and ordered him, when the mules were unloaded, to put them into the stable, and to feed them; and then went to Marjaneh, to bid her make a good supper for his guest. After they had finished supper, ‘Ali Baba, charging Marjaneh afresh to take care of his guest, said to her: “to-morrow morning I am going to the bath before daybreak; take care my bathing linen be ready, give them to ‘Abd-Allah, and make me some good broth against I return.”

After this he went to bed.

In the meantime the captain of the robbers went into the yard, and took off the lid of each jar, and gave his people orders what to do. Beginning at the first jar, and so on to the last, he said to each man: “As soon as I throw some stones out of the chamber window where I sleep, do not fail to come out, and I will immediately join you.” After this he returned into the house, when Marjaneh, taking up a light, conducted him to his chamber.

Marjaneh, remembering ‘Ali Baba’s orders, got his bathing linen ready, and ordered ‘Abd-Allah to set on the pot for the broth; but while it was preparing the lamp went out, and there was no more oil in the house. So she took the oil-pot, and went into the yard; when as she came nigh the first jar, the robber within said softly, “Is it time?” Without showing her amazement, she answered, “Not yet, but presently.” She went quietly in this manner to all the jars, giving the same answer, till she came to the jar of oil.

By this means Marjaneh found that her master ‘Ali Baba had admitted thirty-eight robbers into his house, and that this pretended oil-merchant was their captain. She made what haste she could to fill her oil-pot, and returned into her kitchen, where, as soon as she had lighted her lamp, she took a great kettle, went again to the oil-jar, filled the kettle, set it on a large wood fire, and as soon as it boiled, went and poured enough into every jar to stifle and destroy the robber within. When she had done this, she returned into the kitchen; and having put out the great fire she had made to boil the oil, and leaving just enough to make the broth, put out the lamp also, and remained silent, resolving not to go to rest till she had observed what might follow through a window of the kitchen, which opened into the yard. She had not waited long before the captain of the robbers got up, opened the window, and finding no light, and hearing no noise, or anyone stirring in the house, gave the appointed signal, by throwing little stones at the jars. He then listened, but not hearing or perceiving anything, he began to grow uneasy, threw stones again a second and also a third time, and could not comprehend the reason that none of them should answer his signal. Much alarmed, he went softly down into the yard, and going to the first jar, whilst asking the robber, whom he thought alive, if he was in readiness, smelt the hot boiled oil, which sent forth a steam out of the jar. Hence he suspected that his plot to murder ‘Ali Baba, and plunder his house, was discovered. Examining all the jars, one after another, he found that all his gang were dead; and, enraged to despair at having failed in his design, he forced the lock of a door that led from the yard to the garden, and climbing over the walls, made his escape.

When Marjaneh saw him depart, she went to bed, satisfied and pleased to have succeeded so well in saving her master and family.

‘Ali Baba rose before day, and, followed by his slave, went to the bath, entirely ignorant of the important event which had happened at home. When he returned he was much surprised to see the oil-jars, and that the merchant was not gone with the mules, and asked Marjaneh the reason of it. “O my master,” answered she, “God preserve you and your family. You will be better informed of what you wish to know when you have seen what I have to shew you, if you will follow me. Then she bade him look into the first jar, and see if there was any oil.” ‘Ali Baba did so, and seeing a man, started back in alarm, and cried out, “Be not afraid,” said Marjaneh, “the man you see there can neither do you nor any one else any harm. He is dead.” “O Marjaneh,” said ‘Ali Baba, “what is it you shew me?” “Moderate your astonishment,” replied Marjaneh, “and do not excite the curiosity of the neighbours; for it is of great importance to keep this affair secret. Look into all the other jars.”

‘Ali Baba examined all the other jars, one after another; and when he came to that which had the oil in, found it prodigiously sunk, and stood for some time motionless, sometimes looking at the jars, and sometimes at Marjaneh, without saying a word, so great was his surprise. Marjaneh then told him all she had done, from the first observing the mark upon the house, to the destruction of the robbers, and the flight of their captain.

On hearing of these brave deeds from the lips of Marjaneh, ‘Ali Baba said to her: “God, by your means, has delivered me from the snares these robbers laid for my destruction. I owe my life to you; and, for the first token of my acknowledgment, give you your liberty from this moment, till I can complete your recompense as I intend.”

‘Ali Baba’s garden was very long, and shaded at the further end by a great number of large trees. Near these he and the slave ‘Abd-Allah dug a trench, long and wide enough to hold the bodies of the robbers; and as the earth was light, they were not long in doing it. When this was done, ‘Ali Baba hid the jars and weapons; and as he had no occasion for the mules, he sent them at different times to be sold in the market by his slave.

Meanwhile the captain returned to the forest with inconceivable mortification. He did not stay long; the loneliness of the gloomy cavern became frightful to him. He determined, however, to avenge the fate of his companions, and to accomplish the death of ‘Ali Baba. For this purpose he returned to the town, and took a lodging in a Khan, and disguised himself as a merchant in silks. Under this assumed character he gradually conveyed a great many sorts of rich stuffs and fine linen to his lodging from the cavern, with all necessary precaution to conceal the place whence he brought them. In order to dispose of the merchandise, when he had thus amassed them together, he took a warehouse, which happened to be opposite to Kasim’s, which ‘Ali Baba’s son had occupied since the death of his uncle.

He took the name of Khoja Hoseyn, and, as a new-comer, was, according to custom, extremely civil and complaisant to all the merchants his neighbours. ‘Ali Baba’s son was, from his vicinity, one of the first to converse with Khoja Hoseyn, who strove to cultivate his friendship more particularly. Two or three days after he was settled, ‘Ali Baba came to see his son, and the captain of the robbers recognised him at once, and soon learned from his son who he was. After this he increased his assiduities, caressed him in the most engaging manner, made him some small presents, and often asked him to dine and sup with him.

One day ‘Ali Baba’s son and Khoja Hoseyn met by appointment, took their walk, and as they returned, ‘Ali Baba’s son led Khoja Hoseyn through the street where his father lived, and when they came to the house, stopped and knocked at the door. “This,” said he, “is my father’s house, who, from the account I have given him of your friendship, charged me to procure him the honour of your acquaintance; and I desire you to add this pleasure to those for which I am already indebted to you.”

Though it was the sole aim of Khoja Hoseyn to introduce himself into ‘Ali Baba’s house, that he might kill him, yet he excused himself, and offered to take his leave; but a slave having opened the door, ‘Ali Baba’s son took him by the hand and led him in. ‘Ali Baba received Khoja Hoseyn with a smiling countenance, and in the most obliging manner he could wish. He thanked him for all the favours he had done his son; adding withal, the obligation was the greater as he was a young man, not much acquainted with the world, and that he might contribute to his information. After a little more conversation, he offered again to take his leave, when ‘Ali Baba, stopping him, said: “Where are you going in so much haste? I beg you would do me the honour to sup with me; though my entertainment may not be worthy your acceptance, such as it is, I heartily offer it.” “O my master,” replied Khoja Hoseyn, “I am thoroughly persuaded of your good-will; but the truth is, I can eat no victuals that have any salt in them; therefore judge how I should feel at your table.” “If that is the only reason,” said ‘Ali Baba, “it ought not to deprive me of the honour of your company; for there is no salt ever put into my bread, and as to the meat we shall have to-night, I promise you there shall be none in that. Therefore do me the favour to stay.”

Then ‘Ali Baba went into the kitchen, and ordered Marjaneh to put no salt to the meat that was to be dressed that night; and to make quickly two or three dishes besides what he had ordered, but to be sure to put no salt in them. Now Marjaneh, who was always ready to obey her master, could not help being surprised at this order. “Who is this strange man,” said she, “who eats no salt with his meat? Your supper will be spoiled if I keep it back so long.” “Do not be angry, Marjaneh,” replied ‘Ali Baba. “He is an honest man; therefore do as I bid you.”

Marjaneh obeyed, though with no little reluctance, and had a curiosity to see this man who ate no salt. To this end, when she had finished what she had to do in the kitchen, she helped ‘Abd-Allah to carry up the dishes; and, looking at Khoja Hoseyn, knew him at first sight, notwithstanding his disguise, to be the captain of the robbers, and examining him very carefully, perceived that he had a dagger under his garment. “I am not in the least amazed,” said she to herself, “that this wicked man, who is my master’s greatest enemy, would eat no salt with him, since he intends to assassinate him; but I will prevent him.”

When ‘Abd-Allah had put the service of fruit with the wine before ‘Ali Baba, Marjaneh retired, dressed herself neatly, with a suitable head-dress, like a dancer, girded her waist with a silver-gilt girdle, to which were hung a poniard with a hilt and guard of the same metal, and put a handsome veil on her face. When she had thus attired herself, she said to ‘Abd-Allah: “Take your tabor, and let us go and divert our master and his son’s friend, as we do sometimes when he is alone.”

‘Abd-Allah took his tabor and played all the way into the hall before Marjaneh, who, when she came to the door, made a low obeisance by way of asking leave to exhibit her skill. “Come in, Marjaneh,” said ‘Ali-Baba, “and let Khoja Hoseyn see what you can do, that he may tell us what he thinks of your performance.”

After she had danced several dances with much grace, she drew the poniard and, holding it in her hand, began a dance, in which she outdid herself, by the many different figures, light movements, and the surprising leaps and wonderful exertions with which she accompanied it. Sometimes she presented the poniard to one breast, sometimes to another, and oftentimes seemed to strike her own. At last, she snatched the tabor from ‘Abd-Allah with her left hand, and holding the dagger in her right, presented the other side of the tabor, after the manner of those who get a livelihood by dancing, and solicit the liberality of the spectators.

‘Ali Baba put a piece of gold into the tabor, as did also his son; and Khoja Hoseyn, seeing that she was coming to him, had pulled his purse out of his bosom to make her a present; but while he was putting his hand into it, Marjaneh plunged the poniard into his heart.

‘Ali Baba and his son, shocked at this action, cried out aloud. “Ill-omened woman!” exclaimed ‘Ali Baba, “what have you done to ruin me and my family?” “It was to preserve, not to ruin you,” answered Marjaneh; “for see here,” continued she, opening the pretended Khoja Hoseyn’s garment, and shewing the dagger, “what an enemy you had entertained! Look well at him, and you will find him to be both the pretended oil-merchant and the captain of the gang of forty robbers. Remember, too, that he would eat no salt with you; and what would you have more to persuade you of his wicked design? Before I saw him, I suspected him as soon as you told me you had such a guest. I knew him, and you now find that my suspicion was not groundless.”

Then ‘Ali Baba, seeing that Marjaneh had saved his life a second time, embraced her. “O Marjaneh,” said he, “I gave you your liberty, and then promised you that my gratitude should not stop there, but that I would soon give you higher proofs of its sincerity; which I now do by making you my daughter-in-law.” Then addressing himself to his son, he said: “I believe you, son, to be so dutiful a child, that you will not refuse Marjaneh for your wife. You see that Khoja Hoseyn sought your friendship with a treacherous design to take away my life: and if he had succeeded, there is no doubt but he would have sacrificed you also to his revenge. Consider that by marrying Marjaneh you marry the preserver of our family.”

A few days afterwards, ‘Ali Baba celebrated the nuptials of his son and Marjaneh with great solemnity, a sumptuous feast, and the usual dancing and spectacles; and had the satisfaction to see that his friends and neighbours, whom he invited, had no knowledge of the true motives of the marriage; but that those who were not unacquainted with Marjaneh’s good qualities commended his generosity and goodness of heart. ‘Ali Baba did not visit the robber’s cave for a whole year, as he supposed the other two, whom he could get no account of, might be alive.

At the year’s end, when he found they had not made any attempt to disturb him, he resolved to make another journey. He mounted his horse, and when he came to the cave he alighted, tied his horse to a tree, then approaching the entrance, pronounced the words, “Open, Simsim!” whereupon the door opened. He entered the cavern, and by the condition he found things in, judged that nobody had been there since the captain had fetched the goods for his shop. From this time he believed he was the only person in the world who had the secret of opening the cave, and that all the treasure was at his sole disposal. He put as much gold into his saddle-bags as his horses would carry, and returned to the town. Some years later he carried his son to the cave and taught him the secret, which he handed down to his posterity, who, using their good fortune with moderation, lived in great honour and splendour till they were visited by the terminator of delights and the separator of companions.

---------

NOTES

Note . This talismanic word, though it is the Arabic name of sesamè (Sesamum orientale, a plant producing oil-grain much used in the East), must have some other meaning. A German folk-tale, “Simeliberg,” beginning in something of the same way with the magical opening of a rock, has the phrase “Open Simsi,” which the Grimms explain as an old German word for “mountain” (Hartland, Inst. Folklore Congress, 1891. There is nothing to prove that ‘Ali Baba is not a European folk-tale turned into Arabic by Galland’s Syrian munshi.

➖➖➖