
Lời tựa
Nhân Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (ngày 21 tháng 6 là ngày kỉ niệm ra đời của báo "Thanh niên" do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập ngày 21 tháng 6 năm 1925), Tuần san “Tiểu thuyết chiều thứ Bảy” trân trọng gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất đến:
* Anh Nguyễn Quốc Khánh – Nguyên Phó Tổng biên tập phụ trách báo “Đạiđoànkết” (mời anh/chị tham khảo thêm trang điện tử của báo tại http://daidoanket.vn/);
* Anh Đỗ Tấn Sỹ
- Đồng chủ biên tờ “Giải Phóng” (1969 - in ronéo, gửi theo địa chỉ bưu điện cho các sinh viên Việt Nam tại Bỉ),
- Đồng chủ biên tờ “Về Nguồn” (1969, xuất bản tại Bruxelles),
- Chủ biên tờ “Kết Hợp” (1973 – tờ báo chính thức đại diện cho tiếng nói của “Hội sinh viên và Việt kiều yêu nước tại Bỉ” - Hội được thành lập vào ngày 6&7/10/1973).
* Anh Nguyễn Hữu Anh
- Đồng chủ biên tờ “Về Nguồn” (1969, xuất bản tại Bruxelles).
* Anh Ngô Đức Chí và Anh Trương Minh Hùng (chưa phải là thành viên trên diễn đàn BelUnion)
- Đồng chủ biên tờ “Hiện Diện” (1969, xuất bản tại Liège)
(Nguồn: Bài “Phong trào sinh viên và Việt kiều yêu nước tại Bỉ”, do anh Đỗ Tấn Sỹ đăng ngày 23-9-2005, hiệu đính ngày 12-12-2020)
* Các anh/chị là nhà báo chính thức hoặc nhà báo “nghiệp dư” nhưng tôi chưa có hân hạnh được thưởng ngoạn các bài báo của anh/chị 😊.
~~~
Nhân ngày này, chúng ta lần giở lại vài mốc son của báo chí Việt Nam:
📰 Tờ báo quốc ngữ đầu tiên: Khai sinh sớm nhất trong làng báo Quốc ngữ Việt Nam được cho là “Gia Định báo”. Tờ báo tổng hợp này có khuôn khổ 25 x 32 cm, ra hàng tuần tại Sài Gòn và tồn tại suốt 44 năm sau khi phát hành số đầu vào ngày 15 tháng 4 năm 1865.
📰 Tờ báo quốc ngữ tư nhân đầu tiên: Nguyệt san “Thông loại khóa trình” (báo kiểu sách đọc thêm, giải trí mang mục đích giáo dục) do Trương Vĩnh Ký chủ trì, khuôn khổ 16 x 23,5 cm, phát hành hàng tháng tại Nam Kỳ trong những năm 1888-1889, được cho là tờ báo quốc ngữ tư nhân đầu tiên. Số báo số 1 ra vào tháng 5, 1888.
📰 Tờ báo phụ nữ đầu tiên: Báo “Nữ giới chung” (tiếng chuông của nữ giới) xuất bản vào thứ Sáu hàng tuần tại Sài Gòn bắt đầu năm 1918 là tờ báo đầu tiên chuyên về phụ nữ. Số báo đầu tiên ra mắt ngày 1 tháng 2 năm 1918. Lê Đức làm chủ nhiệm và Sương Nguyệt Anh, con gái của Nguyễn Đình Chiểu làm chủ bút.
📰 Tờ báo kinh tế đầu tiên: Báo “Nông cổ mín đàm” (nghĩa là ngồi uống trà bàn chuyện làm ruộng và đi buôn) khuôn khổ 20 x 30 cm, phát hành vào thứ Năm hàng tuần tại Sài Gòn, được nhiều người cho là tờ báo kinh tế đầu tiên với số 1 ra ngày 1 tháng 8 năm 1901.
📰 Nhà báo Việt Nam đầu tiên: Trương Vĩnh Ký được cho là nhà báo Việt Nam đầu tiên, là một học giả lớn, thạo 26 ngoại ngữ, là tác giả của hơn 100 bộ sách, hàng nghìn bài viết, có chân trong nhiều hội khoa học quốc tế, cống hiến xuất sắc cho các chuyên ngành: văn hóa, ngôn ngữ, địa lý, nhân chủng học. Ông được cho là đã thành lập, làm tổng biên tập những tờ báo Quốc ngữ đầu tiên, đồng thời được đánh giá là cây bút chủ chốt của rất nhiều báo khác và được coi là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam.
📰 Nữ tổng biên tập đầu tiên: Được cho là Nguyễn Xuân Khuê, thường được biết qua bút danh Sương Nguyệt Anh, con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, quê ở Ba Tri-Bến Tre. Nhận lời mời của các đồng nghiệp, đầu năm 1918 bà lên Sài Gòn làm tổng biên tập tờ “Nữ giới chung” và phụ trách tờ báo này trong suốt thời gian tồn tại của nó.
📰 Trang quảng cáo trên báo sớm nhất: Khó thể biết chính xác mẩu quảng cáo đầu tiên xuất hiện khi nào trong lịch sử báo chí Việt Nam, nhưng trang quảng cáo sớm nhất được cho là đã xuất hiện vào đầu năm 1882. Số báo thứ nhất của năm 1882, “Gia Định báo” đã dành toàn bộ trang cuối để đăng quảng cáo cho Nhà thuốc Pharmacie Reynaud.
(Nguồn: Wikipedia)
* Tiếp theo, xin trân trọng giới thiệu phần II “ALÁTĐANH HAY CÂY ĐÈN KỲ DIỆU”.
➖➖➖
Alátđanh nói:
- Thần à, ta rất vừa ý, cho tới nay ngươi đã thực hiện đầy đủ và nhanh chóng mọi việc ta truyền. Còn bây giờ, ngươi hãy nhanh chóng vì cây đèn chủ của ngươi mà, nếu có thể được, tỏ ra nhiệt thành và mẫn cán hơn nữa. Ta yêu cầu ngươi hãy xây dựng cho ta một cung điện xứng đáng để đón công chúa Bađrunbuđua vợ ta, chỉ cách một quãng vừa phải ngay trước cung của hoàng đế, trong thời gian ngắn nhất. Ta có thể cho ngươi được tự do lựa chọn vật liệu xây dựng, tức là chọn các loại vân ban thạch, mã não, lưu lỵ và đá hoa mịn màng nhất, màu sắc phong phú nhất, cũng như tự ý định đoạt về mọi mặt khác của công trình.
Nhưng ta muốn rằng, ở nơi cao nhất trong cung điện ấy, ngươi sẽ cho xây lên một phòng khách có vòm mái cao, bốn mặt bằng nhau, mà tường hoa thì không bằng vật liệu gì khác hơn là vàng và bạc khối xen nhau; mỗi mặt có sáu cửa sổ, vị chi hai mươi bốn cửa tất cả; các bức mành che cửa đều được nam thật khéo léo và đối xứng bằng kim cương, ngọc đỏ và ngọc lam, sao cho thật đẹp, chưa từng ai trông thấy ở trên đời – trừ một bức, mà ta muốn làm dở dang. Ta cũng muốn rằng cung điện ấy có một cái sân ngoài, một sân trong, một khu vườn, nhưng trước hết phải có một nơi nào đó mà ngươi sẽ cho ta biết sau, một kho tàng chứa đầy vàng và tiền bạc. Ta cũng muốn rằng trong cung điện có các nhà bếp, nhà ngang, kho chứa, kho cất đồ đạc có đủ bàn ghế quý giá để bày biện cho họp với từng mùa và tương xứng với vẻ tráng lệ của nhà cửa; các chuồng ngựa nhốt đầy những tuấn mã kèm theo giám mã và người chăn, và có đủ các bộ đồ đi săn nữa. Cũng cần phải có những gia nhân, tôi tớ, nô tì cần thiết để hầu hạ công chúa. Hẳn ngươi đã hiểu rõ ý định của ta. Thôi đi đi, chừng nào làm xong thì trở lại.
Lúc Alátđanh giao xong cho thần đèn việc xây dựng hoàng cung theo như trí tưởng tượng của chàng, thì mặt trời vừa lặn. Tảng sáng ngày hôm sau, Alátđanh vừa mới dậy – suốt đêm chàng không ngủ yên giấc vì tơ tưởng đến công chúa – thì thần đèn đã xuất hiện trước mắt và nói:
- Thưa ngài, cung điện của ngài đã hoàn thành, xin mời ngài đến xem thử đã hợp ý ngài chưa.
Alátđanh vừa ngỏ ý sẵn lòng, thần đã mang chàng đi trong nháy mắt. Tòa lâu đài đẹp quá mức mong đợi.
Đâu đâu cũng quý giá, sạch sẽ và tráng lệ, với gia nhân và tôi tớ mỗi người ăn mặc đúng theo ngôi thứ và công việc được giao. Thần đèn cũng không quên đưa chàng đi xem kho tàng, coi đây là một việc trong những việc chủ yếu. Viên coi kho mở khóa. Alátđanh nhìn vào và trông thấy hàng đống túi đựng tiền to nhỏ khác nhau xếp đặt có trật tự nom rất thích mắt. Lúc trở ra thần đèn quả quyết với chàng là viên coi kho này rất trung thành.
Tiếp đó thần dẫn chàng đi xem các chuồng ngựa, và chỉ cho chàng những con tuấn mã đẹp nhất trần gian. Bọn chăn ngựa đang bận rộn chải lông cho chúng. Thần lại đưa chàng đi thăm tiếp các kho chứa đủ các loại thức ăn vật dụng cần thiết, cũng như yên cương, vật trang trí và thức ăn cho ngựa. Sau khi xem xét toàn bộ tòa lâu đài từ gian này sang gian khác, buồng nọ đến buồng kia, từ tầng trên xuống tầng dưới, và đặc biệt là cái phòng khách có hai mươi bốn cửa sổ, ở đấy vật gì cũng đắt tiền và sang trọng, tiện nghi đầy đủ quá mức tưởng tượng, Alátđanh bảo thần đèn: - Thần à, ta rất hài lòng, thế này mà còn phàn nàn thì thật là không đúng. Duy có một điều ta chưa bảo ngươi vì hôm qua ta chưa nghĩ ra, ấy là hãy trải một tấm thảm nhung đẹp nhất từ cửa buồng dành riêng cho công chúa trong lâu đài này đến tận cung hoàng đế, để cho nàng bước lên trên đó mà đi.
- Tôi sẽ trở lại trong giây lát.
Nói xong thần đèn biến mất, và một lát sau Alátđanh ngạc nhiên thấy điều chàng mong muốn đã được thực hiện, mà cũng chẳng rõ là bằng cách nào. Thần đã lại hiện lên và mang Alátđanh trở về nhà chàng vào lúc người ta mở cổng hoàng cung.
Những người canh cổng trước kia khi nhìn ra phía lâu đài Alátđanh vừa xây vẫn chỉ thấy khoảng đất trống, thì nay đều rất đỗi ngạc nhiên thấy khoảng đất ấy có tường thành vây quanh, và trước đó có một tấm thảm nhung trải dài đến tận cổng hoàng cung. Tể tướng vừa đến cổng, cũng kinh ngạc không kém mọi người. Ông là người đầu tiên đến tâu vua rõ việc xảy ra, nhưng lại muốn làm cho vua nghĩ rằng đấy chẳng qua là ảo thuật. Vua đáp:
- Tể tướng à, tại sao ông cứ muốn cho rằng đấy là ảo thuật nhỉ? Ông cũng biết rõ như ta đấy chính là tòa lâu đài Alátđanh đã xin phép ta dựng lên để đón công chúa con gái ta, và ta chuẩn y ngay trước mặt ông. Sau khi đã trông thấy những của cải quý giá qua các lễ vật chàng dâng ta, làm sao chúng ta lại đi ngạc nhiên về việc chàng xây dựng xong tòa lâu đài này trong thời gian ngắn nhỉ. Chẳng qua chàng muốn làm chúng ta ngạc nhiên và thấy rằng hễ cứ có tiền mặt thì người ta có thể thực hiện được ngay mọi điều kỳ diệu như kiểu ấy trong một sớm một chiều đó thôi. Thôi, hãy thú thật với ta đi. Vì có lẫn một chút ganh tị cho nên ông mới muốn gọi đó là trò ảo thuật chứ gì?
Vì đã đến giờ thiết triều, câu chuyện giữa vua và tể tướng dừng lại ở đấy. Khi Alátđanh về tới nhà và cho phép thần đèn lui ra, thì mẹ chàng đã dậy và đang bắt đầu thắng một trong những bộ cánh mà chàng đã sai mang đến cho bà. Tính quãng thời gian chắc hoàng đế đã xong công việc triều đình, Alátđanh sai đám nô tỳ do thần đèn cung tiến, rước mẹ đến cung vua. Chàng dặn mẹ tâu là bà tới để ở lại đấy chờ đến tối thì xin rước dâu. Bà ra đi. Mặc dù bà cũng như bọn nữ nô tỳ theo hầu đều ăn mặc như những bà hoàng, nhưng dân chúng ra xem không đông lắm vì họ đeo mạng che mặt và dùng áo choàng giản dị khoác lên trang phục lộng lẫy và đắt tiền. Còn về phần Alátđanh, chàng lên ngựa mang theo cây đèn thần giúp cho chàng đạt tới đỉnh cao của hạnh phúc, từ giã ngôi nhà của bố mẹ để không còn bao giờ trở về đấy nữa, rồi cờ dong trống mở đi đến dinh riêng của mình với những nghi thức cũng sang trọng như lần chàng đến ra mắt hoàng đế ngày hôm trước.
Lính canh cổng hoàng cung vừa trông thấy bà mẹ Alátđanh đi tới, đã vội vào báo với vua. Lập tức lệnh truyền cho các đội kèn, đội trống, tổ sáo, tổ đàn đã chực sẵn ở nhiều nơi trên sân thượng của hoàng cung cử nhạc. Thế là trong nháy mắt không gian vang dậy tiếng trống chiêng, tiếng đàn sáo báo tin vui cho cả kinh thành.
Các nhà buôn bắt đầu trang trí cửa hiệu của họ bằng những tấm thảm đẹp, gối tựa và lá cây, cũng như chuẩn bị sẵn đèn hoa để thắp vào đêm tối. Thợ thuyền tạm nghỉ việc. Dân chúng nô nức đổ về quảng trường nằm giữa cung điện nhà vua và lâu đài của Alátđanh. Lâu đài này lập tức làm mọi người trầm trồ khen ngợi, không phải vì ai nấy đã quen nhìn hoàng cung, mà chính vì cung vua không thể nào sánh nổi với lâu đài. Nhưng, điều làm cho mọi người lạ lùng nhất không sao hiểu nổi là do phép thần nào mà một tòa lâu đài tráng lệ như vậy lại mọc lên từ một nơi vừa ngày hôm trước không hề ai trông thấy có một vật liệu hay móng nền đào sẵn.
Đến hoàng cung, bà mẹ Alátđanh được đón tiếp trọng thể, rồi viên thị trưởng dẫn bà đến buồng riêng của công chúa Bađrunbuđua. Vừa trông thấy bà, công chúa đã chạy đến ôm hôn và mời bà ngồi lên sập của mình. Trong khi các người hầu trang điểm và đeo cho nàng những vòng ngọc quý nhất của Alátđanh tặng, công chúa sai dọn ra mời bà một tiệc rượu nhẹ tuyệt diệu. Hoàng đế, đến chơi với con gái trước khi nàng từ biệt để về nhà chồng, cũng tiếp bà rất trọng vọng. Bà mẹ Alátđanh đã nhiều lần được hầu chuyện vua trước đám đông, song chưa bao giờ vua nhìn thấy bà không đeo mạng che mặt như lúc bấy giờ. Mặc dù tuổi bà cũng khá cao, vẫn có thể nhận ra những nét chứng tỏ hồi còn trẻ bà cũng thuộc vào hạng người có ít nhiều nhan sắc. Hoàng đế xưa nay chỉ trông thấy bà ăn mặc giản dị, nếu không nói là tồi tàn, rất cảm phục khi trông thấy bà trong bộ cánh cũng sang trọng và đẹp đẽ không kém con gái mình. Điều đó càng làm cho vua suy nghĩ là Alátđanh đúng là con người thận trọng, khôn ngoan và sành sỏi mọi bề.
Tối đến, công chúa xin từ biệt cha. Buổi chia tay thật là lưu luyến, hai cha con rơi nước mắt ôm nhau chẳng nói nên lời. Cuối cùng công chúa ra đi, có bà mẹ Alátđanh cùng đi bên trái, theo sau là một trăm nữ tỳ ăn mặc lộng lẫy lạ thường. Tất cả các đội nhạc đã không ngừng tấu nhạc từ khi Alátđanh đến, tập trung lại và bắt đầu cuộc rước dâu. Đi tiếp sau nữa là một trăm thị vệ và một trăm hoạn nô xếp hàng đôi, do các võ quan dẫn đầu. Bốn trăm viên quan hầu trẻ của nhà vua, xếp hàng đôi đi ở hai bên, mỗi người cầm một ngọn đuốc. Ánh đuốc cộng với ánh đèn trong cung điện hoàng đế và lâu đài Alátđanh tỏa sáng rực rỡ không khác ban ngày.
Cùng với đám rước, công chúa bước đi trên tấm thảm trải từ hoàng cung đến dinh phò mã. Đám rước càng đến gần dinh, tiếng trống tiếng chiêng của đoàn nhạc công dần dần hòa cùng tiếng đàn, tiếng sáo của các đội nhạc ngồi trên các sân thượng lâu đài Alátđanh, tạo nên một nhạc điệu tuy lạ kỳ và hỗn độn thật đấy nhưng cũng làm tăng thêm niềm vui cho không chỉ đám đông dân chúng tụ tập ở quảng trường mà cho cả những người trong hai cung, trong cả kinh thành và cả những nơi xa xôi ở ngoại thành nữa.
Cuối cùng công chúa tới nơi. Alátđanh hết sức mừng rỡ chạy đến nghênh tiếp ngay trước cửa phòng dành riêng cho nàng. Bà mẹ đã cẩn thận trỏ để công chúa phân biệt được Alátđanh giữa đám đông kẻ hầu người hạ đang vây quanh. Nàng rất xúc động thấy chàng thật tuấn tú khôi ngô. Alátđanh tiến đến gần và chào rất kính cẩn:
- Thưa công chúa kính yêu, nếu kẻ này có phải chịu điều bất hạnh để công chúa bực mình vì đã táo tợn dám cầu hôn một con người kiều diễm, ái nữ của hoàng đế, thì xin cho kẻ này được mạo muội thưa rằng đấy là lỗi tại đôi mắt xinh đẹp và dáng điệu yêu kiều của nàng chứ không phải ở kẻ này.
- Thưa phò mã, – giờ đây em được quyền gọi chàng như vậy, – em vâng lệnh vua cha, nhưng chỉ cần trông thấy chàng là em có thể nói rằng em vâng lời vua cha không một chút băn khoăn.
Thú vị vì câu trả lời đáng yêu và làm danh giá cho mình, Alátđanh không để cho công chúa đứng lâu hơn nữa sau khi vừa đi bộ một quãng đường – việc này nàng vốn không quen – chàng cầm bàn tay nàng đưa lên hôn rồi vui mừng dẫn nàng vào một phòng khách lớn được cơ man là nến chiếu sáng. Ở đây thần đèn đã cẩn thận cho bày sẵn một bữa tiệc thịnh soạn. Các đĩa đều đúc bằng vàng khối và đầy thịt tuyệt ngon. Các thứ mâm, khay, chai, cốc xếp đầy tủ ăn cũng đều làm bằng vàng và chế tạo tinh xảo. Các vật bày biện và tất cả những thứ trang hoàng khác trong phòng khách đều hoàn toàn tương xứng với những đồ dùng quý báu ấy. Hân hoan thấy bấy nhiêu của cải dồn vào một nơi, công chúa nói với Alátđanh:
- Phò mã ơi, trước đây em cứ tưởng không có gì đẹp hơn cung của vua cha em. Nhưng chỉ nhìn riêng cái phòng khách này, em đủ thấy rằng em đã nhầm.
Alátđanh mời nàng ngồi vào chỗ dành cho nàng và đáp:
- Nàng quá khen đó thôi.
Công chúa Bađrunbuđua, Alátđanh và bà mẹ ngồi vào bàn tiệc, lập tức tiếng đàn sáo du dương gợi cảm cử lên, hòa với tiếng hát ngọt ngào của nhiều nữ ca sĩ. Tiếng ca tiếng nhạc ấy tiếp tục không ngừng cho mãi đến khi mãn tiệc. Công chúa hết sức say mê, nàng nói chưa bao giờ được nghe một buổi ca nhạc hay như vậy trong cung hoàng đế. Ấy là vì nàng không biết các người này đều là những nàng tiên đã được thần đèn tuyển lựa.
Khi tiệc đã tàn và các gia nhân vội vã thu dọn, thì một tốp vũ công và vũ nữ vào thay các tốp hát. Họ múa nhiều điệu vũ tượng trưng theo tục lệ nước này. Cuối cùng, một vũ công và một vũ nữ múa riêng một cách linh hoạt lạ kỳ, mỗi người đều mang hết tài sức ra trình diễn.
Đến nửa đêm, theo như tục lệ ở Trung Quốc thời ấy, Alátđanh đứng lên, cầm tay công chúa để cùng múa một bài kết thúc lễ thành hôn của họ. Hai người múa rất khéo, làm cho ai nấy đều khâm phục. Múa xong, Alátđanh vẫn nắm tay công chúa đưa nàng vào phòng tân hôn đã bày biện sẵn. Các người hầu của công chúa giúp nàng thay áo. Gia nhân của Alátđanh cũng giúp chàng làm như vậy. Xong đâu đấy tất cả lui ra.
Đến đây kết thúc lễ mừng thành hôn của Alátđanh với công chúa Bađrunbuđua.
Sáng hôm sau, Alátđanh thức dậy, những người hầu phòng bước vào thay áo cho chàng. Họ mặc cho chàng một bộ áo quần khác bộ mặc hôm làm lễ cưới song cũng đắt tiền, cũng lộng lẫy không kém. Sau đó, chàng sai đưa đến một con ngựa trong đàn ngựa dành riêng cho mình. Chàng cưỡi lên, đi thẳng đến cung hoàng đế giữa một đám đông nô lệ quây quần, chia nhau phò đằng trước, phía sau và hai bên tả hữu.
Hoàng đế tiếp chàng cũng với đầy đủ mọi nghi thức như hôm đầu. Vua ôm hôn chàng, mời chàng ngồi xuống ngai vàng bên cạnh mình rồi sai bày tiệc.
Alátđanh nói:
- Tâu bệ hạ, hôm nay xin bệ hạ miễn cho con cái vinh dự ấy. Con đến đây kính mời hoàng thượng cùng với tể tướng và các quan lớn trong triều vui lòng sang bên cung của công chúa dự bữa cơm cùng chúng con.
Hoàng đế vui vẻ nhận lời. Vua đứng lên ngay, và bởi vì đường không xa, vua muốn đi bộ. Thế là vua rời hoàng cung, có Alátđanh đi bên phải, tể tướng đi bên trái, theo sau là các đại thần, và trước mặt là các thị vệ và quan chức chính trong nội phủ.
Càng đến gần lâu đài của Alátđanh, vua càng sửng sốt vì vẻ đẹp của nó. Vào đến trong dinh thì càng khác nữa. Trông thấy vật gì vua cũng kêu lên thán phục. Nhưng, khi theo lời mời của Alátđanh, vua lên tới phòng khách lớn có hai mươi bốn cửa sổ, trông thấy đồ vật trang hoàng và nhất là khi nhìn thấy các bức mành có gắn kim cương, hồng ngọc và ngọc bích, viên nào cũng hoàn hảo cũng cân xứng, và khi nghe Alátđanh nói rằng mặt ngoài cũng quý báu như vậy, thì vua ngạc nhiên đến nỗi đứng ngây người không nhúc nhích. Sau một lúc vua mới quay sang nói với tể tướng đứng ở bên cạnh.
- Có thể nào trong nước ta, ngay bên cạnh cung điện của ta lại có một tòa lâu đài tráng lệ dường này mà cho mãi đến bây giờ ta vẫn không hay biết.
Tể tướng tâu:
- Hẳn bệ hạ còn nhớ là mãi đến hôm kia Người mới cho phép Alátđanh, mà bệ hạ vừa chuẩn y làm phò mã, được xây dựng một dinh cơ đối diện với hoàng cung. Cho đến tối hôm đó vẫn chưa có nhà cửa gì trên khoảng đất này, và sáng hôm qua tôi được vinh dự là kẻ đầu tiên tâu bệ hạ tòa lâu đài đó hoàn thành.
- Ta còn nhớ chứ, – vua đáp – nhưng ta không bao giờ nghĩ rằng lâu đài ấy sẽ là một kỳ quan trên thế giới như thế này. Tìm đâu ra được trong vũ trụ này những dãy tường hoa xây bằng vàng khối và bạc khối chứ không phải đá xanh hay đá hoa, và mành che cửa sổ thì dát đầy kim cương, ngọc hồng và ngọc bích? Trên đời này chưa bao giờ có ai nói đến một chuyện tương tự.
Hoàng đế tỏ ý muốn xem kỹ hai mươi bốn bức mành. Khi đếm, vua nhận ra chỉ có hai mươi ba chiếc dát ngọc quý như nhau, còn chiếc thứ hai mươi bốn không hoàn chỉnh. Vua ngạc nhiên nói với tể tướng, vị đại thần này luôn luôn không rời vua một bước.
- Ta lấy làm lạ sao một phòng khách lộng lẫy dường này lại sót một chỗ không hoàn hảo. Ấy là do sơ suất, do chểnh mảng hay là tại vì thợ không có đủ thời gian để hoàn thành nốt một công trình kiến trúc đẹp đẽ xiết bao này?
Alátđanh đáp:
- Tâu bệ hạ, bức mành này bị bỏ dở không phải tại những lẽ như bệ hạ vừa nói, ấy là do lệnh của con cho nên bọn thợ đã làm dở dang như vậy. Con muốn nhường bệ hạ sự quang vinh hoàn tất phòng khách này và qua đó hoàn tất cả lâu đài. Cúi xin bệ hạ chuẩn y cho, để cho con được coi đó là một kỷ niệm về những ân huệ bệ hạ đã ban cho.
- Nếu con đã cố ý như vậy, – hoàng đế nói – thì ta rất lấy làm vui lòng. Ta sẽ truyền cho làm công việc ấy ngay bây giờ.
Quả như lời, vua cho vời những nhà buôn ngọc giàu có nhất và những thợ kim hoàn khéo tay nhất trong kinh thành đến ngay lập tức. Trong thời gian ấy, Alátđanh mời vua ra khỏi phòng khách xuống gian phòng chàng chiêu đãi công chúa Bađrunbuđua hôm tân hôn.
Một lát sau công chúa cũng đến. Nhìn vẻ mặt con vua vui mừng hiểu rằng nàng hết sức hài lòng về hôn nhân của mình. Ở đây đã bày sẵn hai bàn tiệc đầy những món ăn thịnh soạn, bát đĩa thảy đều bằng vàng.
Vua ngồi vào bàn thứ nhất cùng với công chúa, Alátđanh và tể tướng. Tất cả triều thần được mời ngồi vào chiếc bàn thứ hai khá dài. Hoàng đế thấy các món ăn nấu rất ngon, và thú thật là mình chưa bao giờ được dự một bữa ăn thỏa thích như vậy. Rượu cũng tuyệt vời.
Điều làm cho vua phục hơn nữa là bốn chiếc tủ lớn xếp đầy những chai, đĩa và chén bằng vàng khối có nam ngọc. Vua cũng say sưa về đội ca nhạc bố trí ngay trong phòng khách, trong khi các đội kèn đồng và chiêng trống thì được sắp xếp ở bên ngoài, cách một khoảng xa vừa phải, để nghe cho đỡ chối tai.
Hoàng đế dự tiệc xong, quân hầu vào báo các nhà buôn ngọc và thợ kim hoàn đã đến. Vua trở lại phòng khách có hai mươi bốn cửa sổ và chỉ cho họ xem bức mành che cửa chưa hoàn thành: “Ta cho triệu các người đến đây – vua phán – để nhờ các người hoàn thành cho ta bức mành này sao cho giống hệt những bức kia. Các người hãy xem xét cho kỹ và bắt tay làm ngay cho ta.”
Các nhà buôn ngọc và thợ kim hoàn chăm chú xem xét hai mươi ba bức mành, rồi sau khi đã trao đổi với nhau, để cho mỗi người được đóng góp hết ý kiến của mình, họ cùng đến gặp hoàng đế. Người thợ ngọc thường vẫn làm các công việc trong nội phủ thay mặt anh em, bước ra nói:
- Tâu bệ hạ, chúng tôi sẵn sàng mang tất cả tài nghệ và công sức để tuân lệnh bệ hạ, nhưng chúng tôi không thể nào có đủ bấy nhiêu châu ngọc quý để làm một công trình to lớn thế này.
- Ta có đủ và có thừa nữa là khác. – Vua nói – Các người hãy đến cung ta, ta sẽ bỏ ngọc ra cho các người lựa chọn.
Trở về cung, vua cho mang tất cả châu báu của mình tới. Các bọn thợ lấy và mang đi một số rất lớn, đặc biệt là những viên trước là tặng phẩm của Alátđanh. Họ đem số đó ra dùng hết rồi còn quay trở lại nhiều lần để lấy thêm song một tháng trôi qua mà vẫn chưa làm xong một nửa công trình. Dùng hết ngọc của hoàng đế họ còn vay thêm ngọc của tể tướng, song tất cả những thứ đó giỏi lắm cũng chỉ làm xong một nửa bức mành.
Alátđanh biết nhà vua cố hết sức để làm cho bức mành giống hệt các bức kia nhưng vô ích, và sẽ không bao giờ có thể hoàn thành, liền cho gọi các thợ kim hoàn đến, bảo họ không những ngừng công việc mà còn tháo dỡ tất cả công trình đã làm, mang về trả lại cho hoàng đế tất cả châu ngọc của vua cũng như những thứ vay của tể tướng.
Công trình những người thợ kim hoàn làm suốt sáu tuần bị phá đi trong mấy tiếng đồng hồ. Họ ra về, để lại Alátđanh một mình trong phòng khách, chàng lấy cây đèn luôn luôn mang theo trong người ra, miết tay vào.
Lập tức thần đèn hiện lên. Alátđanh bảo:
- Thần à, trước đây ta truyền cho ngươi để lại một trong số hai mươi bốn cửa sổ ở phòng khách không hoàn chỉnh và ngươi đã thi hành lệnh của ta. Giờ đây ta gọi ngươi đến để nói cho ngươi biết là ta muốn chiếc mành cửa này cũng hoàn hảo như tất cả những chiếc kia.
Thần đèn biến mất. Alátđanh cũng ra khỏi phòng khách. Lát sau chàng trở lại thì trông thấy bức mành này đã làm xong, giống hệt những chiếc kia.
Trong thời gian đó, các nhà buôn ngọc và thợ kim hoàn được đưa vào cung ra mắt hoàng đế. Viên thợ cả thay mặt cả nhóm nói:
- Tâu bệ hạ, suốt một thời gian dài chúng tôi đã mang tất cả tài nghệ ra để hoàn thành công trình bệ hạ giao phó. Hôm qua vào lúc đã khá muộn, Alátđanh buộc chúng tôi phải tháo dỡ tất cả những gì chúng tôi đã làm được và bảo chúng tôi mang trả lại bệ hạ và tể tướng số châu ngọc này.
Vua hỏi Alátđanh có cho họ rõ lý do không. Những người thợ đáp chàng không hề cho họ biết một tí gì, vua liền truyền lấy ngay lập tức một con ngựa. Ngựa được đưa đến, vua lên đi ngay, không có đoàn hộ giá nào khác số quân hầu cận chạy bộ theo. Đến dinh Alátđanh, tận chân cầu thang, vua mới xuống ngựa và không báo cho phò mã biết, đi thẳng lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ. Nhưng Alátđanh đã chực sẵn ở đấy và kịp nghênh tiếp vua ngay từ ngoài cửa.
Không để Alátđanh kịp hỏi sao vua không cho báo trước để chàng đến nỗi phải thất lễ, hoàng đế nói ngay:
- Con ạ, ta thân hành đến đây hỏi tại làm sao con lại muốn để cho lâu đài tráng lệ và kỳ lạ như dinh của con không hoàn hảo?
Alátđanh không nói thật là hoàng đế không đủ châu báu để dùng vào việc đó. Nhưng, để cho vua thấy rõ lâu đài của chàng không những hơn đứt cung điện của vua mà còn hơn hẳn mọi cung điện khác trên đời, bởi vì chính vua cũng không đủ sức hoàn thành một bộ phận nhỏ nhặt nhất của nó, chàng đáp:
- Tâu bệ hạ, đúng là hôm trước, bệ hạ có trông thấy phòng khách này chưa hoàn hảo, nhưng giờ đây xin bệ hạ nhìn xem thử có khiếm khuyết chỗ nào.
Hoàng đế bước thẳng đến cái cửa sổ trước đây có bức mành làm dở. Khi nhận thấy bức mành này cũng chẳng khác gì các bức mành kia, vua tưởng là mình trông nhầm. Không những vua xem kỹ hai cửa sổ kề bên, mà còn lần lượt xem tất cả. Khi biết chắc chắn bức mành đã làm cho vua tốn mất bao thời gian, dùng bao công thợ vẫn chưa làm xong, nay đã hoàn thành trong một thời gian ngắn ngủi, vua liền ôm chầm lấy Alátđanh và hôn lên trán chàng, vào chỗ giữa hai con mắt. Vua kinh ngạc nói với chàng:
Con ơi, con là ai mà làm nên bao điều kỳ lạ hầu như trong nháy mắt? Trên đời này con thật là độc nhất vô song, và càng hiểu con, ta càng thêm mến phục.
Alátđanh tỏ vẻ khiêm nhường trước những lời khen của vua, chàng trả lời như sau:
- Muôn tâu bệ hạ, thật là vạn hạnh cho con được bệ hạ đoái thương mà khen ngợi. Điều con có thể khẳng định là xin luôn luôn cố gắng để xứng đáng với tình thương cũng như lời khen của bệ hạ.
~
Hoàng đế trở về cung cũng đơn giản như khi đi, không cho Alátđanh được theo tiễn. Tể tướng đã chực sẵn ở hoàng cung. Tâm trí còn tràn trề khâm phục về điều kỳ diệu vừa trông thấy, vua kể lại say sưa đến nỗi tể tướng không những bớt hoài nghi mà càng tin chắc rằng tòa lâu đài chỉ là chuyện ma thuật, như ông đã thổ lộ với vua ngay hôm tòa nhà vừa xuất hiện. Tể tướng muốn lặp lại ý nghĩ đó của mình, song vua đã ngắt lời:
- Khanh ạ, ông đã từng nói với ta điều đó, rõ ràng là ông chưa muốn quên cái đám cưới dở dang giữa con gái ta và con trai ông.
Tể tướng thấy rõ vua đã có định kiến. Ông không muốn nói lại, mặc cho vua giữ ý kiến của mình. Như đã thành lệ, ngày nào cũng vậy, hễ thức dậy là hoàng đế đến ngay một căn buồng từ đấy nhìn rõ toàn bộ dinh phò mã. Trong ngày, thế nào vua cũng đến nơi để ngắm nghía, trầm trồ khen ngợi.
Trong thời gian đó, Alátđanh không ở mãi trong nhà. Chàng chú ý mỗi tuần vài lần đi xem phố hoặc đến đọc kinh, hôm ở nhà thờ này hôm ở nhà thờ khác, thỉnh thoảng lại đến chào thăm tể tướng. Ông này vẫn thích đến chơi với chàng vào những ngày nhất định. Có khi chàng đến thăm các quan đại thần mà chàng vẫn thường mời đến dinh để đãi ngộ. Mỗi lần ra phố, chàng sai hai tên trong đám đông nô lệ theo hầu, hắt những nắm tiền vàng tung ra các phố xá và quảng trường, thưởng cho dân chúng thường tụ tập đông đảo những nơi chàng đi qua. Ngoài ra, chưa từng có một kẻ nghèo khó nào đến gõ cửa dinh quan phò mã mà ra về không hài lòng bởi sự hào phóng của chàng.
Alátđanh sắp xếp thời giờ sao cho tuần nào cũng đi săn được ít ra là một lần, khi thì ở quanh thành phố, khi thì đi xa hơn, và đi qua thôn nào chàng cũng đều tỏ ra rộng rãi như vậy. Tính tình hào phóng ấy làm cho dân chúng hết lời ca ngợi. Chàng không bao giờ nặng lời với một ai. Tóm lại, tuy không muốn làm lu mờ hoàng đế mà chàng chú ý đến chầu đều đặn – ta có thể nói là nhờ phong thái đáng yêu và tính tình hào phóng – chàng được nhân dân rất quý mến, nhìn chung họ còn quý chàng hơn cả nhà vua.
Đi đôi với những đức tính tốt đẹp ấy chàng còn tỏ ra là người có tài năng và hết lòng vì lợi ích nước nhà.
Chàng có dịp tỏ rõ phẩm cách nhân một dịp giặc cướp nổi lên ở biên thúy. Vừa nghe tin hoàng đế cử binh đi tiễu phạt, chàng vội đến xin vua cho phép được cầm đạo binh ấy. Vua bằng lòng ngay. Vừa nắm quyền chỉ huy, chàng đã hành quân thần tốc đến nỗi hoàng đế nhận được tin báo tiệp cho biết giặc đã bị đánh bại, diệt trừ và dẹp xong, cùng một lúc với tin chàng đến nắm quyền chỉ huy quân đội. Chiến công đó làm cho tên tuổi của chàng vang dội khắp cả nước. Nhưng Alátđanh không vì vậy mà kiêu căng. Chiến thắng trở về, chàng vẫn là con người hiền dịu và đáng mến như bất cứ bao giờ.
~
Alátđanh sống và xử thế theo cách đó trong nhiều năm. Chợt một hôm, lão phù thủy – y đã trở về châu Phi và không ngờ chính y đã đưa lại cho chàng phương tiện để đạt địa vị cao sang ấy – sực nhớ tới chàng. Mặc dù tin chắc là Alátđanh đã bỏ mạng trong hang sâu, lão vẫn cứ nảy ra ý thử tìm hiểu chính xác xem cậu đã chết như thế nào. vốn là một tên có tài bấm độn, lão mang các dụng cụ ra phù phép. Nhìn kết quả, lão phát hiện ra rằng không phải Alátđanh đã chết trong hang sâu dưới mặt đất, mà trái lại, chàng đã thoát ra được và hiện đang sống huy hoàng trên mặt đất, cực kỳ giàu có, lấy con gái vua, được mọi người trọng vọng, kính mến.
Lão phù thủy nhờ pháp thuật vừa biết rõ Alátđanh đang ở vào địa vị rất cao sang, liền nổi cơn tức giận đến điên cuồng. Lão tự bảo:
- Thằng khốn nạn con lão thợ may ấy đã phát hiện ra điều bí mật và quyền năng của cây đèn. Ta tưởng nó chết mất giống rồi, hóa ra nó đang tọa hưởng kỳ thành kết quả công sức tu luyện của ta! Hoặc là ta ngăn không cho nó hưởng thụ, hoặc là ta chết!
Lão không phải mất nhiều thời giờ để suy nghĩ nên hành động như thế nào. Ngay sáng hôm sau, lão dắt con ngựa trong chuồng ra và khởi hành. Lão đi qua không biết bao nhiêu là đường đất. Từ thành phố này sang thành phố khác, hết tỉnh này đến tỉnh nọ, chỉ dừng chân cho ngựa lấy hơi, cuối cùng lão đến được Trung Quốc và tới kinh đô nước mà Alátđanh đang làm phò mã. Ghé một quán trọ, lão xuống ngựa vào hỏi thuê phòng trọ. Lão nghỉ lại một ngày một đêm ở đấy để lấy lại sức sau chuyến đi vất vả gian lao.
Ngày hôm sau, việc đầu tiên của lão phù thủy là tìm hiểu xem dân chúng mới nói những gì về Alátđanh. Lão đi dạo qua các phố xá rồi đi vào nơi nổi tiếng nhất, có nhiều kẻ quyền cao chức trọng lui tới, họ tụ họp ở đây để uống một loại rượu hâm nóng mà lão đã từng được nếm trong chuyến đi trước. Lão vừa ngồi yên chỗ đã có người rót và mang tới một bát rượu. Vừa uống lão vừa lắng tai nghe: lúc ấy người ta đang nói về dinh quan phò mã.
Uống xong bát rượu, lão đến gần một người đang nói chuyện, và chờ lúc thuận tiện, hỏi riêng người đó dinh phò mã như thế nào mà được ca ngợi như vậy.
- Bác từ đâu đến? – Người kia đáp. – chắc hẳn bác là người xứ khác mới đến đây cho nên mới chưa từng trông thấy hay nghe nói đến phò mã Alátđanh (từ ngày chàng kết hôn với công chúa Bađrunbuđua, mọi người đều gọi chàng bằng danh vị ấy). Tôi sẽ không nói với bác đấy là một kỳ quan của thế giới, mà còn nói rằng đấy là kỳ quan duy nhất của thế giới. Chưa từng có ai trông thấy bao giờ một cái gì vĩ đại, quý báu, huy hoàng như vậy. Chắc hẳn bác từ một nơi xa lắm đến đây, cho nên mới chưa nghe nói tới nó. Thật vậy, từ khi tòa lâu đài ấy được cất lên, cả quả đất đều trầm trồ. Bác hãy đến mà xem, rồi bác sẽ thấy lời tôi nói đúng hay không đúng.
- Xin ông hãy bỏ qua cho về sự ngu dốt của tôi. – Lão phù thủy nói. – chả là tôi mới đến đây chiều hôm qua, và đúng là từ rất xa đến, tôi muốn nói từ nơi tận cùng của châu Phi, ở đấy khi tôi ra đi thì tiếng tăm tòa lâu đài này chưa đồn tới. Và bởi vì tôi có việc cần kíp, dọc đường chỉ nghĩ tới chuyện đi sao cho chóng tới nơi, không ghé lại ở đâu và cũng chẳng làm quen với ai, cho nên chẳng rõ được những điều ông vừa cho biết. Nhưng thế nào tôi cũng phải đến xem. Hơn nữa tôi còn quá nôn nóng đến nỗi sẵn sàng đi ngay bây giờ để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình, nếu như ông vui lòng chỉ giúp đường cho.
Người nói chuyện với lão phù thủy vui lòng chỉ cho lão lối đi để tới xem dinh quan phò mã. Thế là lão đứng lên và đi ngay tức khắc. Tới nơi và xem xét kỹ tòa lâu đài ở cả bốn phía, lão càng không ngờ vực chút nào chính Alátđanh đã nhờ cây đèn thần xây cất nên. Chưa nói đến chuyện chàng ta, con một bác thợ may bình thường, không thể nào có đủ tiền của, lão còn biết rằng chỉ có những quỷ thần nô lệ của cây đèn – đã trượt khỏi tay của lão – mới có khả năng làm nên những chuyện kỳ diệu thế này. Ngậm đắng nuốt cay trước hạnh phúc và danh vọng của Alátđanh gần như không kém gì hạnh phúc và danh vọng của hoàng đế, lão phù thủy trở về quán trọ của mình.
Vấn đề là làm sao biết được cây đèn để ở đâu, hoặc là Alátđanh mang theo bên người, hoặc là chàng cất giấu ở một chỗ nào, đó là việc phải nhờ đến phép bấm độn. Vừa về tới nơi nghỉ trọ, lão đã giở bộ đồ nghề mà bất cứ đi đâu lão cũng mang theo. Bấm dẫn xong, lão biết được cây đèn vẫn để ở trong dinh của Alátđanh. Sự phát hiện ấy làm cho lão mừng rơn đến gần như không tự chủ nổi. “Ta sẽ có cây đèn thần; ta thách Alátđanh ngăn không cho ta lấy khỏi tay hắn, rồi ta sẽ đưa hắn trở về địa vị xuất thân hèn hạ như trước khi hắn vươn lên tới đỉnh cao sang thế này.”
Điều không may cho Alátđanh là trong thời gian ấy chàng đang làm một chuyến đi săn lâu tới tám ngày, và chàng mới đi được có ba hôm. Lão phù thủy biết được điều đó là nhờ mánh khóe sau đây.
Sau cái quẻ bấm dẫn đã làm cho lão xiết bao vui mừng, lão đi tìm ngay người trông nom quán trọ, lấy cớ là muốn chuyện trò, và quả là lão có tài về môn tán tỉnh thật. Lão nói với người trông quán rằng lão vừa đi xem dinh quan phò mã; và sau khi đã nói quá lâu về những điều trông thấy mà lão cho là kỳ lạ và đáng chú ý nhất, lão nói tiếp:
- Tính hiếu kỳ của tôi còn đòi hỏi nhiều hơn cơ. Tôi sẽ hài lòng nếu chưa được nhìn thấy chủ nhân của một dinh cơ diệu kỳ dường ấy.
- Việc đó cũng chẳng có khó khăn gì đâu, – người trông nom quán trọ đáp – không ngày nào quan phò mã không đi ra phố. Nhưng đã ba hôm nay ngài đi săn xa, cuộc săn này kéo dài đến tám ngày.
Lão phù thủy không cần biết nhiều hơn. Lão từ biệt người trông quán, và vừa đi vừa tự nhủ: “Đây là thời cơ hành động, ta không được để lỡ mất.”
Lão đến cửa hiệu của một người làm đèn và bán đèn:
- Bác cả ạ, tôi cần một tá đèn đồng, bác có đủ để bán cho tôi không?
Người bán đèn đáp hiện còn thiếu vài chiếc, nhưng nếu khách vui lòng nán cho đến sáng mai, ông ta sẽ giao đủ vào bất cứ lúc nào khách muốn. Lão phù thủy bằng lòng. Lão dặn các cây đèn phải sạch sẽ và bóng lộn, và hứa sẽ trả giá hời, rồi trở về quán trọ.
Ngày hôm sau, người bán đèn giao đủ một tá đèn. Lão phù thủy trả đủ số tiền người đó đòi, không bớt một xu. Lão cho tất cả vào một chiếc thúng mang theo sẵn, rồi cắp chiếc thúng bên nách, đi về phía tòa lâu đài của Alátđanh. Gần tới nơi, lão lớn tiếng rao:
- Ai có đèn cũ muốn đổi lấy đèn mới nào?
Lão vừa tới, thì lũ trẻ con chơi trên quảng trường nghe tiếng rao chạy vội đến vây quanh, rồi reo hò mà nhìn lão như một thằng điên.
Những người qua đường cũng cười cho sự ngốc nghếch của lão. Họ nói: “Lão này hẳn phải mất hết trí khôn cho nên mới mang đèn mới đi đổi lấy đèn cũ!”
Lão phù thủy người Phi chẳng quan tâm đến những tiếng reo hò của trẻ con cũng như tất cả những điều người ta có thể nói về lão. Lão tiếp tục rao:
- Ai có đèn cũ muốn đổi lấy đèn mới nào?
Lão cứ qua qua lại lại trước và quanh tòa lâu đài, và cứ rao mãi, đến nỗi công chúa Bađrunbuđua lúc ấy đang ngồi trong phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, cũng nghe tiếng. Nhưng vì nàng không phân biệt rõ lời rao bởi những tiếng hò reo của lũ trẻ con đi theo mỗi lúc một đông hơn, nàng sai một ả nữ tì đứng gần nhất đi nghe cho rõ tiếng ồn ào ấy là gì.
Lát sau người nữ tì trở lại. Ả vào phòng khách vừa đi vừa cười như nắc nẻ, đến nỗi công chúa trông thấy cũng không nhịn được cười.
- Con điên kia, mày có chịu nói ra cho ta rõ vì sao mày cười không nào?
- Thưa công chúa, ai mà có thể nhịn cười được, khi trông thấy một người điên tay cắp một chiếc thúng đựng đầy những cây đèn mới toanh, nhưng không rao bán mà lại đòi đổi lấy đèn cũ? Chính lũ trẻ con đang vây kín lão, hầu như không cho lão đi, và chế giễu lão cho nên mới sinh ra tiếng ồn ào như vậy.
Đến đây, một nữ tì khác nói chen vào:
- Nhân chuyện đèn cũ, không biết công chúa có để ý không, trên nóc cột kia của nhà ta có một chiếc. Ai là chủ của nó chắc sẽ không bất bình về việc đánh đổi nó lấy một chiếc đèn mới. Nếu công chúa bằng lòng, ta có thể mang ra thử xem lão kia có thật là điên không, ai lại đổi đèn mới lấy đèn cũ mà không đòi bù các thêm tí gì bao giờ.
Cây đèn mà ả nữ tì nói đến ấy chính là cây đèn kỳ diệu đã đưa Alátđanh lên tới địa vị cao sang hiện nay. Chàng đã để lên đấy trước khi đi săn để khỏi đánh rơi mất, mỗi khi đi xa chàng vẫn làm như vậy. Nhưng các nữ tì, hoạn nô cho đến công chúa cũng không ai để ý. Ngoài thời gian đi săn, chàng luôn luôn mang theo mình. Chắc có người sẽ bảo Alátđanh cẩn thận như vậy là đúng, song ít ra chàng cũng phải cất kín cây đèn vào một nơi nào chứ. Đúng như vậy, nhưng thời buổi nào người ta chẳng phạm những sơ suất tương tự, bây giờ cũng vậy và mãi mãi sau này cũng thế thôi.
Công chúa Bađrunbuđua không biết cây đèn này quý báu vô cùng, nó quan hệ đến vận mệnh của Alátđanh cũng như bản thân nàng, không được ai đụng đến mà ngược lại phải giữ gìn cẩn thận, cho nên nàng cũng muốn đùa chơi. Nàng truyền cho một hoạn nô mang cây đèn xuống đổi. Viên hoạn nô tuân lệnh đi ra, và vừa ra ngoài dinh đã trông thấy lão phù thủy người Phi. Gã cất tiếng gọi. Lão phù thủy đến gần, viên hoạn nô chỉ cây đèn cũ mà nói: “Hãy đổi cho tôi một cây đèn mới lấy cây đèn này.”
Lão phù thủy biết chắc đấy là cây đèn lão đang tìm kiếm. Không thể có một cây đèn nào khác trong lâu đài của Alátđanh, nơi mà tất cả đồ dùng đều bằng vàng hay bằng bạc. Lão nhanh nhẹn đỡ lấy, nhét sâu vào dưới áo rồi chìa cái sọt cho viên hoạn nô, bảo muốn lấy cây đèn mới nào thì lấy. Viên hoạn nô chọn lấy một chiếc rồi bỏ lão phù thủy ở đấy, mang cây đèn mới lên cho công chúa Bađrunbuđua. Cuộc đổi chác vừa xong, lũ trẻ con đã cười reo ầm ĩ vang cả quảng trường, chúng vừa cười vừa chế giễu cái mà chúng cho là sự ngốc nghếch của lão phù thủy.
Lão cứ để mặc cho chúng tha hồ hò la. Lão không nấn ná quanh dinh thự của Alátđanh nữa, mà lặng lẽ và kín đáo lảng dần, tức là chẳng kêu rao gì sất về chuyện đổi đèn mới lấy đèn cũ. Lão chẳng còn thiết những cây đèn nào khác ngoài chiếc đang mang trong người. Lũ trẻ thấy lão im lặng, cũng lảng xa dần và để yên cho lão đi.
Khi đã đi khá xa quảng trường nằm giữa hai tòa lâu đài, lão lẩn vào những đường phố vắng người qua lại nhất, và vì chẳng còn cần đến đèn đến sọt nữa, lão nhìn trước sau không thấy có ai, liền quang tất cả lại giữa phố, rồi chuồn sang một phố khác và bước gấp cho đến khi tới được cổng thành. Đi một mạch ra ngoại ô vốn cũng khá rộng, lão mua ít nhiều thức ăn rồi đi thẳng ra ngoài kinh thành. Đến nông thôn, lão rẽ ngang vào một nơi vắng vẻ không có ai trông thấy, chờ đến lúc tìm được chỗ thuận tiện để thực hiện ý đồ đã đưa lão từ châu Phi đến. Lão cũng chẳng tiếc con ngựa đã bỏ lại nơi quán trọ. Lão cho rằng cái báu vật lão vừa chiếm đoạt quá đủ đền bù cho lão rồi. Suốt ngày hôm ấy lão ở yên chỗ đó, đợi cho đến đêm, vào lúc trời tối nhất. Lúc ấy lão mới lấy cây đèn từ dưới lần áo ra và miết vào tay. Theo lệnh gọi, thần đèn xuất hiện:
- Ngài cần gì? Cùng với các nô lệ khác của cây đèn, tôi sẵn sàng tuân lệnh ngài cũng như tuân lệnh tất cả những ai cầm đèn ở tay.
Ta ra lệnh cho ngươi – lão phù thủy nói – ngay tức khắc hãy mang tòa lâu đài mà ngươi và các nô lệ khác của cây đèn đã xây cất lên trong thành phố này, y nguyên như vậy cùng với tất cả những người sống bên trong, chuyển đến châu Phi vào chỗ ấy chỗ ấy…
Không đáp, thần đèn chuyển lão phù thủy và toàn bộ lâu đài đến đúng vào nơi lão chỉ ở châu Phi, trong một thời gian rất ngắn.
Đến đây, chúng ta tạm để lão phù thủy cùng tòa lâu đài và công chúa Bađrunbuđua ở châu Phi, để nói về nỗi kinh ngạc của hoàng đế Trung Quốc.
Theo thường lệ, vừa ngủ dậy hoàng đế đã đến ngay cái buồng trống của mình để ngắm nghía tòa lâu đài của Alátđanh. Nhìn về phía vẫn quen nhìn, vua chỉ thấy một quãng đất trống giống hệt như dạo chưa xây dựng tòa nhà. Ngỡ mình nhầm, vua đưa tay giụi mắt.
Nhưng vẫn không trông thấy gì hơn mặc dù thời tiết lúc này rất tốt, bầu trời quang đãng và mặt trời cũng sắp mọc, cho nên mọi vật đều nhìn rất rõ. Vua nhìn từ cả hai cửa, ở bên phải và bên trái, mà vẫn chẳng trông thấy gì. Vua kinh ngạc đến nỗi đứng sững hồi lâu, mắt không rời phía tòa lâu đài giờ đây không còn nữa, cố nặn óc mà chẳng sao hiểu được, chẳng làm sao biết được do đâu một dinh cơ to lớn, lồ lộ như dinh của Alátđanh, mà từ ngày được xây cất theo phép của vua đến hôm qua hầu như không ngày nào nhà vua không trông thấy, ấy thế mà tự dưng tan biến đi mất không để lại chút dấu vết nào. “Ta không thể nhầm, – vua tự nhủ – tòa lâu đài trước đây ở vào chỗ kia. Nếu nó đổ sụp xuống thì ít ra vật liệu cũng hãy còn thành đống. Nếu nó lún sâu vào lòng đất, thì ít ra cũng có thể nhìn thấy vết chứ.”
Mặc dù chắc chắn tòa lâu đài không còn ở đấy nữa và chẳng biết nó biến mất bằng cách nào, vua vẫn nán chờ một lúc để xem thử có phải mình quáng mắt không. Cuối cùng vua đành bỏ đi, và trước khi đi khuất còn quay lại nhìn một lần nữa, rồi trở về phòng riêng và ra lệnh hỏa tốc triệu tể tướng đến. Trong khi chờ đợi, vua ngồi xuống, đầu óc trăm mối ngổn ngang, không biết nên xử trí thế nào.
Tể tướng vội vàng đến ngay. Ông đi hộc tốc đến nỗi cả ông và tất cả gia nhân tùy tùng đi ngang qua dinh phò mã mà không ai kịp để ý rằng nó không còn ở chỗ cũ nữa. Ngay cả bọn lính canh cổng, lúc mở cổng hoàng thành, cũng không để ý điều đó.
Vừa tới nơi, tể tướng nói:
- Tâu bệ hạ, được lệnh đòi hỏa tốc, thần nghĩ chắc có một việc khẩn cấp lắm vừa xảy ra, bởi vì bệ hạ rõ hôm nay là ngày thiết triều và thế nào trong chốc lát nữa thôi thần cũng phải đến làm phận sự.
- Việc vừa xảy ra thật kỳ lạ, đúng như ông nói, rồi ông sẽ thấy. Hãy cho ta biết, dinh cơ Alátđanh đâu rồi?
- Dinh quan phò mã ư, tâu bệ hạ? – Tể tướng ngạc nhiên đáp – Thì thần vừa đi qua trước đó, và hình như nó vẫn ở nguyên chỗ cũ. Những công trình xây dựng kiên cố loại ấy không thể đổi chỗ dễ dàng như vậy.
- Ông hãy đi đến căn buồng kia mà nhìn xem, rồi trở lại đây cho ta hay có đấy hay không!
Tể tướng đi đến căn buồng trống, và nhận thấy đúng như hoàng đế vừa nói. Khi đã chắc chắn là tòa lâu đài của Alátđanh không còn ở chỗ cũ nữa và cũng chẳng để lại dấu vết nhỏ nào, tể tướng quay trở lại phòng của vua.
- Thế nào, ông có nhìn thấy tòa lâu đài không? – Hoàng đế hỏi.
- Tâu bệ hạ, bệ hạ chắc còn nhớ thần đã từng hân hạnh tâu với Người tòa lâu đài với những của cải bên trong đã từng làm cho bệ hạ khâm phục, chỉ là trò ma phép quỷ của một tên phù thủy, nhưng bệ hạ không buồn để ý đến lời thần.
Không có cách gì bác được điều tể tướng vừa nói, vua càng nổi cơn thịnh nộ, nhất là khi không thể không thừa nhận là mình đã nhầm:
- Tên dối trá, thằng súc sinh ấy đâu rồi, để cho ta ra lệnh chặt đầu!
- Tâu bệ hạ, cách đây mấy hôm, y có đến xin phép bệ hạ được vắng mặt. Ta hãy sai người tìm hỏi y dinh thự của y ở đâu rồi, không có lý gì y không biết rõ.
- Đối xử với nó như vậy thì quá khoan hồng, – vua nói – ông hãy sai ba chục kỵ binh của ta đi bắt và xích cổ nó lại giải về đây cho ta.
Tể tướng truyền lệnh của vua cho các kỵ sĩ, và ra lệnh cho viên võ quan những việc làm cần thiết phòng ngừa Alátđanh trốn mất. Đội kỵ binh lên đường, đến cách kinh thành khoảng năm, sáu dặm thì gặp Alátđanh đi săn trở về. Viên võ quan thưa hoàng đế nóng lòng muốn gặp phò mã, đã sai họ đến đón, trình chàng rõ và rước chàng mau chóng trở về.
Alátđanh không mảy may ngờ vực nguyên cớ thực đưa đội cận vệ của hoàng đế tới đón chàng. Trên đường về chàng vẫn tiếp tục săn bắn ung dung. Nhưng khi chỉ còn cách kinh thành chừng nửa dặm, đội cận vệ vây chặt chàng, rồi viên võ quan cất lời: “Thưa quan phò mã Alátđanh, chúng tôi lấy làm tiếc mà thưa với ngài rằng theo lệnh của hoàng đế, chúng tôi phải bắt và giải ngài về như một quốc tặc, xin ngài hãy thông cảm chúng tôi phải làm phận sự mà tha thứ cho.”
Alátđanh vẫn nghĩ mình vô tội, nghe lệnh hết sức ngạc nhiên, chàng hỏi viên võ quan có biết chàng bị kết tội gì không, song chỉ được trả lời là cả y và lính dưới quyền của y không ai hay biết gì sất.
Alátđanh thấy gia nhân của mình ít hơn nhiều so với đội lính, hơn nữa chúng cũng đang lảng xa dần, chàng liền ngồi xuống ngựa và nói:
- Ta đây, các ngươi hãy thi hành mệnh lệnh được giao. Tuy nhiên ta có thể nói là ta không thấy mình mắc tội gì đối với hoàng đế cũng như đối với triều đình.
Bọn lính lấy sợi xích rất to, rất dài tròng vào cổ chàng rồi trói chặt hai tay vào thân, không cho cử động. Viên chỉ huy đi đầu hàng quân, một tên lính cưỡi ngựa cầm một đầu sợi xích đi bên cạnh, bắt Alátđanh phải đi bộ, và cứ như thế giải chàng về kinh thành.
Tốp kỵ binh vào đến ngoại ô, những người đầu tiên trông thấy Alátđanh bị giải như một tên trọng tội, đều tin chắc chàng bị đưa đi chặt đầu. Chàng vốn được mọi người yêu mến, cho nên dân chúng kẻ cầm gươm kẻ cầm giáo, những ai không có gươm giáo thì vác đá rượt theo bọn kỵ binh. Một vài tên lính đi cuối hàng quay trở lại làm ra vẻ muốn giải tán đám đông. Nhưng, chỉ một lát sau, người ùn ùn kéo đến đông đến nỗi bọn này phải vờ làm như không trông thấy, miễn làm sao về được đến hoàng cung mà không bị họ cướp mất Alátđanh là được.
Để đạt mục đích đó, tùy theo đường phố rộng hay hẹp, bọn lính dàn hàng ngang khi giãn ra, khi thì khép lại cho chật hết lòng đường. Cứ như vậy, khi về đến quảng trường trước hoàng cung, chúng dàn thành hàng một quay mặt lại đám đông dân chúng vũ trang, cho đến khi võ quan cùng tên lính giải Alátđanh vào lọt được trong hoàng thành và bọn lính cấm vệ đã đóng cổng lại, không cho dân tràn vào.
Alátđanh bị giải đến trước mặt hoàng đế. Vua đang cùng với tể tướng đứng chờ trên bao lơn. Vừa trông thấy chàng vua liền truyền cho đao phủ đã được lệnh túc trực ở đây chặt đầu ngay tức khắc mà không buồn hỏi chàng một câu cho sáng tỏ ngọn nguồn.
Đao phủ túm lấy Alátđanh, tháo sợi xích tròng quanh cổ và quanh người chàng. Sau khi trải ra đất một tấm da từng nhuộm máu không biết bao nhiêu tội nhân y đã hành quyết, y bảo chàng quỳ xuống và lấy khăn bịt mắt. Xong đâu đấy, y rút gươm ra khỏi vỏ, lấy thế để chém, ướm thử rồi vung gươm múa ba vòng, quay tít trên đầu, chờ vua ra lệnh là chặt lấy thủ cấp Alátđanh.
Vừa lúc ấy, tể tướng trông thấy đám đông dân chúng đã đẩy lùi được tốp kỵ binh và ùa vào chật cả quảng trường, đang trèo lên hoàng thành ở nhiều nơi, và bắt đầu phá một chỗ làm lối vào. Ông kịp nói, trước khi vua ra hiệu cho đao phủ:
- Tâu bệ hạ, xin hãy nghĩ cho chín điều bệ hạ sắp làm. E rằng có nguy cơ hoàng cung bị tiến công, và nếu sự biến ấy xảy ra, kết quả sẽ rất tai hại.
- Hoàng cung của ta bị tiến công! Kẻ nào dám to gan như vậy?
- Xin hãy nhìn xuống tường hoàng thành và nhìn ra quảng trường, bệ hạ sẽ thấy sự thật.
Nhìn thấy quần chúng xúc động sôi sục, vua khiếp quá vội vàng hạ lệnh ngay cho đao phủ tra gươm vào vỏ, mở khăn bịt mắt cho Alátđanh và ân xá cho chàng. Vua cũng sai lính rao lớn hoàng đế tha tội cho phò mã, truyền cho mọi người ai về nhà nấy.
Thế là những người đã trèo lên tường thành chứng kiến cảnh vừa xảy ra, liền từ bỏ ý định của mình. Chẳng mấy chốc họ xuống hết, và sung sướng vì đã cứu được tính mạng của một con người họ yêu mến thực sự, họ loan truyền tin đó cho những kẻ đứng chung quanh. Tin truyền ra khắp đám đông trong quảng trường cộng với tiếng rao của bọn lính leo lên các chòi cao, giúp cho mọi người đều biết rõ. Tin hoàng đế ân xá Alátđanh làm quần chúng hạ vũ khí, ngừng tiếng ồn ào, và không ai bảo ai, mọi người lục tục trở về nhà.
Được tự do, Alátđanh ngẩng đầu nhìn lên và trông thấy hoàng đế.
- Muôn tâu bệ hạ, – chàng cất lời thảm thiết – cúi xin bệ hạ ban thêm cho một ân huệ nữa, là ngoài việc ân xá vừa rồi, xin cho biết tôi đã phạm tội gì?
- Tội của mày ư, tên khốn nạn! – Vua đáp – Mày không biết sao? Mày hãy lên đây, ta sẽ chỉ cho mày rõ.
Alátđanh lên tới nơi, hoàng đế bảo: “Hãy đi theo ta” rồi vua đi trước mà không thèm nhìn chàng. Vua dẫn chàng đến căn buồng trống, và khi đến trước cửa buồng, vua bảo: “Hãy vào đi, mày hẳn biết rõ dinh thự của mày ở chỗ nào. Hãy nhìn khắp nơi đi rồi nói cho ta biết nó ở đâu rồi.”
Alátđanh nhìn và không trông thấy gì cả.
Chàng nhận rõ đám đất nơi trước đây là tòa lâu đài của mình. Nhưng vì không biết nó đã biến mất như thế nào, hiện tượng bất thường và kỳ dị ấy làm cho chàng hoang mang và kinh ngạc đến nỗi không thể mở miệng trả lời vua một tiếng.
Sốt ruột, vua nhắc lại:
- Hãy nói đi nào, dinh thự của mày và con gái ta ở đâu rồi?
Bấy giờ Alátđanh mới lên tiếng:
- Tâu bệ hạ, xin thú thật là tôi đã nhận ra tòa lâu đài tôi cho xây cất nay không còn ở chỗ cũ nữa, nó đã biến mất và tôi cũng không thể tâu bệ hạ là hiện giờ nó ở chỗ nào, song tôi có thể quả quyết là kẻ này hoàn toàn chẳng dính líu gì đến sự kiện đó.
- Dinh cơ của mày ra sao, ta không cần biết. – Hoàng đế nói. – Con gái ta còn quý hơn một triệu lần. Ta muốn mày tìm ngay công chúa cho ta, nếu không ta sẽ chém đầu mày, và sẽ không ai có thể can ngăn ta không làm việc đó.
- Tâu bệ hạ, cúi xin bệ hạ cho tôi một thời hạn bốn mươi ngày, tôi xin cố hết sức mình. Hết thời hạn đó nếu không đạt được kết quả tôi xin thề sẽ mang đầu tôi đến đặt ngay dưới chân ngai vàng để tùy ý bệ hạ định đoạt.
Hoàng đế nói:
- Ta đồng ý cho bốn mươi ngày. Nhưng mày chớ có lạm dụng lòng tốt của ta mà hòng trốn tránh. Mày có trốn lên trời, ta cũng có cách tìm ra.
Alátđanh từ giã hoàng cung vô cùng tủi nhục. Dáng điệu của chàng trông thật đáng thương, chàng cúi đầu bước qua cái sân không dám ngước mắt nhìn lên. Các đại thần trong triều vốn là bè bạn của chàng và chưa từng có ai bị chàng làm phật ý, nay cũng không một người nào tiến đến gần để an ủi chàng và mời chàng về tạm trú tại nhà mình. Tất cả đều quay mặt đi để khỏi nhìn thấy chàng cũng như để chàng khỏi nhận ra họ.
Nhưng cho dù có ai đến gần chàng để nói lên một vài lời an ủi hoặc hứa giúp đỡ một điều gì, họ cũng không nhận ra Alátđanh nữa. Chàng không còn tự chủ, đầu óc chàng không còn minh mẫn. Điều đó càng lộ rõ khi chàng ra khỏi hoàng thành, chàng ngớ ngẩn vào hết nhà này tới nhà khác và hỏi tất cả những ai gặp trên đường xem có trông thấy lâu đài của chàng ở đâu không, có ai biết tin tức gì về dinh cơ của chàng thì xin cho chàng rõ với.
Những câu hỏi đó làm mọi người cho là Alátđanh đã mất trí. Một số người chỉ cười thôi, nhưng những kẻ biết điều hơn, hoặc đã từng có chút cảm tình hay từng giao thiệp với chàng, đều thực sự lấy làm thương hại. Chàng lang thang ba ngày liền trong thành phố, khi thì đi về hướng này, khi thì chạy sang hướng nọ, ai làm phúc cho được miếng gì thì ăn miếng ấy, mà chẳng biết nên xử trí ra làm sao.
Cuối cùng, không thể chịu nổi cảnh thân tàn ma dại ngay trong thành phố mà mình từng có một thời oanh liệt, chàng quyết định bỏ về nông thôn. Chàng tránh những con đường lớn, và sau khi đi băng qua nhiều cánh đồng với một tâm trạng hoang mang cực độ, cuối cùng vào chập tối chàng đến bên bờ một con sông.
Một ý nghĩ tuyệt vọng nảy ra trong trí. Chàng tự hỏi: “Ta đi tìm dinh thự của ta ở đâu? Ở tỉnh nào, ở nước nào, ở nơi nào trên trái đất, ta có thể tìm tòa lâu đài cũng như nàng công chúa yêu quý của ta như nhà vua đã hỏi? Không bao giờ ta có thể đạt được kết quả, vậy thì tốt hơn là ta nên tự giải thoát khỏi bao nhiêu gian lao vất vả mà rút cuộc chẳng đi tới đâu, giải thoát khỏi những nỗi đau buồn cay đắng đang gặm nhấm người ta.”
Quyết định như vậy rồi, chàng sắp nhảy xuống sông. Nhưng vốn là một người Hồi giáo ngoan đạo, chàng tự thấy không thể quyên sinh khi chưa đọc kinh cầu nguyện. Để sửa soạn làm việc đó, chàng xuống sát mép nước định rửa mặt mũi chân tay, đúng theo tục lệ.
Nhưng vì bờ sông ấy khá dốc và trơn, chàng trượt chân và có lẽ đã lăn xuống nước nếu không kịp bám vào một tảng đá trồi khỏi mặt đất cao chừng hai bộ. May mắn cho chàng, ở ngón tay chàng vẫn còn đeo chiếc nhẫn mà lão phù thủy người Phi đã đưa cho, trước khi sai chàng xuống hang lấy cây đèn thần. Lúc tay chàng bấu vào hòn đá, chiếc nhẫn chạm vào khá mạnh. Lập tức thần nhẫn đã từng hiện lên dưới hang sâu sau khi lão phù thủy lấp hang chôn sống chàng, lại hiện ra trước mặt:
- Ngài cần gì? – Thần nhẫn hỏi. – Cùng với các nô lệ khác của nhẫn, tôi sẵn sàng tuân lệnh ngài cũng như tất cả những ai đeo nhẫn ở tay.
Sự xuất hiện thật quá bất ngờ đối với Alátđanh trong cơn tuyệt vọng, chàng vui mừng đáp:
- Hỡi thần, ngươi hãy cứu sống ta một lần nữa bằng cách nói cho ta rõ tòa lâu đài của ta đâu rồi, hoặc là đưa nó trở về ngay chốn cũ của nó.
- Điều ngài đòi hỏi không thuộc quyền lực của tôi, -thần nhẫn đáp – tôi chỉ là nô lệ của cái nhẫn, ngài hãy hỏi nô lệ của cây đèn.
Alátđanh tiếp:
- Nếu vậy thì ta ra lệnh cho ngươi hãy đưa ta tới nơi có lâu đài của ta, cho dù nó đang ở chốn nào trên mặt đất và hãy đặt ta bên dưới cửa sổ buồng công chúa Bađrunbuđua.
Chàng vừa dứt lời, thần nhẫn đã cắp chàng mang sang châu Phi, đến tòa lâu đài xây dựng giữa một bãi cỏ rộng không xa một thành phố lớn, và đặt chàng đúng ngay vào bên dưới cửa sổ buồng riêng của công chúa. Tất cả những việc đó xảy ra chỉ trong nháy mắt.
Mặc dù đêm tối mịt, Alátđanh vẫn nhận rõ dinh thự của mình và phòng riêng của công chúa. Nhưng vì đêm đã quá khuya và mọi vật trong lâu đài đều yên ắng, chàng lùi xa ra một ít, rồi ngồi dưới một gốc cây. Ở đấy, lòng tràn trề hi vọng, suy nghĩ đến sự may mắn hoàn toàn do tình cờ mà có, chàng cảm thấy tâm hồn yên tĩnh hơn rất nhiều kể từ khi bị bắt giải đến trước hoàng đế và sau đó được tạm tha tội chết. Chàng vui mừng hồi lâu với những ý nghĩ ấy. Nhưng bởi vì đã năm, sáu ngày liền không chợp mắt, buồn ngủ quá không cưỡng được, chàng thiếp đi ngay dưới gốc cây.
Sáng hôm sau, trời vừa rạng, Alátđanh được đánh thức dậy một cách khoan khoái bởi tiếng hót líu lo của muôn ngàn chim chóc ngủ đêm trên cây mà chàng đang nằm dưới gốc và trên các cây cối khác rậm rịt trong vườn lâu đài. Đưa mắt nhìn tòa nhà tráng lệ, chàng cảm thấy một niềm vui không thể nào tả xiết, tưởng như mình sắp lại trở thành chủ nhân, và đồng thời cũng lại là chủ nhân của công chúa Bađrunbuđua yêu quý.
Chàng đứng lên và bước đến gần phòng riêng của công chúa. Chàng đi đi lại lại một lúc bên dưới cửa sổ, chờ cho trong nhà sáng hẳn và có người nhìn thấy chàng. Trong khi chờ đợi, chàng cố nghĩ xem do đâu xảy ra điều bất hạnh. Sau khi suy nghĩ lại kỹ càng, chàng không chút nghi ngờ gì nữa, bao nhiêu điều không may xảy ra chỉ vì chàng đã rời cây đèn. Chàng tự trách mình hờ hững và sơ suất, đáng ra không nên rời cây đèn bất cứ lúc nào. Điều làm cho chàng băn khoăn hơn nữa là không biết ai là kẻ ghen ghét hạnh phúc của mình. Hẳn chàng đã hiểu ra ngay nếu biết được, lúc này đây chàng và tòa lâu đài đang ở trên đất Phi châu. Song thần nhẫn không hề nói chàng rõ điều đó, vả lại chàng cũng không hỏi. Chỉ cần nhắc đến hai tiếng châu Phi thôi đã đủ để gợi lên trong ký ức Alátđanh lão phù thủy người Phi, kẻ thù không đội trời chung với chàng.
~
Công chúa Bađrunbuđua, từ khi bị lão phù thủy dùng ma thuật bắt cóc đưa sang châu Phi, sáng nào cũng thức dậy sớm hơn thường lệ. Cho đến lúc bấy giờ, ngày nào nàng cũng phải gặp mặt lão, bởi vì lão là chủ nhân tòa lâu đài. Song lần nào nàng cũng đối xử với lão rất tàn tệ đến nỗi lão chưa dám đến ở hẳn trong lâu đài.
Sáng hôm ấy, nàng vừa mặc áo xong thì một ả nô tì nhìn qua bức mành che cửa sổ, nhìn thấy Alátđanh, vội vàng chạy đến báo cho nàng biết. Công chúa không dám tin là thật, lật đật đến bên cửa sổ và cũng nhìn thấy Alátđanh. Nàng vén bức mành. Nghe tiếng động Alátđanh ngước mắt nhận ra nàng và chào nàng với một vẻ mừng vui đến cực độ. Công chúa nói: “Để khỏi mất thời giờ, sẽ có người xuống mở cánh cửa bí mật, chàng hãy vào và lên đây.” Nói xong hạ bức mành xuống.
Cái cửa bí mật ở ngay phía dưới phòng của công chúa. Cửa mở, Alátđanh bước lên buồng nàng. Không thể nào diễn tả hết vui mừng của đôi vợ chồng tưởng đã vĩnh viễn biệt ly, nay lại tái ngộ. Họ ôm hôn nhau nhiều lần và bằng nhiều cử chỉ tỏ rõ tình cảm nồng nàn sau thời gian xa cách đáng buồn và thật bất ngờ. Sau những cái hôn đầm đìa nước mắt, họ ngồi xuống ghế. Alátđanh bắt đầu nói:
- Công chúa ơi, trước khi nói đến chuyện gì khác, nàng hãy vì lợi ích của nàng, của phụ vương tôn kính và lợi ích của riêng tôi mà xin cho biết cây đèn cũ tôi để trên đầu cột trong phòng khách có hai mươi bốn cửa sổ trước khi đi săn, nay ra sao rồi.
- Chàng thân yêu ơi, – công chúa đáp – em đã ngờ ngợ rằng tai họa chung xảy đến cho hai ta là từ cây đèn ấy và điều làm cho em buồn khổ là chính tự em gây nên tai họa.
- Xin nàng chớ tự trách mình, gây nên mọi việc là tại tôi, lẽ ra tôi phải giữ gìn cây đèn cẩn thận hơn nữa thì mới phải. Thôi chúng ta hãy chỉ nên nghĩ tới cách bù đắp sự mất mát ấy, và vì vậy xin nàng hãy vui lòng kể cho tôi nghe sự việc đã xảy ra như thế nào, và cây đèn hiện rơi vào tay ai.
Công chúa Bađrunbuđua liền kể cho Alátđanh nghe đầu đuôi câu chuyện từ khi đổi cây đèn cũ lấy cây đèn mới – mà nàng sai mang đến cho chàng xem – cho đến đêm tiếp sau đó, nàng cảm thấy tòa lâu đài bị chuyển đi, rồi buổi sáng thức dậy thấy mình đã ở giữa châu Phi, mảnh đất xa lạ, mà sở dĩ nàng biết được là do chính miệng tên lừa bịp ấy nói ra sau khi đã dùng thuật yêu phép quỷ chuyển dịch tòa nhà.
Alátđanh ngắt lời nàng:
- Công chúa ơi, tôi hiểu ngay tên phản phúc ấy là ai rồi, khi nàng cho biết chúng ta đang ở trên đất Phi châu. Nhưng bây giờ không phải là lúc, là nơi kể lại cho nàng nghe chi tiết hơn về những hành vi độc địa của hắn. Tôi chỉ xin nàng cho biết hắn đã làm gì cây đèn, và hiện nay cây đèn để ở đâu.
- Nó gói ghém rất cẩn thận và luôn luôn giắt theo người, – công chúa đáp – em có thể quả quyết như vậy bởi vì hắn đã từng lấy từ trong người hắn ra và mở gói ngay trước mắt em.
Alátđanh liền bảo:
- Công chúa ơi, xin nàng chớ phiền lòng sao tôi hỏi chi nhiều cho nàng thêm mệt. Những việc này rất hệ trọng đối với nàng cũng như đối với tôi. Điều đặc biệt quan trọng mà tôi muốn biết là tên độc ác và gian trá ấy đối xử với nàng thế nào.
- Từ hôm em đến đây, mỗi ngày hắn ta chỉ đến gặp em một lần, và em tin chắc là vì không hài lòng về những chuyến viếng thăm ấy cho nên hắn không quấy rầy em nhiều hơn nữa. Lần nào hắn ta cũng chỉ nói đi nói lại với em mỗi một chuyện là thôi đừng gắn bó với chàng nữa mà nên lấy hắn làm chồng. Hắn muốn làm cho em tin rằng không còn hi vọng gặp lại chàng, rằng chàng không còn nữa, phụ vương em đã sai hành quyết chàng rồi. Để thanh minh, hắn nói thêm, chàng là một người vong ân bội nghĩa, mọi phú quý vinh hoa của chàng chẳng qua đều nhờ hắn, hắn còn nói bao nhiêu chuyện khác nữa mà em đều để ngoài tai.
Nhưng, bởi vì chỉ nhận được ở em những lời khóc lóc thở than, lần nào hắn cũng buộc phải ra về không hài lòng gì hơn lúc đến. Tuy nhiên, em cũng biết là hắn chờ cho em khuây khỏa bớt những nỗi buồn sâu sắc nhất, may ra sẽ thay đổi ý kiến, sau đó nếu em còn khăng khăng cự tuyệt hắn, hắn sẽ dùng đến lối vũ phu. Nhưng, hỡi chàng thân yêu, chàng tới được đây làm cho mọi nỗi lo âu của em tan biến hết.
- Công chúa ơi, – Alátđanh ngắt lời – nàng nghĩ như vậy là rất tốt, và ta tưởng đã tìm ra được cách xử trí với kẻ thù của nàng và cũng là của ta. Nhưng để thực hiện được việc đó, ta cần phải lên thành phố. Đến trưa ta sẽ quay lại, lúc ấy ta sẽ nói cho nàng rõ ý định của ta và những việc nàng cần làm để cho ý định ấy đạt kết quả. Song cũng xin nói trước để nàng khỏi ngạc nhiên, là ta sẽ trở về trong một bộ quần áo khác, nàng hãy truyền để có người mở cánh cửa bí mật ngay cho ta khi nghe tiếng gõ.
Công chúa hứa với chàng là sẽ có người túc trực, sẵn sàng mở cửa ngay cho chàng.
Alátđanh rời phòng riêng của công chúa vẫn bằng cái cửa ngách ấy. Ra ngoài đường đưa mắt nhìn quanh, chàng trông thấy một nông dân đang đi ra đồng.
Người nông dân ở phía bên kia tòa lâu đài và đi cũng khá xa, Alátđanh rảo bước, đuổi theo. Đuổi kịp, chàng đề nghị người đó đổi áo và nói thiết tha đến nỗi anh ta nhận lời. Hai người ghé vào thay áo ở bụi rậm rồi chia tay. Alátđanh trở về thành phố. Chàng đi vào thành phố chính thẳng đến cổng thành, rồi rẽ qua những đường phố đông đúc nhất tới một nơi có những phố phường riêng của mỗi loại nhà buôn và thợ thủ công. Đến phố hàng thuốc, chàng vào cửa hiệu to nhất, có nhiều mặt hàng nhất, hỏi chủ tiệm có bán một loại bột nọ hay không.
Người chủ hiệu thấy Alátđanh ăn mặc xoàng xĩnh, tưởng chàng nghèo, e không đủ tiền trả, đáp rằng có nhưng cũng khá đắt đấy. Biết gã cho là mình nghèo, Alátđanh rút túi tiền ra cho gã xem tiền vàng, rồi hỏi mua nửa cân loại bột ấy. Chủ hiệu cân xong, gói lại trao cho Alátđanh và đòi giá một đồng vàng. Alátđanh đặt đồng tiền vào tay lão, rồi chỉ nán lại trong phố một chốc lát vừa vặn để ăn qua loa một thức gì đó rồi trở về ngay dinh cơ của mình. Đến cánh cửa bí mật, chàng không phải chờ đợi lâu, có người mở ngay, và chàng đi thẳng lên phòng riêng của công chúa:
- Nàng ơi, căm ghét tên cưỡng đoạt ấy, chắc nàng sẽ không lấy gì làm vui mà thực hiện điều ta sẽ khuyên đây. Nhưng, cho phép ta được nói thật, giờ đây nàng phải giấu giếm tình cảm thật của mình, thậm chí phải nén lòng mà làm, nếu nàng muốn thoát khỏi bàn tay vũ phu của hắn, để cho phụ vương của nàng và cũng là chúa tể của ta, có hạnh phúc được gặp lại nàng.
Nếu nàng sẵn lòng nghe lời ta, – Alátđanh nói tiếp – thì ngay bây giờ, nàng hãy lấy bộ quần áo đẹp nhất ra mặc, rồi lúc nào lão phù thủy người Phi đến, nàng hãy cố gắng tiếp đãi cho thật nồng nhiệt, một cách tự nhiên, thoải mái, nét mặt thật hân hoan, để cho dù có thoáng lộ đôi chút buồn phiền, lão cũng tin rằng với thời gian, rồi nó sẽ tiêu tan. Trong câu chuyện, nàng hãy làm cho lão thấy rằng nàng đang cố gắng quên ta, và để cho lão càng tin chắc vào lòng chân thực của nàng, hãy mời lão đến cùng ăn tối, và nhớ nói thêm rằng, nàng sẽ rất vui thích được thưởng thức loại rượu ngon nhất của quê hương lão. Chắc chắn lão sẽ tạm biệt nàng để đi lấy rượu. Thế là trong thời gian chờ lão trở lại, khi bàn tiệc đã bày ra, nàng hãy bỏ gói bột này vào một chiếc ly giống hệt như chiếc nàng vẫn thường dùng rồi dặn trước một con hầu, bảo khi nào nàng ra một dấu hiệu đã giao hẹn trước với nó, thì hãy rót đầy rượu vào ly và mang đến cho nàng, chú ý không được để lẫn. Khi lão phù thủy trở lại và nàng cùng với lão đã ngồi vào bàn ăn, uống mấy lần tùy nàng xét định, lúc ấy nàng sẽ gọi cho mang ly rượu có pha bột ra, và đánh đổi ly rượu của nàng lấy ly của lão. Lão ta sẽ không dám từ chối một đặc ân lớn như vậy đâu. Lão sẽ uống kỳ cạn, không sót một giọt, và ly rượu vừa cạn, lão sẽ ngã vật ra ngay. Nếu nàng ghê không dám uống ly rượu của lão thì hãy làm giả bộ vờ như uống cũng được, chẳng có gì phải sợ. Tác dụng của thuốc nhanh đến nỗi lão ta không kịp suy nghĩ xem nàng có uống thật hay không.
Alátđanh vừa dứt lời, công chúa nói:
- Xin thú thật là em phải hết sức dằn lòng mới có thể tiếp đãi lão phù thủy theo cách chàng dặn, việc mà chính em cũng thấy là cần. Nhưng với một kẻ thù độc ác như hắn, còn có cách nào khác hơn. Vậy nên em sẽ làm tất cả những gì chàng bảo, bởi vì sự yên vui của em cũng như của chàng đều tùy thuộc vào đấy.
Bàn bạc xong đâu đấy với công chúa, Alátđanh cáo từ ra ẩn náu một nơi gần lâu đài chờ đến tối mới trở lại cạnh cái cửa bí mật.
Công chúa Bađrunbuđua, từ ngày phải xa cách không riêng Alátđanh, người chồng thân thương mà nàng yêu tha thiết ngay từ khi mới gặp và sau đó vẫn tiếp tục yêu xuất phát từ đáy lòng hơn là nghĩa vụ – mà còn phải xa cách vua cha nàng rất yêu quý và cũng rất quý yêu nàng – hoàn toàn không một lúc nào nghĩ tới chuyện điểm trang. Có thể nói nàng hầu như không đoái hoài tới lược gương, như thói thường của nữ giới, đặc biệt từ sau lần đầu tiên lão phù thủy châu Phi đến gặp nàng và bị các nữ tì nhận ra và cho nàng hay, chính lão là kẻ đã mang đèn mới đến đổi chiếc đèn cũ. Nàng ghê tởm lão vì sự đảo điên ghê gớm ấy. Nhưng đây là một dịp để trả thù một cách xứng đáng, mà chính nàng cũng không hề dám mơ ước, cho nên nàng quyết định làm theo lời Alátđanh.
Bởi vậy, chàng vừa đi khỏi, nàng bắt đầu trang điểm. Nàng sai bọn con hầu chải tóc vấn khăn thế nào cho đẹp nhất, rồi mặc bộ áo quần sang trọng nhất, thích hợp nhất với ý nghĩ của mình. Chiếc thắt lưng nàng thắt toàn bằng vàng lại nam những viên kim cương to nhất, đều nhất. Tương xứng với cái thắt lưng ấy nàng đeo một chuỗi hạt chỉ gồm mười ba viên ngọc, mỗi bên sáu viên cân xứng với viên chính giữa cực to cực quý, đến nỗi những hoàng hậu và những vương phi lớn nhất nếu có được một chuỗi gồm những hạt ngọc chỉ to bằng hai viên bé nhất trong chuỗi ngọc của công chúa thôi cũng đủ lấy làm hạnh phúc lắm rồi. Các vòng tay nam lẫn kim cương và hồng ngọc, cũng đều quý giá và cân xứng tuyệt vời với chiếc thắt lưng và chuỗi hạt.
Ăn mặc điểm trang đâu vào đấy, công chúa Bađrunbuđua soi gương, hỏi ý kiến những người hầu về toàn bộ bộ cánh của mình. Sau khi thấy không còn sót một thứ gì không làm cho lão phù thủy điên cuồng mê mẩn, nàng ngồi xuống chiếc sập chờ lão.
Lão phù thủy quả lại đến, đúng giờ thường lệ. Ngồi trong phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, vừa trông thấy lão bước vào, công chúa đã vội đứng lên, xiêm y rực rỡ, nhan sắc tuyệt trần, và đưa tay chỉ chỗ danh dự mời lão ngồi rồi đến cùng ngồi bên cạnh lão – đây là một cử chỉ lịch thiệp đặc biệt nàng chưa hề đối xử với lão bao giờ.
Choáng váng trước nhan sắc lộng lẫy của công chúa cũng như trước bao ngọc ngà châu báu mà nàng điểm trang, lão phù thủy cực kỳ kinh ngạc. Phong thái đường bệ và vẻ yêu kiều đặc biệt của nàng khi đón tiếp lão, ngược hẳn với thái độ cự tuyệt của nàng từ trước tới nay mỗi lần lão đến, làm cho lão đâm ra bối rối. Thoạt tiên lão muốn ngồi vào một góc sập. Nhưng công chúa không chịu an tọa chừng nào lão còn chưa ngồi vào nơi nàng muốn, lão đành vâng lời.
Khi lão phù thủy đã ngồi yên chỗ, công chúa muốn giúp lão thoát khỏi cơn bối rối, liền đưa mắt nhìn lão với cái liếc mắt đưa tình cốt làm cho lão thầm hiểu: đối với nàng, lão không còn khả ố như những lần gặp trước nữa. Rồi công chúa cất lời nói như sau:
- Có lẽ ngài lấy làm lạ tại sao hôm nay thái độ của em khác với mọi lần trước gặp ngài, nhưng ngài sẽ hiểu rõ một khi biết rằng bản tính em không thích sầu não, nhớ nhung, buồn phiền, lo lắng. Việc gì đã qua rồi thì em cố hết sức để không nghĩ ngợi đến nữa. Em đã suy nghĩ nhiều những điều ngài nói về số phận của Alátđanh. Em biết tính vua cha em lắm, cho nên em cũng tin như ngài rằng anh ta khó thoát khỏi búa rìu sấm sét của cha em. Đã thế thì dù em có cố tình than khóc suốt cả đời, nước mắt của em cũng không thể nào làm cho anh ấy sống lại được. Chính vì vậy mà sau khi đã đền đáp nghĩa cho chàng đến khi vĩnh quyết đúng với đạo vợ chồng, em thấy rằng phải tìm cách để tự mình khuây khỏa. Đó chính là nguyên nhân đưa đến sự thay đổi mà ngài trông thấy ở em hôm nay. Em đã quyết sẽ thôi không buồn nữa, và để giải hẳn mối sầu này, em xin mời ngài dự cơm tối với em. Tin chắc ngài sẽ không từ chối, em đã truyền cho gia nhân bày tiệc. Nhưng bởi vì nhà chỉ có rượu Trung Quốc mà em lại đang ở trên đất châu Phi, em nảy ra ý muốn được thưởng thức rượu đặc sản của địa phương, và em tin rằng nếu có thì ngài hẳn có thể cho tìm những thứ nào ngon nhất.
Lão phù thủy người Phi vẫn nghĩ rằng không thể nào mau chóng và dễ dàng được công chúa Bađrunbuđua đối xử thân tình đến thế, liền đáp là lão không tìm được lời lẽ nào xứng đáng để nói lên sự cảm kích trước lòng tốt của nàng. Và để tránh phải kéo dài một câu chuyện mà có lẽ lão sẽ không biết cách nào đối đáp lão vội quay sang nói về rượu châu Phi mà nàng vừa nhắc tới. Lão nói rằng trong tất cả những ưu thế mà châu Phi có thể tự hào, sản xuất rượu ngon là một trong những ưu thế lớn nhất, đặc biệt tại vùng nàng đang ở đây. Lão có một loại rượu cất đã bảy năm nay chưa hề đụng đến, dù không dám nói quá lời, đó là loại rượu ngon hơn tất cả mọi loại rượu tuyệt vời trên thế gian.
- Nếu công chúa vui lòng cho phép, – lão nói tiếp – tôi sẽ đi lấy hai chai và trở lại ngay tức khắc.
- Em không dám phiền ngài. Có lẽ ngài nên sai một người nào đi lấy thì hơn.
- Tôi phải thân hành đi, – lão phù thủy nói – không một ai ngoài tôi biết chìa khóa kho để ở đâu, và cũng không một ai ngoài tôi ra biết cách mở khóa.
- Nếu quả như vậy thì xin ngài hãy đi đi, và xin trở lại nhanh nhanh cho. Ngài càng đi lâu em càng sốt ruột. Xin ngài nhớ cho rằng ngài trở lại lúc nào chúng ta vào tiệc ngay lúc ấy.
Lòng tràn trề hy vọng về cái lão ngỡ là hạnh phúc, lão phù thủy người Phi không phải chạy mà bay đi lấy thứ rượu cất đã bảy năm của lão, và trở lại khá nhanh. Công chúa cũng thừa biết lão sẽ quay trở lại ngay, cho nên đã tự tay bỏ gói thuốc bột Alátđanh đưa vào một cái ly nàng vừa mới dùng và để riêng ra một chỗ. Nàng và lão phù thủy ngồi vào bàn ăn, mặt đối mặt, và nàng cố tình, để cho lão quay lưng về phía tủ rượu. Vừa mời lão ăn những thứ ngon nhất, công chúa vừa hỏi: “Nếu ngài muốn, em sẽ truyền cho cử nhạc và ca hát. Song bởi vì chỉ có hai ta, em nghĩ rằng chúng ta nói chuyện với nhau có lẽ thích hơn!” Lão phù thủy cho rằng công chúa nghĩ như vậy thật là một đặc ân nữa đối với lão.
Ăn được mấy miếng, công chúa sai rót rượu. Nàng nâng cốc chúc sức khỏe lão phù thủy. Cạn chén xong, nàng nói:
- Ngài khen loại rượu này là phải lắm, chưa bao giờ em được uống thứ rượu tuyệt diệu thế này.
Sau khi tiếp tục ăn và uống vài ba tuần rượu nữa. Thấy lão phù thủy đã thật sự mê mẩn vì thái độ lịch sự và cách thù tiếp ân cần của mình, công chúa liền ra hiệu cho ả nô tì đang tiếp rượu, vừa lớn tiếng sai ả rót đầy ly của nàng và ly của khách. Kẻ hầu dâng rượu.
Khi lão phù thủy và nàng mỗi người cầm một ly, nàng nói:
- Em không hiểu theo phong tục của quý quốc, khi đã thật sự yêu nhau và cùng uống rượu với nhau như hai ta đây, thì người ta xử sự thế nào. Còn ở bên Trung Quốc quê em, đôi uyên ương phải cùng nhau đổi chén và như vậy là uống để chúc mừng sức khỏe của nhau.
Vừa nói nàng vừa nâng ly rượu của mình đưa cho lão, đồng thời đưa tay kia ra chờ đón ly rượu lão trao.
Lão phù thủy người Phi vội vàng đổi ly rượu, lão càng chắc đây là dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ lão đã hoàn toàn chinh phục được trái tim công chúa, và ý nghĩ đó làm cho lão sướng rơn. Trước khi cạn chén, lão nói, ly rượu cầm ở tay:
- Thưa công chúa, người châu Phi chúng tôi quả là chưa được tinh tế bằng người Trung Quốc trong các chuyện yêu đương. Trong khi tiếp thụ một bài học chưa từng được biết, tôi cũng hiểu thêm là tôi thật thấm thìa sâu sắc đặc ân của nàng. Công chúa yêu kiều ơi, tôi sẽ không bao giờ quên rằng, uống rượu trong ly của nàng, kẻ này sẽ tìm lại được cuộc sống đã tưởng như tuyệt vọng, nếu nàng cứ đối xử với tôi như trước đây.
Công chúa Bađrunbuđua đã chán ngấy những lời tán tỉnh tràng giang đại hải của lão phù thủy, liền ngắt lời:
- Mời ngài hãy cạn chén, rồi sẽ nói tiếp những lời ngài muốn dạy bảo em. Vừa nói nàng nâng ly rượu lên miệng và chỉ chạm đầu môi vào, trong lúc lão phù thủy, để tỏ ra nhanh nhẩu, đã nốc cạn một hơi cho đến giọt cuối cùng. uống xong, lão hơi ngửa đầu về phía sau để tỏ ra mình đã cạn chén, và đứng sững như vậy cho đến khi công chúa ly rượu vẫn chạm ở đầu môi, trông thấy đôi mắt lão trợn trừng và thân hình lão ngã vật ra bất tỉnh nhân sự.
Công chúa không cần truyền lệnh mở cánh cửa bí mật cho Alátđanh. Những người hầu của nàng, được mật báo từ trước, đã rải ra từng quãng một từ phòng khách xuống tận dưới chân cầu thang, thành thử lão vừa lăn kềnh xuống thì cánh cửa cũng vừa mở ra gần như ngay tức khắc.
Alátđanh đi lên và bước vào phòng khách, chàng ôm hôn công chúa vừa đứng dậy định ra đón chàng.
Thấy nàng tỏ ý mừng vui, chàng nói:
- Công chúa ơi, bây giờ chưa phải lúc, xin nàng vui lòng trở về buồng riêng và ra lệnh cho mọi người đi ra ngoài, trong khi tôi làm công việc đưa nàng trở về Trung Quốc, cũng nhanh chóng như lúc nàng bị đưa đến đây.
Đúng như vậy, khi công chúa cùng những người hầu và hoạn nô đi ra ngoài, Alátđanh đóng cửa lại đến gần xác lão phù thủy nằm chết thẳng cẳng, mở khuy áo lão và lấy ra cây đèn được gói ghém cẩn thận đúng như công chúa đã thấy. Chàng mở gói và miết mạnh tay vào đèn. Lập tức thần đèn hiện lên với lời chào hỏi thường lệ.
Alátđanh bảo:
- Ta gọi ngươi đến đây để nhân danh cây đèn chủ của ngươi mà ngươi trông thấy đây, ra lệnh cho ngươi ngay tức khắc hãy đưa tòa lâu đài này trở về đúng chỗ cũ của nó bên Trung Quốc.
Thần đèn khẽ cúi đầu tỏ ý tuân lệnh và biến mất. Quả nhiên việc di chuyển diễn ra. Mọi người chỉ cảm thấy hai lần bị lay động nhẹ, một lần lúc tòa lâu đài được nhấc bổng lên từ một nơi bên châu Phi, và một lần khi nó được đặt xuống đất Trung Quốc, đối diện với hoàng cung, hai lần lay động cách nhau một thời gian rất ngắn.
Alátđanh đi xuống buồng riêng của công chúa, ôm hôn nàng và nói:
- Công chúa ơi, ta có thể quả quyết với nàng rằng niềm vui của nàng và của ta sáng sớm mai sẽ trọn vẹn.
Vì công chúa chưa ăn xong và Alátđanh thì đang đói, nàng liền sai mang từ phòng khách hai mươi bốn cửa sổ xuống những món ăn vừa dọn ra đấy và hầu như chưa ai động vào. Hai vợ chồng cùng ăn và uống thứ rượu quý lâu năm của lão phù thủy. Sau đó chuyện trò vui vẻ rồi lui về buồng riêng.
Từ khi lâu đài Alátđanh biến mất và công chúa Bađrunbuđua bị bắt cóc, hoàng đế vua cha của nàng tưởng đã mất hẳn con, buồn không thể nào tả xiết. Hầu như ngày cũng như đêm vua không chạp mắt; và đáng lẽ tránh những thứ gì có thể gợi buồn, vua cha lại cố tình tìm những cái đó. Khác với trước kia, mỗi ngày vua chỉ đến căn phòng trống vào buổi sáng để ngắm nghía tòa lâu đài cho thỏa thích và không bao giờ lấy làm chán, bây giờ một ngày vua đến nhiều lần, mỗi lần lại khóc lóc đau khổ hơn, nuối tiếc hơn, vì không thể nhìn thấy lại cái mình xiết bao ưa thích, vì đã mất đi đứa con yêu quý nhất trên đời.
Đúng vào buổi sáng tòa lâu đài của Alátđanh được đưa trả về chỗ cũ, trời vừa rạng đông, hoàng đế đã đến căn phòng trống ấy. Lòng quá sầu não, lúc bước vào vua chỉ đưa đôi mắt buồn bã nhìn về phía quảng trường, ngỡ là sẽ lại nhìn thấy cảnh trống trải như mọi bận. Nhưng khi nhìn thấy khoảng trống ấy đã có vật gì che lấp, thoạt tiên vua tưởng rằng đấy là do sương mù gây nên. Vua nhìn chăm chú hơn, và nhận ra đấy chính là dinh cơ của Alátđanh mà vua biết quá rõ, không thể nào nhầm lẫn được. Thế là, hết buồn phiền sầu não, lòng rạng rỡ mừng vui, vua rảo bước trở về buồng riêng và truyền lệnh thắng yên cương mang ngựa lại ngay cho mình. Ngựa được đưa đến, vua nhảy lên đi ngay, mà vẫn cảm thấy sao chậm đến được tới dinh Alátđanh vậy.
Đã đoán được điều sẽ xảy ra, Alátđanh thức dậy từ lúc tảng sáng. Vừa mặc xong bộ áo quần sang trọng nhất, chàng lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, thì trông thấy hoàng đế đang đi ngựa tới. Chàng xuống thang, vừa kịp đón vua ngay ở chân cầu thang lớn và đỡ vua xuống ngựa. Vua nói:
- Alátđanh, ta chỉ có thể nói chuyện với ngươi sau khi ta gặp và ôm hôn con gái ta.
Alátđanh dẫn vua tới phòng riêng của công chúa Bađrunbuđua. Vừa thức dậy, công chúa đã được Alátđanh nhắc là nên nhớ nàng không còn trên đất châu Phi nữa mà đang ở Trung Quốc, ngay trong kinh thành của phụ vương mình, sát ngay bên cạnh cung điện của người. Lúc ấy nàng cũng vừa mặc áo xong.
Hoàng đế ôm hôn con gái nhiều lần, mặt đầm đìa nước mắt mừng vui. Công chúa cũng không sao biểu lộ hết lòng hân hoan được gặp lại cha. Hoàng đế một lúc lâu không tài nào mở miệng nói nên lời, để tỏ cho con gái biết mình xúc động xiết bao được trông thấy nàng, sau khi đã bao lần than khóc tưởng nàng chắc chắn không còn sống nữa. Công chúa, về phần mình, cũng khóc như mưa vì vui mừng được gặp lại cha.
Cuối cùng, vua nói nên lời:
- Con ơi, cha muốn tin rằng vì vui mừng được gặp cha cho nên con có vẻ không thay đổi nhiều, như thể đã không xảy ra việc gì đáng bực. Tuy nhiên, cha tin chắc con đã phải đau khổ nhiều. Không thể nào bị chuyển đi cùng với cả tòa lâu đài, đột ngột như đã từng xảy ra với con, mà không phải hoảng hốt lo âu ghê gớm. Cha muốn con hãy thuật lại cho cha nghe mọi việc và không che giấu một điều gì.
Công chúa lấy làm vui lòng được thỏa mãn điều vua cha muốn biết.
- Tâu bệ hạ, – nàng đáp – nếu con có vẻ không thay đổi mấy ấy là nhờ con bắt đầu thở được từ sáng sớm hôm qua, khi trông thấy Alátđanh người chồng thân yêu và người giải thoát cho con, mà con vẫn khóc than cầm bằng như đã mất rồi. Và chính niềm hạnh phúc được ôm hôn cha hôm nay đã làm cho con gần lấy lại sức hoàn toàn như trước.
Tuy nhiên, tất cả mọi nỗi đau khổ của con thật ra chỉ tại con buộc phải xa lìa vua cha và người chồng thân yêu của mình. Con không chỉ thương nhớ chàng mà con e chàng phải chịu oai sấm sét mặc dù vô tội. Con không phải khổ nhiều vì tội hỗn xược của tên bắt cóc con, hắn chỉ nói những điều con không thích. Con có cách ngăn không cho hắn nói. Ngoài ra, con cũng chẳng bị bó buộc gì hơn lúc này đây. Còn về việc con bị bắt cóc. Alátđanh hoàn toàn không can dự, chính con đã gây nên, tuy rằng không phải tại lòng con muốn thế.
Để cho hoàng đế tin chắc những lời vừa nói là đúng sự thật, công chúa kể lại chi tiết từ việc lão phù thủy cải trang làm người đi buôn đổi đèn mới lấy đèn cũ, việc nàng vì không rõ bí mật và tầm quan trọng của cây đèn thần cho nên sai mang ra đổi lấy đèn mới cho vui; việc phải chuyển sang châu Phi cùng với lão phù thủy; lão này sau khi thành công trong việc làm táo bạo ấy, lần đầu tiên đến gặp nàng và đòi nàng lấy lão, thì bị hai người hầu gái và viên hoạn nô đã mang cây đèn xuống đổi nhận diện; cho đến cảnh đày đọa nàng phải chịu đựng mãi tới khi Alátđanh đến; cách thức thực hiện để đoạt lại cây đèn lão phù thủy mang trong người; và hai vợ chồng, đặc biệt là nàng đã thành công như thế nào qua việc giả vờ ân cần với lão, mời lão ăn cơm tối với mình rồi đánh tráo ly rượu.
- Còn những gì xảy ra sau đó, con xin nhường lời để Alátđanh tâu với cha. – Nàng nói tiếp.
Alátđanh chẳng còn có gì nhiều để thuật lại cho vua nghe. Chàng nói:
- Khi cánh cửa bí mật mở ra, con lên tới phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, đã thấy tên phản trắc bị thuốc độc ngấm vào nằm chết trên sập, và vì không tiện để công chúa ở lại đấy lâu hơn, con đã mời nàng cùng bọn hầu gái và hoạn nô xuống phòng riêng. Con ở lại một mình, và sau khi lấy cây đèn trong người lão phù thủy, con lại dùng bí quyết lão ta đã dùng để cưỡng đoạt tòa lâu đài cùng công chúa. Con sai chuyển tòa lâu đài trả về chỗ cũ, và được vinh hạnh đưa công chúa về với bệ hạ, như ý nguyện của nàng. Con không dám mời bệ hạ nhưng nếu Người vui lòng quá bộ lên phòng khách, Người sẽ trông thấy lão phù thủy bị trừng trị đáng với tội trạng của lão.
Để hoàn toàn nắm chắc sự thật, hoàng đế đứng dậy, đi lên phòng khách. Khi trông thấy lão phù thủy người Phi nằm chết, mặt nhọt nhạt vì ngấm thuốc độc, vua lại ôm hôn Alátđanh rất âu yếm và nói với chàng:
- Con ơi, xin con chớ để bụng về những cách cha đã đối xử với con. Tình phụ tử buộc cha phải làm như vậy, con hãy tha thứ cho cha những việc làm hơi quá đáng.
- Tâu bệ hạ, con hoàn toàn không có điều gì dám phàn nàn về cách xử sự của bệ hạ. Người làm như vậy cũng phải thôi. Chính lão phù thủy, tên súc sinh, kẻ đốn mạt ấy mới là nguyên nhân duy nhất làm cho con bị thất sủng. Bao giờ bệ hạ rỗi rãi, con sẽ xin kể lại hầu Người một chuyện đểu cáng khác mà lão đã chơi khăm con, cũng không kém độc địa hơn chuyện vừa rồi, mà con thoát được đặc biệt nhờ ơn cao Thượng đế.
- Ta sẽ dành riêng một buổi cho chuyện đó, và cũng gần đây thôi. – Vua đáp – Giờ đây chúng ta hãy nghĩ tới chuyện mừng vui. Con hãy sai dọn cái vật gớm ghiếc kia đi!
Alátđanh mang xác lão phù thủy đi, truyền đưa vất ở bãi rác cho sói tha quạ mổ. Trong thời gian ấy, hoàng đế ra lệnh nổi trống chiêng đàn sáo báo tin vui chung, và cho ban bố hội lớn kéo dài mười ngày để mừng công chúa và phò mã trở về bình yên cùng với tòa lâu đài của họ.
~
- Tâu bệ hạ, – nàng Sêhêrazát nói tiếp – lần thứ hai Alátđanh thoát được một cơn hoạn nạn gần như khó tránh khỏi thiệt mạng, như vậy đấy. Nhưng đây cũng chưa phải là lần cuối cùng. Chàng còn phải lâm nạn một lần thứ ba nữa, xin thuật lại sau đây:
Số là lão phù thủy người Phi có một đứa em trai pháp thuật cao cường không kém lão. Hơn nữa, có thể nói là về mặt độc ác và thủ đoạn hại người thì hắn còn hơn đứt cả ông anh. Vì không phải lúc nào chúng cũng ở cùng với nhau trong một thành phố, và thường là khi tên này ở xứ đông thì lão kia ở xứ đoài, cho nên năm nào chúng cũng dùng phép bấm dẫn để biết tên kia hiện đang ở nơi nào trên trái đất, tình cảnh ra làm sao và có gì cần giúp lẫn nhau hay không.
Ít lâu sau khi lão phù thủy bỏ mạng trong mưu đồ phá hoại hạnh phúc Alátđanh, tên em trai của lão lúc bấy giờ không có mặt tại châu Phi mà đang ở một xứ rất xa xôi. Từ một năm nay không biết tin tức của ông anh, lão muốn hiểu xem anh hiện đang ở nơi nào trên trái đất có khỏe mạnh không và đang làm gì. Hắn mang các thứ đồ nghề ra, tính tính toán toán. Gieo quẻ đầu hắn biết ông anh không còn sống trên đời này nữa.
Gieo quẻ thử hai hắn biết ông anh đã bị đầu độc và chết bất đắc kỳ tử. Gieo quẻ thứ ba hắn biết đúng là chết tại chỗ nọ trong kinh thành nước này. Và cuối cùng hắn biết được lão ta bị đầu độc bởi một người xuất thân hàn vi vừa lấy được nàng công chúa con vua làm vợ.
Sau khi bằng cách đó, biết được số phận đáng buồn của ông anh rồi. Hắn không để mất thời giờ khóc lóc thở than, vì có làm như vậy cũng chẳng khiến cho anh sống lại được. Quyết trả thù cho anh, hắn lập tức lấy ngựa lên đường sang Trung Quốc. Đi một mạch qua nào đồng bằng, nào núi non, nào sa mạc, không dừng chân ở bất cứ một nơi nào, chịu đựng không biết bao nhiêu là gian nan khổ ải, cuối cùng hắn đến được đất Trung Quốc, rồi ít lâu sau vào tới kinh thành, đúng nơi mà quẻ bấm dẫn đã cho hắn biết. Chắc chắn là không nhầm lẫn, hắn dừng lại và tìm chỗ trọ.
Ngày hôm sau, lão phù thủy đi dạo ra phố không phải để ngắm cảnh đẹp – hắn cũng chẳng thiết gì đến danh lam thắng cảnh – mà để bắt đầu thực hiện mưu đồ độc địa của mình. Hắn đi đến những nơi đông đúc nhất và lắng tai nghe người ta đàm đạo.
Tại một nơi có đủ các trò chơi giải trí, những người này thì vui chơi, những người kia thì nói chuyện với nhau về nhân tình thế thái hoặc về công việc làm ăn, hắn nghe người ta bàn tán về một người đàn bà sống ẩn dật tên là Phatim phép thuật nhiệm màu, đức độ vô song và có thể làm nên những điều kỳ diệu nữa là khác. Nghĩ rằng bà này có thể có ích ít nhiều cho mưu đồ của mình, hắn gọi một người đang nói chuyện ra riêng một nơi và yêu cầu vui lòng nói rõ hơn cho hắn nghe bà nữ thánh ấy là ai và bà ta làm nên những phép màu ra sao.
- Thế nào? Bác chưa bao giờ trông thấy hoặc nghe nói đến bà ấy ư? Cả thành phố này đều ngưỡng mộ sự chân tu khổ hạnh và tấm gương đạo đức của bà. Trừ ngày thứ hai và thứ sáu, bà không ra khỏi cái am nhỏ của mình. Còn những ngày khác ra phố bà ban không biết bao nhiêu là phép lành. Chưa hề có một ai khổ sở vì cơn bệnh đau đầu mà không được chữa khỏi chỉ bằng cách nhờ bà đặt bàn tay lên trán.
Lão phù thủy không muốn biết nhiều hơn nữa về chuyện ấy; hắn chỉ hỏi thăm cái am tu của bà ở khu nào trong thành phố. Người kia chỉ cho. Thế là sau khi trù tính xong âm mưu đen tối của mình, hắn chờ đến hôm bà đi làm phúc đầu tiên kể từ khi hắn dò hỏi, hắn bám sát cho đến chiều tối, lúc bà trở về am. Nhận kỹ địa điểm rồi, hắn trở về quán trọ, nơi người ta vẫn đến uống rượu hâm nóng và cũng có thể nghỉ lại, đặc biệt vào những hôm thời tiết nóng nực, thì mọi người thích trải chiếu ra đất nằm hơn là ngủ trên giường.
Lão phù thủy sau khi trả cho chủ quán món tiền trọ chẳng đáng là bao, đến nửa đêm thức dậy ra khỏi quán và đi thẳng đến cái am của Phatim thánh nữ – khắp kinh thành này mọi người đều gọi bà bằng cái tên ấy. Cửa am chỉ cài then, hắn mở ra chẳng khó nhọc gì. Hắn nhẹ nhàng đóng cửa lại, đi vào và nhờ ánh trăng nhìn thấy Phatim đang nằm ngủ ngoài trời, trên một chiếc chiếu rách và dựa vào am tu. Hắn tiến đến gần, rút chiếc dao găm vẫn đeo bên người ra khỏi vỏ, rồi đánh thức bà dậy.
Bừng tỉnh, bà Phatim đáng thương rất ngạc nhiên thấy một người đàn ông sắp giết mình. Hắn dí lưỡi dao vào ngực bà, sẵn sàng đâm và dọa:
- Nếu mày kêu lên hoặc gây nên một tiếng động nhỏ thì tao giết. Hãy đứng lên, tao bảo làm gì làm nấy!
Bà Phatim vẫn mặc áo quần ngoài mà ngủ, vừa run vừa đứng đậy. Lão phù thủy nói:
- Chớ có sợ, tao chỉ cần chiếc áo của mày, hãy cởi ra đưa đây và mặc áo của tao vào!
Hai bên đổi áo cho nhau. Mặc xong chiếc áo của Phatim vào người, hắn bảo bà:
- Hãy tô mặt cho ta như mặt mày, làm sao cho giống và không phai màu!
Thấy bà vẫn còn run, để cho bà vững tay làm việc hắn truyền, lão phù thủy nói:
- Đừng sợ, nghe ta bảo đây: ta thề trước Thượng đế là ta sẽ để cho mày sống.
Bà Phatim đưa lão vào trong am, thắp đèn lên, rồi lấy một cái lọ đựng một thứ nước gì đó và một cái bút lông, bà phết lên mặt lão và quả quyết là màu sẽ không phai, màu da mặt hắn sẽ giống mặt bà như in. Bà lại đội lên đầu hắn chiếc khăn của mình, kèm theo một tấm mạng che mặt và bày cho hắn biết cách dùng để che mặt lúc đi ra phố. Cuối cùng sau khi quàng vào cổ hắn một chuỗi hạt to trễ xuống tận rốn, bà đặt vào tay hắn chiếc gậy bà vẫn dùng, rồi đưa cho hắn một chiếc gương soi.
- Đấy, ngài xem, ngài sẽ thấy giống tôi như lột.
Lão phù thủy thấy vừa ý, nhưng hắn không giữ vẹn lời thề thốt long trọng với bà Phatim hiền hậu. Để người ta khỏi thấy vết máu đâm bằng dao, lão phù thủy bóp cổ bà, rồi khi thấy bà tắt thở, hắn cầm chân kéo xác bà đến cái giếng xây cạnh am và ném xuống đấy.
Sau khi phạm tội ác ghê tởm, lão phù thủy cải trang làm Phatim thánh nữ ngủ lại cho hết đêm hôm ấy ở trong am. Sáng hôm sau, vào khoảng một hai giờ sáng, mặc dù ngày hôm ấy không phải là ngày thánh nữ thường đi làm phúc, hắn vẫn cứ đi ra, tin chắc rằng chẳng có ai hỏi về việc đó, và nếu nhỡ có ai hỏi thì hắn cũng đã nghĩ sẵn câu trả lời. Bởi vì một trong những việc đầu tiên của hắn khi mới đến kinh thành này là xem cho biết tòa lâu đài Alátđanh ở đâu, và hôm nay định diễn cái trò của hắn ở đấy, cho nên hắn đi thẳng về phía lâu đài.
Vừa trông thấy bà thánh, – ai cũng tưởng đấy là thánh nữ thật – mọi người ùn ùn kéo đến vây quanh. Người thì xin bà cầu nguyện cho, kẻ thì hôn tay bà, có những người hoặc là đang đau đầu hoặc là muốn phòng ngừa bệnh đó, cúi đầu trước mặt lão phù thủy để cho hắn đặt tay lên, hắn cũng cứ làm và lẩm bẩm vài câu trong miệng như thể đọc kinh. Hắn bắt chước khéo đến nỗi mọi người đều tin rằng đấy chính là bà thánh thật.
Sau khi dừng lại mấy lần để thỏa mãn những người muốn chữa bệnh đau đầu theo cách đó, cuối cùng hắn tới quảng trường trước lâu đài Alátđanh. Người tụ tập càng đông hơn, ai muốn đến gần hắn phải chen lấn ra trò mới vào được tới nơi. Những kẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn nhất chen vai thích cánh mà băng vào, gây nên những tiếng qua tiếng lại, ồn ào vang vọng đến tận phòng khách hai mươi bốn cửa sổ nơi công chúa Bađrunbuđua đang ngồi.
Nàng hỏi có việc gì ồn ào như vậy, không ai trả lời được. Nàng liền sai người ra xem rồi vào trình bày cho rõ. Một người hầu gái không bước ra khỏi phòng khách, chỉ nhìn qua bức mành, trở lại thưa rằng tiếng ồn ào ấy là do đám đông tụ tập quanh thánh nữ để xin bà chữa bệnh đau đầu bằng cách đặt tay lên trán.
Công chúa từ lâu đã nghe nói nhiều điều tốt lành về thánh nữ nhưng chưa hề trông thấy bà, tò mò muốn gặp mặt và hỏi chuyện. Cũng như bất cứ lúc nào nàng tỏ một mong muốn gì, viên trưởng hoạn nô có mặt ở đấy vội thưa: “Nếu công chúa cần, xin cứ truyền bảo, sẽ có cách mời bà lên.” Công chúa bằng lòng, lập tức gã ra lệnh cho bốn tên hoạn nô, xuống mời bà thánh giả hiệu lên phòng khách.
Khi bọn hoạn nô ra khỏi cổng lâu đài, và mọi người trông thấy chúng đi thẳng về phía lão phù thủy cải trang, thì đám đông giải tán. Lão phù thủy được rảnh rang, thấy các hoạn nô đến, liền tiến lên mấy bước, lòng khấp khởi mừng thầm là mưu đồ của mình đang tiến triển thuận chiều. Một hoạn nô bảo hắn:
- Thưa thánh nữ, công chúa tôi muốn gặp bà, mời bà hãy đi theo chúng tôi.
- Công chúa làm vinh hạnh cho già quá, – bà Phatim giả hiệu đáp – già sẵn sàng tuân lệnh.
Vừa nói hắn vừa theo mấy gã hoạn nô đi vào dinh quan phò mã. Khi lão phù thủy nấp dưới chiếc áo chân tu để che đậy một tấm lòng quỷ dữ, bước vào phòng khách có hai mươi bốn cửa sổ và trông thấy công chúa, hắn rì rầm đọc một thôi kinh kệ và nói những lời dài dòng chúc tụng công chúa phúc lộc an khang, vạn sự như ý. Tiếp đó hắn mang tất cả mồm mép liến láu của một tên chuyên nghề lường gạt và dối trá để lòe công chúa, làm cho nàng tin rằng đây quả là một đấng đại đức chân tu. Việc đó cũng dễ thôi, bởi bản chất công chúa vốn tốt, nàng tin tưởng chắc chắn trên đời ai cũng tốt như mình, đặc biệt là những người đã lánh xa trần tục để đi ẩn dật mà tu hành.
Chờ cho Phatim giả hiệu đọc xong lời chúc tụng dông dài của hắn, công chúa nói:
- Mẹ ơi, xin cảm ơn những lời cầu nguyện tốt lành của mẹ, con tin tưởng lắm, và hy vọng là những lời của mẹ sẽ linh hiển. Xin mời mẹ hãy đến gần và ngồi xuống đây, bên cạnh con.
Phatim giả vờ cố tình là ra vẻ khiêm nhường. Công chúa lại nói: - Mẹ ơi, con xin mẹ một điều. Mong mẹ ưng cho, chớ có khước từ. Ấy là mời mẹ ở lại hẳn đây với con, để ban phước lành cho con, để cho con được noi gương sáng của mẹ mà phụng thờ Thượng đế.
Phatim giả hiệu liền nói:
- Thưa công chúa, xin công chúa chớ đòi hỏi già này làm một điều buộc phải xa rời và xao nhãng công việc tu hành cầu nguyện.
- Xin mẹ chớ băn khoăn, – công chúa tiếp – trong nhà này còn nhiều buồng không ai ở, mẹ sẽ chọn một buồng thích họp với mẹ nhất, ở đấy mẹ sẽ tự do làm mọi việc tu hành y như ở trong am của mẹ vậy.
Lão phù thủy không có mục đích nào khác hơn là được vào trong lâu đài của Alátđanh, ở đây dưới sự chăm sóc và che chở của công chúa, hắn sẽ dễ dàng thực hiện mưu đồ ác độc của mình, còn hơn là phải đi đi về về từ am của hắn đến lâu đài và từ lâu đài trở về am.
Không chờ công chúa khẩn khoản hơn nữa, hắn đáp:
- Thưa công chúa, mặc dù một kẻ tu hành khốn khó và hèn mọn như già, đã quyết tâm xa lánh cuộc đời trần tục, lẩn tránh mọi phú quý vinh hoa, nhưng già cũng không dám cưỡng lại ý muốn và mệnh lệnh của một vị mộ đạo thành tâm như công chúa.
Nghe câu nói đó, công chúa liền đứng lên thưa:
- Xin mẹ hãy đứng dậy đi theo con, con sẽ chỉ cho mẹ xem những căn buồng còn để trống tùy ý mẹ chọn.
Hắn đi theo công chúa Bađrunbuđua, và qua tất cả các căn phòng đến xem, phòng nào cũng rất sạch sẽ và bày biện rất sang trọng. Hắn chọn một căn kém sang hơn cả, và vờ vịt nói rằng căn buồng này đã quá tốt đối với hắn, hắn chịu ở đây chẳng qua để làm vui lòng công chúa mà thôi.
Công chúa muốn mời tên gian ngoan ấy trở lại phòng khách có hai mươi bốn cửa sổ dùng bữa với nàng. Nhưng hắn sợ đến khi ăn phải cất tấm mạng mà hắn vẫn luôn đeo trên mặt cho đến lúc bấy giờ, e công chúa sẽ nhận ra đây không phải là Phatim thánh nữ như nàng vẫn tưởng, cho nên khẩn khoản xin nàng miễn cho, nói rằng hắn quen ăn bánh mì với vài thứ quả khô, xin hãy cho phép hắn dùng bữa thanh đạm của mình trong căn buồng riêng. Hắn nài nỉ quá đến nỗi công chúa phải thuận tình.
- Mẹ ạ, xin tùy ý mẹ, mẹ hãy tự nhiên như ở am nhà, – nàng nói. – Con sẽ sai người mang thức ăn lại cho mẹ. Nhưng mẹ nhớ cho là con chờ mẹ dùng bữa xong xin mời mẹ đến đây ngay cho.
Công chúa đi ăn cơm. Khi một viên hoạn nô được công chúa sai đến báo cho nàng biết đã xong bữa, hắn vội vàng đến ngay. Công chúa nói:
- Mẹ ạ, con rất bằng lòng được có riêng một thánh nữ như mẹ để ban phước cho dinh cơ này. Nhân thể, xin hỏi mẹ thấy tòa lâu đài này thế nào? Nhưng, trước khi con dẫn mẹ đi xem kỹ từng buồng một, mẹ hãy cho biết ý kiến về phòng khách này.
Phatim giả, để đóng thật khéo vai trò của mình, cho đến lúc này vẫn luôn luôn cúi đầu, ngay đến đưa mắt nhìn sang hai bên cũng không, nghe hỏi như vậy mới ngẩng đầu lên, nhìn từ đầu này tới đầu kia căn phòng, và sau khi xem xét cẩn thận, hắn đáp:
- Thưa công chúa, phòng khách này thật sự là tuyệt tác và đẹp đẽ vô song. Tuy nhiên theo ý của một kẻ sống cô đơn, không am hiểu thế nào là cái đẹp ở trên đời, thì hình như còn thiếu một vật.
- Vật gì vậy hở mẹ? – Công chúa hỏi – Con van mẹ, mẹ hãy nói cho con biết! Riêng con, xưa nay con vẫn tưởng và vẫn nghe người ta nói là nhà này chẳng thiếu một thứ gì, nếu quả là còn thiếu, con sẽ cho làm thêm ngay cho kỳ đủ.
- Xin công chúa hãy tha thứ cho già đã dám mạo muội nói bừa, – Phatim giả lại vờ vĩnh nói – ý kiến của già chẳng có gì quan trọng lắm đâu. Nhưng giá có một quả trứng chim đại bàng treo ở trên cao, vào chính giữa mái vòm kia, thì phòng khách của công chúa sẽ là có một không hai trong khắp bốn biển năm châu, và lâu đài của công chúa sẽ trở thành kỳ quan của vũ trụ.
- Mẹ ơi, con chim đại bàng ấy là chim gì vậy, và tìm đâu ra trứng của nó hở mẹ?
- Thưa công chúa, đó là một con chim to một cách kỳ lạ, nó vẫn đậu trên đỉnh cao nhất của dãy núi Cápca. Người đã xây nên tòa lâu đài này chắc chắn có thể tìm được cho công chúa một quả trứng của con chim đó.
Công chúa cảm ơn Phatim giả về ý kiến hay ho của hắn, rồi tiếp tục chuyện trò với hắn về nhiều chuyện khác; nhưng trong đầu óc vẫn không sao quên được quả trứng chim đại bàng. Nàng định bụng sẽ nói lại với Alátđanh ngay sau khi chàng đi săn về. Chàng đi săn đã sáu ngày rồi, và lão phù thủy không phải là không biết điều đó, cho nên đã lợi dụng lúc chàng vắng mặt. Chàng trở về tối hôm ấy, vào lúc Phatim giả vừa từ biệt công chúa trở về buồng của hắn.
Về tới nhà, Alátđanh vào phòng riêng của công chúa, nàng cũng vừa về đây. Chàng chào và ôm hôn vợ, nhưng cảm thấy nàng hơi có vẻ lạnh lùng.
- Công chúa ơi, ta thấy công chúa không vui như bình thường. Phải chăng trong thời gian ta đi vắng, đã có việc gì xảy ra không đáng hài lòng, gây cho nàng phiền muộn hoặc bất bình? Xin nàng chớ giấu, ta sẽ làm đủ mọi cách trong phạm vi quyền lực mình cho phép, để xua tan nỗi không vui ấy.
- Chẳng có gì quan trọng đâu. – Công chúa đáp. – Tuy có một việc làm cho em vướng chút băn khoăn, không ngờ nó lại hiện lên nét mặt để chàng nhận thấy. Nhưng, bởi chàng đã nhận ra sắc mặt em có ít nhiều đổi khác mà hỏi, thì em cũng chẳng dám giấu chàng, dù nó chỉ là việc nhỏ nhặt. Từ trước tới nay, cũng như chàng, em vẫn tưởng -công chúa Bađrunbuđua nói tiếp – là lâu đài của chúng ta nguy nga nhất, tráng lệ nhất, hoàn hảo nhất trần đời. Ấy thế mà, em xin thưa một ý nghĩ vừa đến với em sau khi xem xét thật kỹ cái phòng khách có hai mươi bốn cửa sổ của chúng mình, chẳng rõ chàng có thấy như em không, rằng sẽ tuyệt vời hơn nữa nếu có được một quả trứng chim đại bàng treo chính giữa phòng, bên dưới vòm cao này?
- Công chúa ơi, chỉ cần nàng nói, phòng khách chúng ta còn thiếu một quả trứng chim đại bàng, là ta thấy ra đúng là có chỗ khiếm khuyết ấy thật, ta sẽ mau mau cho bù đắp vào chỗ thiếu. Qua việc này, nàng càng thấy rõ là vì nàng, ta không hề từ nan bất cứ một việc gì.
Nói xong, Alátđanh cáo từ công chúa, trở về ngay phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, lấy cây đèn – mà chàng thường xuyên mang theo trong người, bất cứ đi đâu, kể từ hôm xảy ra tai biến do sơ suất không mang theo. Chàng đưa tay miết vào. Thần đèn lập tức hiện lên. Alátđanh bảo:
- Thần à, dưới mái vòm cao này thiếu một quả trứng chim đại bàng, nhân danh cây đèn ta cầm ở tay, ta yêu cầu người hãy bù đắp chỗ thiếu sót ấy.
Alátđanh chưa dứt lời, thần đèn đã thét lên một tiếng ầm vang như sấm, rung chuyển cả phòng khách và làm cho Alátđanh loạng choạng, suýt nữa thì ngã lộn nhào:
- Thế nào, tên khốn nạn kia, – thần đèn nói với Alátđanh, giọng dữ tợn đến người bạo gan nhất nghe cũng phát khiếp – các bạn của ta và ta đã làm nên cho mày bấy nhiêu công danh phú quý, mày vẫn chưa cho là đủ hay sao, mà dám vô ơn bạc nghĩa đến cùng cực, dám đòi ta mang chủ của ta đến và treo cổ ngài lên dưới mái vòm này?
Riêng điều xúc phạm ấy đáng để cho cả vợ chồng mày cùng với tòa lâu đài này trở thành tro bụi. Cũng phúc cho mày, việc này không phải do mày gây nên, và đòi hỏi ấy không phải mày tự nghĩ ra. Ta nói cho mày biết, ai là kẻ đã thật sự gây nên điều xúc phạm ấy, đó chính là em trai lão phù thủy người Phi, kẻ thù của mày. Hắn đang ở trong dinh cơ của mày, cải trang dưới chiếc áo của Phatim thánh nữ mà nó đã giết hại. Chính hắn đã gợi ý cho vợ mày xui mày đòi hỏi ta làm điều khốn nạn mày vừa nói đó. Nó mưu toan giết mày đấy hãy liệu mà phòng thân.
Nói xong, thần đèn biến mất.
Alátđanh chú ý lời sau cùng của thần. Chàng từng nghe tiếng tăm Phatim thánh nữ, và cũng không phải là không biết bà biết cách chữa khỏi bệnh đau đầu như mọi người vẫn đồn đại. Trở lại phòng công chúa, chàng không đả động gì tới việc vừa xảy ra, chỉ ngồi xuống đưa tay bóp trán và nói rằng bỗng dưng bị một cơn đau đầu ghê gớm. Công chúa lập tức sai mời thánh nữ đến, và trong thời gian chờ người đi gọi, nàng kể cho Alátđanh nghe bà đến ở lâu đài này trong hoàn cảnh như thế nào và nàng mời bà ở riêng một căn buồng.
Phatim giả hiệu đến. Hắn vừa bước vào, Alátđanh đã nói: “Mẹ ơi, mời mẹ vào đây, con rất sung sướng được gặp mẹ. Chính nhờ vận may run rủi, cho nên con được gặp mẹ lúc này. Tin tưởng vào những lời cầu nguyện của mẹ, con xin mẹ cứu cho, và hy vọng mẹ sẽ không từ chối, như mẹ từng làm phúc cho biết bao nhiêu người!”
Nói xong, chàng đứng đậy cúi đầu. Phatim giả hiệu bước tới, bàn tay nắm chặt chuôi chiếc dao găm giắt ở thắt lưng, dưới lần áo. Alátđanh theo dõi hết, chàng kịp giữ chặt tay không cho hắn rút dao, rồi dùng dao của mình đâm đúng vào tim nó, quật nó ngã xuống chết thẳng cẳng giữa sàn nhà.
- Chàng thân yêu của em ơi, chàng làm gì thế? – Công chúa kinh ngạc kêu lên. – Chàng giết mất thánh nữ rồi.
- Không đâu công chúa ạ, – Alátđanh bình tĩnh đáp -không phải ta sát hại Phatim, mà là giết chết một tên súc sinh định ám hại ta nếu ta không biết trước mà phòng. Chính cái thằng độc ác nàng thấy đây, – chàng vừa nói vừa cất tấm mạng che mặt lão phù thủy – đã bóp chết Phatim ấy thế mà nàng lại thương tiếc và trách ta sao đi giết hắn. Chính hắn đã ngụy trang dưới chiếc áo của bà Phatim thánh nữ để định hại ta. Và ta nói thêm để nàng biết, tên này chính là em trai lão phù thủy người Phi đã từng bắt cóc nàng lần trước đấy.
Alátđanh thoát khỏi sự ám hại của hai anh em lão phù thủy như vậy đó. Ít lâu sau, hoàng đế quá cao tuổi, qua đời. Vì vua không có con trai, công chúa Bađrunbuđua thừa kế ngai vàng và truyền lại ngôi báu cho chồng. Hai vợ chồng cùng trị vì nhiều năm và lưu danh thơm hậu thế.
➖➖➖
Translated by Edward William Lane
Revised by Stanley Lane-Poole
The Story of ‘Ala-ed-Din and the Wonderful Lamp (II)
~
Therefore ‘Ala-ed-Din took leave of the Sultan and went forth riding with his memluks before and behind him. And all the world blessed him and said, “By Allah, he is worthy!” till he reached his house. There he alighted from his horse and entered his chamber and rubbed the Lamp, and, behold, the Slave appeared before him and said: “Ask what thou wilt, O my master.” So ‘Ala-ed-Din said: “I require thee to do me an important service, which is to build me with all speed a palace in front of the Sultan’s Serai; and let it be marvellous in its construction, such as Kings have not seen, and perfect in its fittings of stately furniture fit for princes; and so forth.” And the Slave replied, “I hear and obey,” and vanished. But before the break of dawn he came to ‘Ala-ed-Din and said: “O my master, the palace is finished to the utmost of thy desire, and if thou wish to see it, arise at once and look at it.” So ‘Ala-ed-Din arose, and the Slave bore him in the twinkling of an eye to the palace. And when he saw it, he was astounded at its construction, for all its stones were of jasper and alabaster and porphyry and mosaics. Then the Slave took him into a treasury full of all sorts of gold and silver and precious stones, not to be numbered or estimated or appraised or valued. And again, he took him into another room, where he saw all the table equipments, plates and dishes, ewers and basins, of gold and silver, and likewise flagons and goblets; and he led him to the kitchen, where he saw the scullions with all their requisites and cooking utensils, all of gold and silver; and next to a chamber full of chests packed with royal raiment, such as captivated the reason, brocades from India and China, and embroideries. Again he led him to numerous rooms all full of what defieth description; and then to the stables, where he found horses the like of which were not found among the Kings in all the world; and from there he took him to the saddle-room, which was full of costly harness and saddles, studded with pearls and fine stones and the like. And all this was done in a single night. ‘Ala-ed-Din was astounded and distraught at the vastness of these riches, which the mightiest sovereign on earth could not compass. And the palace was full of servants and maidens whose loveliness would tempt a saint. But the most wonderful of all the things to be seen in the palace was a pavilion or kiosk with twenty-four bays, all of emeralds and diamonds and other jewels; and one bay was not finished by ‘Ala-ed-Din’s wish, in order that the Sultan might be unequal to completing it.
When ‘Ala-ed-Din had surveyed the palace in every part, he rejoiced and was greatly delighted. Then turning to the Slave, he said: “I desire one thing of thee, which is still lacking, and of which I forgot to tell thee.” And the Slave said: “Ask on, O my master, whatsoever thou wishest.” So he said: “I desire of thee a carpet of splendid brocade, and let it be all worked with gold, and such that when spread it shall reach from my palace to that of the Sultan, so that the Lady Bedr-el-Budur when she cometh hither may walk upon it and not tread upon the bare ground.” So the Slave went away for a while, and on his return said: “O my master, what thou didst ask of me is done.” And he took and shewed him a carpet which captivated the reason, and it stretched from palace to palace. Then the Slave carried ‘Ala-ed-Din back to his house.
At this moment it was already dawn, and the Sultan arose from sleep and opened the window of his chamber and looked out, and in front of his palace he perceived a building; so he began to rub his eyes, and opened them wide to observe it. And he saw a great palace, bewildering the wits; and he gazed upon the carpet laid down from his own palace to that other. And in like manner the doorkeepers and all the royal household were perplexed in their minds at this thing. Just then the Wezir came in, and as he came he perceived the new palace and the carpet, and he too marvelled. And when the Sultan entered, the two began talking of this strange spectacle, and wondering at the sight of this thing, which dazzled the sight and delighted the heart, saying: “Of a truth, the like of this palace could not, we imagine, be built by Kings.” And the Sultan turned to the Wezir and said: “Dost thou see now that ‘Ala-ed-Din is worthy to mate my daughter the Lady Bedr-el-Budur, after seeing and considering this royal edifice and these riches which the mind of man could not conceive?” But the Wezir, on account of his envy of ‘Ala-ed-Din, answered: “O King of the Age, verily this building and this edifice and these riches could not exist save by means of magic, for no man alive, be he the chiefest in authority or the greatest in wealth, could complete this edifice in a single night.” Then answered the Sultan: “It is a wonder to me how thou art always imputing evil to ‘Ala-ed-Din; meseems, however, that it proceedeth from thy envy of him; for thou wast present thyself when I gave him this land, when he asked me for a site to build a palace on for my daughter, and I granted him this piece of land for his palace before thine eyes. But shall he who bringeth such a dowry of jewels for my daughter as Kings possess not even a few thereof, shall he be unequal to building a palace like this?”
When the Wezir heard the Sultan’s words, and perceived that he loved ‘Ala-ed-Din greatly, his jealousy increased; only, as he could not do anything to avert it, he watched and could not answer the Sultan a word. But as to ‘Ala-ed-Din, when he saw that it was morning, and the time had come for him to go to the palace, because his wedding fête was going on, and the emirs and wezirs and grandees of state had collected about the Sultan in order to be present at the wedding, he arose and rubbed the Lamp and the Slave appeared to him and said: “O my master, ask what thou desirest, for I am here at thy service.” So ‘Ala-ed-Din answered: “I intend to go now to the Sultan’s palace, as this is my wedding-day, and I need ten thousand dinars which I wish thee to bring me.” Then the Slave vanished for the twinkling of an eye and returned with the ten thousand dinars. Then ‘Ala-ed-Din arose and mounted, and there rode with him his memluks, before and behind. And he proceeded to the palace, scattering gold to the crowd as he went, so that they were filled with affection for him, and his dignity was enhanced thereby. And when he arrived at the palace, and the emirs and aghas and guards who were drawn up in waiting saw him, they hastened immediately to the Sultan and apprised him. Then the Sultan arose and met him and embraced and kissed him, and holding him by the hand led him into the palace and sat down and seated him at his side on the right; while the whole town was decorated, and the musical instruments resounded in the palace, and the singers sang. Then the Sultan commanded that the banquet should be served, and the eunuchs and memluks hastened to lay the tables, which were such as befit Kings. And ‘Ala-ed-Din and the Sultan and the grandees of the realm and the chief officers of state sat down and ate and drank till they were satisfied. And there were great rejoicings in the palace and the city; and all the nobles were delighted, and the people in all the kingdom rejoiced; and the rulers of provinces and chiefs of departments from distant regions came to see the wedding of ‘Ala-ed-Din and the festivities. And the Sultan wondered in his mind at ‘Ala-ed-Din’s mother—how she used to come to him in shabby clothes when her son possessed such vast wealth. And the people who came to the Sultan’s palace to witness the fêtes of ‘Ala-ed-Din, when they saw his new palace and the beauty of the building, marvelled greatly how a splendid palace like that could be finished in a single night. And they fell to blessing ‘Ala-ed-Din, and saying: “God give him enjoyment! By Allah, verily he deserveth it! God bless his days!”
When ‘Ala-ed-Din had finished the banquet he arose and took leave of the Sultan, and mounting, he and his memluks proceeded to his palace, to prepare for the reception of his bride the Lady Bedr-el-Budur. And all the people cheered him with one shout as he went: “God give thee enjoyment! God increase thy glory! God prolong thy life!” And a vast concourse accompanied him as far as his home, while he scattered gold amongst them. When he was come to his palace, he dismounted and entered it and seated himself on the divan, and the memluks stood attentive before him; and presently they brought him sherbets. After which he gave command to his memluks and maidens, eunuchs and all his household, to prepare for the reception of the Lady Bedr-el-Budur his bride. Now when it was afternoon and the air had become cool and the heat of the sun had abated, the Sultan ordered the troops and emirs of the state and wezirs to descend into the Meydan or riding-ground; so they all went down, and the Sultan with them. And ‘Ala-ed-Din arose, and mounted with his memluks, and went down also to the Meydan. And he displayed his horsemanship, playing with the Jerid ② in the Meydan, so that none could stand against him. He was riding a stallion the like of which did not exist among the horses of the purest Arabs. And his bride the Lady Bedr-el-Budur watched him from a window of her apartments, and seeing his grace and horsemanship, she fell violently in love with him, and almost flew with joy. When they had jousted round the Meydan and had each shewn what horsemanship he possessed, and ‘Ala-ed-Din the best of them all, the Sultan proceeded to his palace, and ‘Ala-ed-Din returned to his own.
And when it was evening, the nobles and wezirs came and took ‘Ala-ed-Din and conducted him in procession to the bath called Imperial, which he entered, and was bathed and perfumed, and coming forth put on a dress more gorgeous than before. Then he mounted, and the guards and emirs rode before him, and escorted him in stately progress, while four of the wezirs surrounded him with drawn swords. And all the people, natives and strangers alike, and all the troops, marched before him in procession, bearing candles and drums and pipes and instruments of joy and revel, till they arrived at his palace, where he dismounted, and entering, seated himself. And the wezirs and emirs who were with him sat also; and the memluks brought sherbets and sweet drinks, and served all the crowd who had come with him in procession—a multitude past numbering. And ‘Ala-ed-Din ordered his memluks to go forth from the palace gate and scatter gold among the crowd. When the Sultan returned from the Meydan and entered his palace, he forthwith ordered them to form a procession for his daughter the Lady Bedr-el-Budur, to escort her to her bridegroom’s palace. Thereupon the guards and officers of state who had taken part in ‘Ala-ed-Din’s progress, mounted, and the handmaids and eunuchs brought forth tapers and escorted the Lady Bedr-el-Budur in a stately procession till they brought her to her bridegroom’s palace. ‘Ala-ed-Din’s mother walked beside her; and in front were the wives of the wezirs and the emirs and grandees and chief officers; and along with her were the eight-and-forty damsels which ‘Ala-ed-Din had given her, each carrying in her hand a tall taper of camphor and ambergris set in a candlestick of gold inlaid with jewels. And they all went forth with her from the seraglio, men and women, and marched before her till they came to her groom’s palace, when they took her to her apartments, and changed her dress and displayed her. And when the displaying was over they led her to the chamber of her bridegroom ‘Ala-ed-Din, and he went in to her.
Now his mother was with the bride, and when he came to unveil her, his mother began to observe the beauty of the bride and her loveliness. And she looked at the chamber she was in, all sparkling with gold and jewels; and there were lustres of gold all set with emeralds and rubies. And she said within herself: “I used to think the Sultan’s palace magnificent, but this chamber is unique. Methinks not one of the greatest of Emperors and Kings ever attained to its like, and I do not believe that all the world could make a chamber like this.” And the Lady Bedr-el-Budur also began to look and wonder at this palace and its splendour. Then the tables were laid, and they all ate and drank and made merry; after which eighty handmaidens came before them, each with an instrument of joy and revel in her hand; and they stretched their fingers and touched the strings and evolved harmonious modulations till they rent the hearts of the hearers. And the Lady Bedr-el-Budur wondered the more, and said within herself: “Never in my life have I heard songs like these,” till she left off eating and gave herself up to listening. And ‘Ala-ed-Din poured out wine for her and gave it her with his own hand. And content and great rejoicing fell upon them, and it was a glorious night, such as Alexander, Lord of the two Horns, never spent in his time. And when they had done eating and drinking and the tables were taken away, ‘Ala-ed-Din arose and went in to his bride.
And when it was morning ‘Ala-ed-Din arose, and the treasurer brought him a splendid costly suit of the richest of the robes of Kings. And he dressed, and they brought him coffee with ambergris, and he drank; and then ordered the horses to be saddled, and mounted, and his memluks rode before and behind him. And he proceeded to the palace of the Sultan, and as soon as he had arrived and entered, the servants went and informed the Sultan of his arrival; who, when he heard of it, arose straightway to meet him, and embraced and kissed him as though he were his son, and seated him on his right. And the wezirs and emirs and officers of state and nobles of the realm blessed him, and the Sultan blessed and congratulated him. And he ordered breakfast to be brought and they all breakfasted. And when they had eaten and drunk their fill, and the servants had removed the tables from before them, ‘Ala-ed-Din turned to the Sultan and said: “O my lord, will thy Felicity deign to honour me this day to dinner with the Lady Bedr-el-Budur, thy well-beloved daughter, accompanied by all the wezirs and nobles of thy realm?” And the Sultan, being charmed with him, answered: “Thou art too hospitable, O my son.” And forthwith he ordered the wezirs and officers of state and grandees of the realm, and arose and took horses, and they likewise, and ‘Ala-ed-Din rode with them till they came to the new palace. And when the Sultan had entered and considered the building and its construction and masonry, which was of jasper and carnelian, his reason was confounded and distraught at this splendour and wealth and magnificence. And turning to the Wezir, he asked: “What sayest thou, O Wezir? Hast thou seen in all thy time a thing like this, or is there to be found among the Kings of the world such wealth and gold and jewels as we see here in this palace?” And the Wezir replied: “O my lord the King, this is a thing that is not within the reach of any King of the sons of Adam, and all the people of the world could not have built a palace like this, nor could masons construct such a work, except, as I said to thy Felicity, by the power of magic.” But the Sultan knew that the Wezir could never speak without envy of ‘Ala-ed-Din, and wished to prove to the Sultan that all this was not done by strength of man, but wholly by force of magic. So the Sultan answered him: “Enough, O Wezir; thou hast no more to say; and I know the reason of thy speaking thus.”
Then ‘Ala-ed-Din walked before the Sultan till they came to the upper kiosk, where he looked at the ceiling and windows and lattices all set with emeralds and rubies and other precious stones, and he was astonished and astounded and his wits were confounded, and he was distraught in his mind. Then the Sultan began to wander about the kiosk and look at things which captivated the reason. And he perceived the bay which ‘Ala-ed-Din had purposely left unfinished. And when the Sultan had examined it and saw that it was not complete, he cried: “Woe to thee, O bay, that thou art not perfect!” And turning to the Wezir, he said: “Knowest thou the cause of the unfinished state of this bay and its lattices?” And he replied: “O my lord, I think this window is left unfinished on account of thy Felicity hastening the wedding of ‘Ala-ed-Din, so that he had not time to finish it.” At that moment ‘Ala-ed-Din had gone to his bride, the Lady Bedr-el-Budur, to apprise her of the visit of her father the Sultan. But when he returned, the latter asked him: “O my son ‘Ala-ed-Din, what is the reason that this bay of the kiosk is not complete?” And ‘Ala-ed-Din replied: “O King of the Age, in consequence of the hurry of the wedding I could not get workmen to finish it.” Then said the Sultan: “It is a fancy of mine to complete it myself.” “God continue thy glory, O King,” answered ‘Ala-ed-Din. “So shall thy memory be perpetuated in thy daughter’s palace.” Then the Sultan ordered them to bring the jewellers and goldsmiths, and commanded that they should be furnished from the treasury with all they wanted of gold and jewels and minerals; and when they were assembled he bade them complete what was lacking in the lattice of the kiosk.
Meanwhile the Lady Bedr-el-Budur came to meet her father the Sultan, and as she drew near he noticed her face was smiling; so he embraced and kissed her, and led her into the kiosk, where all entered together. It was the time of the noon meal, and one table was prepared for the Sultan and the Lady Bedr-el-Budur and ‘Ala-ed-Din, and a second for the Wezirs and lords of state and grandees of the realm and officers of the army and chamberlains and gentlemen of the guard.
Then the Sultan seated himself between his daughter and his son-in-law. And when he stretched forth his hand to the food and tasted it, he was filled with surprise at the viands and the admirable and savoury cookery. And before him stood eighty damsels, each of whom might say to the full moon: “Get up, that I may seat myself in thy stead!” And they all held instruments of joy and revel in their hands, and tuned them, and stretched out their fingers and touched the strings, and drew forth melodious strains, which would expand the heart of the sorrowful. And the Sultan was delighted. The moment was agreeable, and he was happy, and said: “Verily this thing transcendeth the power of Emperors and Kings.” So they fell to eating and drinking, and the cup went round among them till they were satisfied; then fruits and sweetmeats and the like were brought and served in another apartment, whither they repaired and took their fill of these delights. Then the Sultan arose to look at the work of the jewellers and goldsmiths, and see if it resembled that of the palace. So he ascended to them and inspected their work and how they had progressed; but he perceived a strong contrast, and that they were unable to produce such work as the palace of ‘Ala-ed-Din. They told him that they had brought all the jewels they could find in the [ordinary] treasury, but it was not enough. Upon this he ordered the Great Treasury to be opened, and gave them what they wanted; and [said that] if that were still insufficient, they might take the present which ‘Ala-ed-Din had given him. So the jewellers took all the precious stones which the Sultan allowed, and they worked with them and again found that they had not enough, and were unable to complete half what remained unfinished of the lattices of the kiosk. Thereupon the Sultan commanded them to seize all the jewels which they might find among the wezirs and grandees of the state. So the jewellers took them all and continued their task, and even so there was not enough.
When morning came, ‘Ala-ed-Din ascended to see how the jewellers had worked, and perceived that they had not completed half the deficient bay. So he immediately ordered them to take down all that they had done and return the jewels to their owners. So they undid it all, and sent to the Sultan what was his, and to the wezirs what was theirs. Then the jewellers went to the Sultan and told him that ‘Ala-ed-Din had ordered them thus. And he asked them: “What did he say? What was his reason, and why was he not pleased that the bay should be finished, and why did he demolish what ye had done?” They answered: “O our lord, we have no knowledge at all, but he bade us demolish all we had done.” Thereupon the Sultan called for his horses and mounted and went to ‘Ala-ed-Din’s palace.
Now ‘Ala-ed-Din, after dismissing the goldsmiths and jewellers retired into his closet, and rubbed the Lamp, when the Slave instantly appeared, saying: “Ask whatsoever thou desirest, for thy Slave is in thy hands.” And ‘Ala-ed-Din said: “I wish thee to finish the bay that was left incomplete.” “On the head and also the eye,” answered the Slave, and vanished, but shortly returned saying: “O my lord, that which thou didst command me to do is finished.” So ‘Ala-ed-Din mounted to the kiosk and saw all the bays were perfect. And whilst he was inspecting them, lo, a eunuch came and said. “O my master, the Sultan cometh to thee, and entereth the palace gate.” So ‘Ala-ed-Din went down at once to meet him. When the Sultan saw him he cried: “O my son, wherefore hast thou done thus, and wouldest not let the jewellers finish the lattice of the kiosk, so that an unfinished spot remaineth in thy palace?” And ‘Ala-ed-Din replied: “O King of the Age, I left it imperfect only for a purpose; for I was not unequal to finishing it, nor could I wish thy Felicity to honour me at a palace wherein anything was imperfect. But that thou myself know that I am not incapable of perfecting it, I beg of thy Felicity to inspect the bays of the kiosk, and see if there be aught unfinished there.” So the King ascended to the apartments and entered the kiosk and began to look over it to the right and the left, but he found nothing whatever incomplete, but found all the bays perfect. And seeing this he was astonished, and embraced ‘Ala-ed-Din and fell to kissing him, saying: “O my son, what strange doing is this! In a single night thou canst accomplish a work which the jewellers would fail to do in months! By Allah, I do not think thou hast a fellow or peer in the world.” And ‘Ala-ed-Din replied: “God prolong thy life and continue thy length of days forever! Thy servant is not worthy of such praise.” But the King said, “O my son, verily thou art worthy of all praise, since thou hast accomplished a thing which all the workmen in the universe could not do.” Then the Sultan descended and went to the apartments of his daughter the Lady Bedr-el-Budur to rest with her; and he saw that she was very happy at the state and magnificence that surrounded her, and after resting awhile he returned to his palace.
~
Every day ‘Ala-ed-Din used to ride through the city with his memluks before and behind, scattering gold right and left among the people, and all the world, foreigners and neighbours, the far and the near, were alike drawn with love to him by reason of his excessive generosity and bounty. And he increased the provision for the poor and indigent, and himself gave them alms with his own hand; for which deeds he acquired great renown throughout the realm; and many of the grandees of the state and the emirs ate at his table, and men swore only “by his precious life!” And he went frequently to the chase and the Meydan and horse exercises and javelin jousts in the presence of the Sultan. And whenever the Lady Bedr-el-Budur saw him performing on the backs of horses, her love for him waxed stronger, and she thought within herself that God had been very gracious to her in causing to happen that which happened with the son of the Wezir, so that she was reserved to be the virgin bride of ‘Ala-ed-Din.
Thus ‘Ala-ed-Din daily increased in fair fame and renown, and the love of him grew stronger in the hearts of all the subjects, and he was magnified in the eyes of the people. At this time, moreover, certain of the Sultan’s enemies rode down against him, and the Sultan equipped the troops to resist them, and made ‘Ala-ed-Din leader of the army. So ‘Ala-ed-Din went with the troops, till he drew near to the enemy, whose armies were very strong. And he drew his sword, and rushed upon the enemy, and the battle and slaughter began, and the conflict was sturdy. But ‘Ala-ed-Din broke them and dispersed them, killing the greater part, and looting their goods and provisions and cattle beyond number. Then he returned triumphant after a glorious victory, and made his entry into his city, who had adorned herself for him in her rejoicing over him. And the Sultan went forth to meet him and congratulated him and embraced and kissed him, and there was a magnificent fête and great rejoicings. And the Sultan and ‘Ala-ed-Din entered the palace, where there met him his bride, the Lady Bedr-el-Budur, who was rejoicing over him, and kissed him between the eyes. And they went into her palace, and presently the Sultan and all sat down, and the damsels brought sherbets. So they drank; and the Sultan ordered throughout the kingdom that they should illuminate for the victory of ‘Ala-ed-Din over the enemy. And the chiefs and the soldiers and the crowd turned [their prayers] only to God in Heaven and ‘Ala-ed-Din on earth, for they loved him exceedingly, because of the excess of his bounty and generosity and his fighting for his country, and his charge, and his rout of the foe. And thus was it with ‘Ala-ed-Din.
But as to the Moorish sorcerer, when he had returned to his country, he spent all this time in lamenting the labour and trouble he had taken in his quest of the Lamp, and the more because his labour was fruitless; and the morsel had fallen from his hand just as it was touching his lips. And he fell to thinking over all this, and lamented, and cursed ‘Ala-ed-Din in his exceeding rage, and at times he would mutter: “That this misbegotten boy is dead below ground I am satisfied, and I hope yet to get the amp, since it is still safe.”
One day of the days he drew a table in sand and put the figures down and examined them carefully and verified them, that he might perceive and be certified of the death of ‘Ala-ed-Din and the preservation of the Lamp, beneath the ground; and he looked into the figures, both “mothers” and “daughters,” intently, but he saw not the Lamp. At this, anger overcame him, and he drew the figure again, to be certain of ‘Ala-ed-Din’s death; but he saw him not in the Treasury. So his rage increased and the more so when he ascertained that the boy was alive on the surface of the earth. And when he knew that he had come forth from underground and was possessed of the Lamp for which he himself had endured privations and labour such as man can hardly bear, then he said within himself: “I have borne many pains and suffered torments which no one else would have endured for the sake of the Lamp, and this cursed boy has taken it without an effort; and if this accursed knoweth the virtues of the Lamp, no one in the world should be richer than he.” And he added: “There is nothing for it but that I compass his destruction.” So he drew a second table, and inspecting the figures, discovered that ‘Ala-ed-Din had acquired immense wealth and had married the daughter of the Sultan. So he was consumed with the flame of anger begotten of envy.
He arose that very hour, and equipped himself, and journeyed to the land of China, and when he arrived at the metropolis wherein dwelt ‘Ala-ed-Din, he entered and alighted at one of the Khans. And he heard the people talking of nothing but the splendour of ‘Ala-ed-Din’s palace. After he had rested from his journey, he dressed himself and went down to perambulate the streets of the city. And he never met any people but they were admiring this palace and its splendour, and talking together of the beauty of ‘Ala-ed-Din and his grace and dignity and generosity and the charm of his manners. And the Moor approached one of those who were depicting ‘Ala-ed-Din with these encomiums, and said to him: “O gentle youth, who may this be whom ye praise and commend?” And the other replied: “It is evident that thou, O man, art a stranger and comest from distant parts; but be thou from ever so distant a land, how hast thou not heard of the Emir ‘Ala-ed-Din whose fame, methinks, hath filled the world and whose palace one of the Wonders of the World hath been heard of far and near? And how hast thou not heard anything of this or of the name of ‘Ala-ed-Din, our Lord increase his glory and give him joy?” But the Moor answered: “Verily it is the height of my desire to see the palace, and if thou wilt do me the favour, direct me to it, since I am a stranger.” Then the man said, “I hear and obey,” and proceeded before him and guided him to the palace of ‘Ala-ed-Din. And the Moor began to examine it, and knew that it was all the doing of the Lamp, and cried: “Ah! There is nothing for it but that I dig a pit for this cursed son of a tailor, who could not even earn a supper. And if the fates aid me I will undoubtedly send his mother back to her spinning, as she was before; and as for him, I will take his life.”
He returned to the Khan in this state of grief and regret and sadness for envy of ‘Ala-ed-Din. When he arrived at the Khan he took his instruments, of divination and drew a table to discover where the Lamp was; and he found it was in the palace, and not on ‘Ala-ed-Din himself. Whereat he rejoiced mightily, and said: “The task remaineth easy, to destroy the life of this accursed; and I have a way to obtain the Lamp.” Then he went to a coppersmith and said: “Make me a number of lamps, and take their price, and more; only I wish thee to hasten to finish them.” And the coppersmith answered. “I hear and obey.” And he set to work at them and completed them; and when they were done the Moor paid him the price he asked for them, and took them and departed and went to the Khan, where he put them in a basket. Then he went about the streets and bazars of the city, crying: “O who will exchange old lamps for new?” And when the people heard him crying thus, they laughed at him, saying: “No doubt this man is mad, since he goeth about to exchange old lamps for new.” And all the world followed him, and the street boys pursued him from place to place and mocked at him; but he gainsaid them not nor cared for that, but did not cease perambulating the city till he came under ‘Ala-ed-Din’s palace, when he began to cry in a louder voice, while the boys shouted at him, “Madman! Madman!”
Now by the decrees of destiny the Lady Bedr-el-Budur was in the kiosk, and hearing some one crying and the boys shouting at him, and not understanding what it was all about, she ordered one of her handmaids, saying: “Go and find out who it is that crieth and what he is crying.” So the damsel went to look, and perceived a man crying: “O who will exchange old lamps for new?” and the boys around him making sport of him. And she returned and told her mistress Bedr-el-Budur, saying: “O my lady, this man is crying: ‘O who will exchange old lamps for new? and the urchins are following him and laughing at him.” So the Lady Bedr-el-Budur laughed too at this oddity. Now ‘Ala-ed-Din had left the Lamp in his apartment, instead of replacing it in the Treasury and locking it up, and one of the maids had seen it. So she said: “O my mistress, methinks I have seen in my master’s room an old lamp; let us exchange it with this man for a new one, to find out if his cry be true or false.” And the Lady Bedr-el-Budur said to her: “Bring the Lamp which thou sayest thou didst see in thy master’s room.” For the Lady Bedr-el-Budur had no knowledge of the Lamp and its qualities, and that it was this which had brought ‘Ala-ed-Din her husband to his present high station; and her chief desire was to try and discover the object of this man who exchanged new lamps for old. So the damsel went and ascended to the apartment of ‘Ala-ed-Din and brought the Lamp to her mistress, and none of them suspected the guile of the Moorish wizard and his cunning. Then the Lady Bedr-el-Budur ordered an agha of the eunuchs to go down and exchange the Lamp for a new one. So he took the Lamp and gave it to the Moor and received from him a new lamp, and returned to the Princess and gave her the exchange; and she, after examining it, saw it was really new, and feel a-laughing at the folly of the Moor.
But he, when he got the Lamp and knew it was the Lamp of the Treasure, instantly put it in his bosom and abandoned the rest of the lamps to the people who were chaffering with him, and went running till he came to the outskirts of the city, when he walked on over the plains and waited patiently till night had fallen, and he saw that he was alone in the desert, and none there but he. Then he took forth the Lamp from his bosom and rubbed it, and immediately the Marid appeared to him, and said: “At thy service, I am thy slave in thy hands; ask of me what thou desirest.” So the Moor replied: “I require thee to remove the palace of ‘Ala-ed-Din from its site, with its inmates and all that is in it, and myself also, and set it in my country, the land of Africa. Thou knowest my town, and I wish this palace to be in my town, among the gardens.” And the Marid slave replied, “I hear and obey. Shut thine eye and open it, and thou wilt find thyself in thy country along with the palace.” And in a moment this was done, and the Moor and the palace of ‘Ala-ed-Din and all in it were removed to the land of Africa. Thus it was with the Moorish sorcerer.
To return to the Sultan and ‘Ala-ed-Din. When the Sultan arose in the morning from his sleep, in his affection and love for his daughter the Lady Bedr-el-Budur, he was wont every day when he was aroused from sleep to open the window and look out towards her. So he arose that day, as usual, and opened the window to look upon his daughter. But when he approached the window and looked towards the palace of ‘Ala-ed-Din, he beheld nothing-nay, the place was as bare as it was of yore, and he saw neither palace nor any other building. And he was wrapped in amazement and distraught in mind; and he rubbed his eyes, in case they were dimmed or darkened, and returned to his observation, till at last he was sure that no trace or vestige of the palace remained; and he knew not how or why it had disappeared. So his wonder increased, and he smote his hands together, and the tears trickled down over his beard, because he knew not what had become of his daughter.
Then he sent at once and had the Wezir fetched. And he stood before him, and as soon as he came in he noticed the sorrowful state of his sovereign, and said to him: “Pardon, O King of the Age. God defend thee from calamity. Wherefore dost thou grieve?” The Sultan replied: “Perhaps thou dost not know my trouble?” And the Wezir said: “Not a whit, O my lord. By Allah, I have no knowledge of it whatever.” Then said the Sultan: “It is evident thou hast not looked towards the palace of ‘Ala-ed-Din.” “True, O my master,” replied the Wezir, “it must now be still closed.” Then said the King: “Since thou hast no knowledge of anything, arise and look out of the window and see where ‘Ala-ed-Din’s palace is which thou sayest is shut up.” So the Wezir arose and looked out of the window towards the palace of ‘Ala-ed-Din, and could espy nothing, neither palace nor anything else. So his reason was amazed and he was astounded, and returned to the Sultan, who said: “Dost thou know now the reason of my grief, and hast thou observed the palace of ‘Ala-ed-Din which thou saidst was shut?” The Wezir answered: “O King of the Age, I informed thy Felicity before that this palace and all these doings were magic.” Then the Sultan was inflamed with wrath, and cried out: “Where is ‘Ala-ed-Din?” He answered: “Gone to the chase.” Thereupon the Sultan instantly ordered some of his aghas and soldiers to go and fetch ‘Ala-ed-Din, pinioned and shackled. So the aghas and soldiers proceeded till they came upon ‘Ala-ed-Din, whom they thus addressed: “Chastise us not, O our master ‘Ala-ed-Din, for the Sultan hath commanded us to take thee chained and pinioned. So we beg thy pardon, for we are acting under the royal mandate, which we cannot oppose.” When ‘Ala-ed-Din heard the words of the aghas and soldiers, wonder took hold of him, and his tongue became tied, for he understood not the cause of this. Then turning to them, he said: “O company, have ye no knowledge of the cause of this order of the Sultan? I know myself to be innocent, and to have committed no sin against the Sultan or against the kingdom.” They answered: “O our master, we know no cause at all.” Then ‘Ala-ed-Din dismounted and said to them: “Do with me what the Sultan ordered, for the command of the Sultan must be on the head and the eye.” Then the aghas chained ‘Ala-ed-Din and manacled him and bound him with irons and led him to the city. And when the citizens saw him bound and chained with iron, they knew that the Sultan would cut off his head; and since he was exceedingly beloved of them all, the lieges assembled together and brought their weapons and went forth from their houses and followed the soldiers to see what would be the event.
When the troops with ‘Ala-ed-Din reached the palace, they entered and told the Sultan; whereupon he straightway commanded the executioner to come and cut off his head. But when the citizens knew this, they barred the gates and shut the doors of the palace, and sent a message to the Sultan, saying: “We will instantly pull down thy house over thy head and all others in it, if any mischief or harm come to ‘Ala-ed-Din.” So the Wezir went in and informed the Sultan, saying: “O King of the Age, thy command is about to seal the book of our lives. It were better to pardon ‘Ala-ed-Din lest there come upon us the calamity of calamities; for the lieges love him more than us.” Now the executioner had already spread the carpet of death, and seated ‘Ala-ed-Din thereon, and bandaged his eyes, and had walked round him thrice, waiting for the King’s command, when the Sultan looking out of the window, beheld his subjects attacking him and scaling the walls with intent to pull them down. So he immediately ordered the executioner to stay his hand, and bade the herald go out to the crowd and proclaim that he had pardoned ‘Ala-ed-Din and granted him grace. When ‘Ala-ed-Din saw he was free, and espied the Sultan seated on his throne, he drew near and said to him: “O my lord, since thy Felicity hath been gracious to me all my life, vouchsafe to tell me what is my offence.” Then the Sultan said: “O traitor, hitherto I knew of no offence in thee.” And turning to the Wezir, he said: “Take him and shew him from the windows where his palace is.” And when the Wezir had led him and he had looked out of the window in the direction of his palace, he found the site bare as it was before he built his palace thereon; and he saw never a vestige of the palace at all. So he was amazed and bewildered and knew not what had happened. And when he returned, the King asked him: “What hast thou seen? Where is thy palace, and where is my daughter, the kernel of my heart, my only child, than whom I have none other?” And ‘Ala-ed-Din answered: “O King of the Age, I know not at all, nor what this is that hath occurred.” Then said the Sultan: “Know, O ‘Ala-ed-Din, that I have pardoned thee in order that thou mayest go and look into this matter and search for my daughter for me; and do not present thyself without her; for if thou bringest her not, by my life I will cut off thy head.” And ‘Ala-ed-Din replied: “I hear and obey, O King of the Age. Only grant me a delay of forty days, and then if I do not bring her, cut off my head and do what thou wilt.” And the Sultan answered: “I grant thee a delay of forty days, as thou askest, but think not to escape from my hand, for I would bring thee back even if thou wert up in the clouds instead of on the face of the earth.” “O my lord the Sultan,” said ‘Ala-ed-Din, “as I told thy Felicity, if I fail to bring her at the appointed time, I will come and have my head cut off.”
Now when all the people and citizens saw that ‘Ala-ed-Din was released, they rejoiced with exceeding joy and were glad at his escape; but the shame of what had befallen him, and bashfulness, and the jealous satisfaction [of his enemies] caused ‘Ala-ed-Din’s head to droop. So he went wandering about the city, and was bewildered at the case and knew not what had happened to him. For two days he remained in the city, in a sorrowful state, knowing not how to find his wife and palace, while some of the people brought him food and drink. After the two days he left the city, and wandered about the desert in an aimless manner, and walked on without stopping till the road led him beside a river, where, in the heaviness of the grief that oppressed him he gave up hope, and longed to throw himself into the river. But being a Muslim, and professing the Unity of God, he feared God in his soul, and he stood at the river’s bank to perform the religious ablutions. Now as he was taking the water in his hands, he began to rub his fingers together, and, so doing, he chanced to rub the Ring. Thereupon the Marid [of the Ring] appeared and said: “At thy service! Thy slave is in thy hands. Ask of me what thou desirest.” And when he saw the Marid, ‘Ala-ed-Din rejoiced with great joy, and said: “O Slave, I desire thee to bring me my palace and my wife, the Lady Bedr-el-Budur, in it, and all else that it containeth.” But the Marid answered: “O my master thou askest a hard matter which I cannot do. This thing pertaineth to the Slave of the Lamp, and I am not able to attempt it.” So ‘Ala-ed-Din replied: “Since this thing is beyond thy power, take me only and place me beside my palace wherever it may be on the earth.” And the Slave answered: “I hear and obey, O my master.” So the Marid bore him away, and in the twinkling of an eye set him down beside his palace in the land of Africa, in front of the apartment of his wife. It was then nightfall, yet he espied the palace and knew it to be his. And his grief vanished, and he hoped in God, after hope had been cut off, that he should see his wife once more. And he began to consider the mysterious workings of God (glory to his omnipotence!), and how the Ring had cheered him, when all hope would have died had not God aided him with the Slave of the Ring. So he rejoiced, and all his tribulation left him. And as he had gone four days without sleep, from the heaviness of his grief and anxiety and excess of pondering, he went beside the palace and slept under a tree; for, as hath been said, the palace was amid the gardens of Africa outside the city.
That night he slept beside the palace under a tree in perfect repose, though he whose head belongeth to the headsman sleepeth not of nights save when drowsiness compelleth him. But for the space of four days sleep had deserted him. So he slept till broad day, when he was awakened by the warbling of birds, and arose and went to the river there, which flowed to the city, and washed his hands and face, and performed the ablutions, and said the morning-prayer. And when he had done praying he returned and sat under the window of the apartment of the Lady Bedr-el-Budur. Now she, in the excess of her grief at her separation from her husband and from the Sultan, her father, and the horror of what had befallen her from the accursed Moorish wizard, was wont to arise every day at the streak of dawn, and to sit weeping; for she slept not at all of nights, and avoided food and drink. And her handmaiden would come to her at prayer-time to dress her, and as fate had decreed, the girl had opened the window at that instant in order for her to look upon the trees and the streams and console herself. And the maid looked out of the window and discovered ‘Ala-ed-Din, her master, sitting beneath the apartment, and she said to the Lady Bedr-el-Budur: “O my mistress, O my mistress! Here is my master ‘Ala-ed-Din sitting under the window.” So the Lady Bedr-el-Budur arose in haste and looked out of the window and saw him, and ‘Ala-ed-Din turned his head and saw her, and she greeted him and he greeted her, and they were both like to fly with joy. And she said to him: “Arise and come in to me by the secret door, now that the accursed is away.” And she bade the girl descend and open the secret door for him. And ‘Ala-ed-Din arose and entered thereby, and his wife, the Lady Bedr-el-Budur, met him at the door, and they embraced and kissed one another in perfect bliss till they began to weep from excess of happiness. And when they were seated ‘Ala-ed-Din said to her: “O Lady Bedr-el-Budur, before anything it is my wish to ask thee somewhat. It was my habit to put an old copper lamp in my apartment in a certain place….” When the Lady Bedr-el-Budur heard this, she sighed and said: “Alas, my beloved, it was that Lamp that was the cause of our falling into this misfortune.” And ‘Ala-ed-Din asked her, “How did this affair happen?” And she told him the whole story from first to last, and how they had exchanged the old lamp for a new one. And she added: “The next day we hardly saw one another in the morning before we found ourselves in this country; and he who cozened us and exchanged the Lamp told me that he had done this by force of magic by the aid of the Lamp, and that he is a Moor of Africa, and we are in his town.”
When the Lady Bedr-el-Budur had done speaking, ‘Ala-ed-Din said to her: “Tell me what this accursed is going to do with thee, and what and how he speaketh to thee, and what is his will of thee.” She answered: “He cometh to see me every day only once, and he would win me to love him, and marry him instead of thee, and forget thee and be consoled for thee. And he saith that the Sultan, my father, hath cut off thy head, and telleth me that thou art of poor people, and that he is the cause of thy wealth. And he blandisheth me with his words, but he never seeth in me anything but tears and weeping, and he hath not heard a kind word from me.” Then ‘Ala-ed-Din said: “Tell me, if thou knowest, where he keepeth the Lamp.” But she replied: “He carryeth it always with him, and it is not possible to part him from it for a single instant. But once, when he told me what I had related to thee, he took it from his bosom and shewed it to me.” So when ‘Ala-ed-Din heard these words he rejoiced greatly, and said: “O Lady Bedr-el-Budur, listen. I propose to go out now and return after changing my dress. So be not surprised at it; but instruct one of thy maidens to stand by the private door till she see me, and then open it at once. And now I will plot how to slay this Accursed.”
Therefore ‘Ala-ed-Din arose and went forth from the palace gate, and proceeded till he met by the way a peasant, to whom he said: “O man, take my clothes and give me thine.” But the peasant would not do so. So ‘Ala-ed-Din compelled him and took his clothes from him and put them on, and gave him his own costly robes. Then he went along the road till he reached the city. And he went to the bazar of the perfumers and bought of them some potent benj, the son of an instant, ③ buying two drachms of it for two dinars. Then he returned along the road till he came to the palace; and when the slave-girl saw him she opened the private door. And he entered to the Lady Bedr-el-Budur, and said to her: “Listen! I wish thee to dress and adorn thyself and dismiss grief; and when this damned Moor cometh, do thou receive him with a pleasant welcome, and meet him with a smiling face, and bid him come and sup with thee; and shew him that thou hast forgotten thy beloved ‘Ala-ed-Din and thy father, and that thou lovest him with vehement love. Then ask him for a drink, and let it be red wine; and, shewing all the tokens of joy and happiness, drink to his secret; and when thou hast served him with three cups of wine, so as to make him careless, put this powder in the cup and crown it with wine; and as soon as he drinketh this cup wherein thou hast put this powder, he shall instantly fall, like a dead man, on his back.” And when the Lady Bedr-ed-Budur heard these words of ‘Ala-ed-Din she said: “This is an exceedingly difficult thing for me to do; but to escape from the profanation of this accursed, who hath afflicted me with separation from thee and from my father, it is lawful to kill the wretch.” Then, after ‘Ala-ed-Din had eaten and drunk with his wife and appeased his hunger, he arose without delay or hindrance and went forth from the palace.
Then the Lady Bedr-el-Budur sent for her tirewoman, who attired her and adorned her and put on her handsomest dress and perfumed her. And whilst she was doing so, behold, the cursed Moor appeared. And when he looked at her in this array, he rejoiced greatly, and all the more when she received him with a smiling face, contrary to her habit; and his love for her increased, and he desired her passionately. Then she took him by her side and seated him, saying: “O my beloved, if thou wilt, come to me this night and let us sup together. Enough of sorrow have I had, and were I to sit mourning for a thousand years or two, ‘Ala-ed-Din would not come back to me from the grave. And I rely upon what thou saidst yesterday, that my father slew him in his sorrow at my absence. Do not wonder that I am changed since yesterday; it is because I have resolved to take thee as my lover and intimate instead of ‘Ala-ed-Din, for I have no other man than thee. So I look for thy coming to me to-night, that we may sup together and drink a little wine with one another. And it is my desire that thou give me to taste of the wine of thy native Africa; perhaps it is better than ours. I have with me some wine of our country, but I desire greatly to taste the wine of thine.”
When the Moor saw the love which the Lady Bedr-el-Budur displayed towards him, and how she was changed from her former melancholy, he believed she had given up hope of ‘Ala-ed-Din, and he rejoiced greatly, and said, “O my soul, I hear and obey whatever thou desirest and biddest me. I have in my house a jar of wine of my country, which I have kept laid up underground for eight years; and now I am going to draw sufficient for us, and will return to thee speedily.” But the Lady Bedr-el-Budur, in order to coax him more and more, said: “O my dearest, do not go thyself, and leave me; but send one of the servants to fill for us from it, and remain here sitting by me that I may console myself with thee.” But he said: “O my mistress, none knoweth but I where the jar is, and I will not tarry long away from thee.” So the Moor went out, and after a little time returned with as much wine as they needed. Then the Lady Bedr-el-Budur said to him: “Thou hast taken pains for me, and I have suffered for thy sake, O beloved.” And he answered: “Not so, O my eye; I am honoured in serving thee.” Then the Lady Bedr-el-Budur sat with him at the table, and they ate, and presently the lady asked him for drink; and immediately the handmaid filled for her a goblet, and then filled another for the Moor. So she drank to his long life and his secret, and he to her life; and she made a boon-fellow of him. Now the Lady Bedr-el-Budur was accomplished in eloquence and refinement of speech, and she bewitched him by addressing him in a delicious way, so that he might become more in love with her. But the Moor thought this was sincere, and did not imagine that her love was feigned, a snare to kill him. And his infatuation for her increased, and he almost died of love when he saw her shew him such sweetness of word and thought; and his head swam, and the world seemed nothing in his eye.
When they came to the end of the supper and the wine had already mastered his brain, and the Lady Bedr-el-Budur observed it, she said: “We have a custom in our country, but I know not if ye have it here. Tell me if ye have or not.” And the Moor asked, “What is this custom?” “At the end of supper,” she replied, “for every one to take the cup of his beloved and drink it.” And she forthwith took his cup and filled it with wine for herself, and bade the handmaid give him her cup, wherein was wine mixed with the benj. Now the maid knew what to do, for all the maids and eunuchs in the palace wished for his death, and sympathised with the Lady Bedr-el-Budur. So the girl gave him the cup, and he, when he heard her words and saw her drinking out of his cup and giving him hers to drink, thought himself Alexander the Great, Lord of the two Horns, as he gazed upon all these tokens of love. Then she said to him, undulating her sides, and putting her hand in his: “O my soul, here is thy cup in my hand, and my cup in thine, thus do lovers drink from one another’s cups.” Then she kissed his cup and drank it and put it down and came to him and kissed him on the lips. And he flew with delight, and resolved to do as she did, and raised the cup to his mouth and drank it off, without thinking if there were anything in it or not. And instantly, in a moment, he fell on his back, like a corpse, and the cup fell from his hand.
Then the Lady Bedr-el-Budur rejoiced, and the maidens ran and opened the door to ‘Ala-ed-Din, their master, who came in, and went up to his wife’s room, and found her sitting at the table, with the Moor lying in front of her like a dead man. And he drew near and kissed her and thanked her. Then rejoicing with excessive joy, he turned to her and said: “Do thou and thy slave-girls retire to thy apartment and leave me alone now, that I may arrange my plan.” And the Lady Bedr-el-Budur delayed not, but went, she and her maidens. Then ‘Ala-ed-Din arose, and locking the door after them, went up to the Moor and put his hand into his bosom and took forth the Lamp; after which he drew his sword and cut off his head. Then he rubbed the Lamp, and there appeared the Marid slave, who said: “At thy service, O my master. What wilt thou?” And ‘Ala-ed-Din answered: “I desire thee to lift this palace from this country and bear it to the land of China, and set it down in the place where it was, opposite the Sultan’s palace.” And the Marid replied, “I hear and obey, O my master.” Then ‘Ala-ed-Din went and sat with the Lady Bedr-el-Budur, his wife, and embraced and kissed her, and she him. And they sat in company while the Marid carried the palace and set it in its place opposite the palace of the Sultan.
And ‘Ala-ed-Din ordered the maids to bring a table before him, and seated himself, he and the Lady Bedr-el-Budur, his wife; and they fell to eating and drinking in all joy and happiness till they were satisfied. Then withdrawing to the hall of carousal, they sat and drank and caroused and kissed each other in perfect bliss. For the time had been long since they had enjoyed themselves together. So they ceased not till the sun of wine shone in their heads, and drowsiness overcame them. Then they arose and went to bed in all contentment. Next morning ‘Ala-ed-Din arose and awoke his wife, the Lady Bedr-el-Budur; and the slave-girls came and dressed and arrayed and adorned her, while ‘Ala-ed-Din put on his handsomest dress, and both were like to fly for joy at their re-union after separation. And the Lady Bedr-el-Budur was the more happy that day, because she was going to see her father. Thus was it with ‘Ala-ed-Din and the Lady Bedr-el-Budur.
But as for the Sultan, after he had banished ‘Ala-ed-Din, he never ceased grieving for his daughter; and every hour of every day he would sit and weep for her like a woman, for she was his only child and he had none other. And as he shook off his slumber, morning after morning, he would go in haste to the window and open it and look where ‘Ala-ed-Din’s palace once stood, and his tears would flow till his eyes were dry and his eyelids sore. Now that day he arose at daybreak and looked out as usual, when, lo, he espied before him a building; so he rubbed his eyes and considered it attentively till he was sure it was ‘Ala-ed-Din’s palace. So he ordered his horse instantly on the spot, and when it was saddled he went down and mounted and went to ‘Ala-ed-Din’s palace. And when his son-in-law saw him coming, he went down to meet him half-way, and took him by the hand and led him to the apartments of the Lady Bedr-el-Budur, his daughter. And she, being very anxious to see her father, came down and met him at the door of the staircase in front of the hall on the ground floor. So her father embraced her and kissed her, and wept, and she likewise. Then ‘Ala-ed-Din led him to the upper rooms, and they sat; and the Sultan asked her of her state and what had befallen her. And the Lady Bedr-el-Budur told him all that had happened to her, and said: “O my father, I did not arrive till yesterday, when I saw my husband. And it was he who delivered me from the power of that man, the Moor, the wizard, the accursed. Methinks on the earth’s face there is none viler than he. And but for ‘Ala-ed-Din, my beloved, I had not escaped from him, nor hadst thou seen me again all my days. But heavy grief and sorrow took possession of me, O my father, not only for my separation from thee, but also for the parting from my husband, in whose debt I shall be all the days of my life, seeing he delivered me from that accursed wizard.” Then she began to relate to her father all that had befallen her, and how the Moor had cheated her in the shape of a seller of lamps, exchanging new for old, and how she had thought this his folly and laughed at him, and being deceived, had taken the old lamp that was in her husband’s room and sent it by a eunuch and exchanged it for a new lamp. “And the next day, O my father, we found ourselves, with the palace and all besides, in the land of Africa. And I knew not the virtue of the Lamp which I exchanged till my husband came and plotted a stratagem by which we escaped. And had he not helped us, the accursed would have possessed himself of me by force. But ‘Ala-ed-Din, my husband, gave me a potion and I put it into his wine-cup, and I gave it him, and he drank and fell down like a corpse. Thereupon my husband, ‘Ala-ed-Din, came in, and I know not how it was done, but we were carried from Africa to our place here.” And ‘Ala-ed-Din said: “O my lord, when I ascended and saw him like the dead, drunk and drowsy with benj, I told the Lady Bedr-el-Budur to go, she and her maids, to the inner apartments, and she arose and went, she and her maids, from that polluted place. Then I drew near to that accursed Moor and put my hand into his bosom, and drew out the Lamp (for the Lady Bedr-el-Budur had informed me that he always kept it there), and when I had taken it, I bared my sword and cut off his damnable head. Then I worked the Lamp and ordered its Slave to bear the palace and all therein and set it down in this spot. And if thy Felicity doubt my words, arise with me and look upon this cursed Moor.” So the King arose and went with ‘Ala-ed-Din to the apartment and saw the Moor, and immediately commanded that they should take the carcase away and burn it and scatter the ashes to the winds.
Then the Sultan embraced ‘Ala-ed-Din and fell a-kissing him, saying: “Forgive me, O my son, that I was going to take thy life, through the wickedness of this cursed sorcerer, who threw thee into this calamity; but I may be excused, my son, for what I did to thee, since I saw myself deprived of my daughter, the only child I have, dearer to me than my kingdom. Thou knowest how the hearts of parents yearn over their children, and the more when they are like me, who have only the Lady Bedr-el-Budur.” Thus the Sultan began excusing himself to ‘Ala-ed-Din and kissing him. But ‘Ala-ed-Din replied: “O King of the Age, thou didst nothing to me contrary to law, nor did I sin against thee; but all this arose from the Moor, that filthy wizard.” Then the Sultan ordered that the city should be decorated, and they adorned it, and the rejoicings and festivities were held. And he ordered the herald to proclaim through the streets: “This day is a high festival, and let rejoicings be held throughout the kingdom for a whole month of thirty days, for the return of the Lady Bedr-el-Budur and her husband.” Thus was it with ‘Ala-ed-Din and the Moor.
~
Yet ‘Ala-ed-Din was not wholly quit of that accursed Moor, although his body had been burnt and its ashes scattered to the winds. For this miscreant had a brother viler than himself, and even more skilled in necromancy and geomancy and astrology,—“two beans split,” as the proverb saith. Each dwelt in his own region of the world, to fill it with his spells, his deceit, and his wickedness. Now it chanced one day that this brother wished to know how it was with the Moor; and he brought out his table and marked the figures, and carefully inspecting them, discovered that his brother was in the abode of the tomb. So he mourned, being assured of his death. Then he tried a second time, to see how he died and the place of his death; and he found that he died in China and had perished by the vilest of slaughter, and that his destroyer was a youth named ‘Ala-ed-Din. So he forthwith arose and prepared for a journey, and travelled over plains and wastes and mountains a number of months, till he came to the land of China and the metropolis wherein ‘Ala-ed-Din dwelt. And he went to the foreigners’ Khan and hired a room and rested there awhile. Then he arose to wander about the streets of the city to find a way for the accomplishment of his fell design, of wreaking vengeance upon ‘Ala-ed-Din for his brother.
Presently he entered a coffee-house in the bazaar. It was a large place, and many people had gathered together there to play, some at Mankala, and others at backgammon, or at chess, and so forth. And he sat down there and listened to the people who sat beside him talking about a pious woman called Fatimeh, who was always at her devotions in a cell outside the town, and never came into the city except twice a month, and how she had worked a number of miracles. And when the Moorish sorcerer heard this, he said within himself: “Now I have found what I wanted. If it please God, by means of this woman I shall accomplish my purpose.” Then he drew near to the people who were talking of the miracles of this old ascetic, and he said to one of them: “O Uncle, I heard you discussing the miracles of some saint named Fatimeh. Who is she, and where doth she dwell?” And the man answered” “Wonderful! how art thou in our town and hast not heard of the miracles of our Lady Fatimeh? It is plain that thou, my poor friend, art a stranger, since thou hast not heard of the fasts of this holy woman and her abstraction from the world and the perfection of her piety.” And the Moor rejoined: “Yes, O my master, I am a foreigner, and only yesternight came I to your city; and I hope thou wilt inform me concerning the miracles of this good woman and where she hath her dwelling, for I have fallen into trouble, and my intention is to go to her, and ask for her prayers. So that perhaps God (honour and glory to him!) may deliver me from my trouble by means of her prayers.” So the man told him about the miracles of holy Fatimeh, and her piety and the excellence of her devotions. And he took him by the hand and led him forth outside the city, and shewed him the way to her dwelling in a cave on the top of a little hill. So the Moor magnified his favour and thanked him for his goodness and returned to his place in the Khan.
As destiny had decreed, the next day Fatimeh descended to the town, and the Moorish wizard went forth in the morning from the Khan and watched the people thronging, and he drew nigh to see what was the news. So he saw Fatimeh standing, and all who had any sickness came to her, and were blessed by her, and asked for her prayers; those whom she touched recovered from whatever disease they had. The Moorish wizard followed her about till she returned to her cave. Then he waited till the evening had fallen, when he went to the shop of a wine-seller and drank a cup of wine. Then he went forth in search of the cave of Fatimeh the ascetic, and, arriving there, entered and saw her lying on her back upon a piece of matting. So he approached and sat upon her, and drew his hanger and shouted at her; whereupon she awoke and opened her eyes, and saw a man of Morocco with a drawn dagger sitting upon her breast as though with intent to kill her. So she was afraid and startled. Then he said to her: “Listen! if thou utter a syllable or scream, I will kill thee outright that very minute. Get up, now, and do all that I tell thee.” And he swore to her an oath that if she did what he told her, he would not slay her. Then he got up from her, and Fatimeh arose, and he said to her: “Give my thy clothes and take mine.” So she gave him her clothes and headbands and veil and cloak; and he said: “Thou must also anoint me with what shall stain the colour of my face like thy colour.” So Fatimeh went inside the cave and brought a pot of ointment, and took some of it in her palm, and rubbed it on his face, till it became of the same colour as hers. And he gave him her staff, and taught him how to walk and what to do when he went down into the city; and she put her rosary round his neck. Finally she gave him a mirror, saying: “Look, now, thou art not different from me a whit.” And she saw himself as it were Fatimeh in very deed, there as she was. But when he had attained his wish, he broke his oath, and asking for a rope, which she brought him, he seized her and strangled her with it in the cave; and when she was dead he dragged her out and cast her into a pit which was there outside the cave. After which he returned to her cave and went to sleep till day broke.
Then he arose and went down to the city and stationed himself beneath the apartment of ‘Ala-ed-Din, while the people gathered around him, for they were sure he was Fatimeh the ascetic. And he began to do as she did, and laid his hands on the suffering, and recited for these the opening chapter of the Kur’an, and for those another chapter, and prayed for others. And the crowding of the people upon him and their clamour reached the ears of the Lady Bedr-El-Budur, and she said to her maidens: “See what is the news and what is the cause of the uproar.” So an agha of the eunuchs went to see what was the matter, and returned, saying: “O my mistress, this noise is on account of the Seyyideh Fatimeh, and if thou wilt so order. I will bring her before thee that thou mayest be blessed by her.” And the Lady Bedr-el-Budur replied: “Go and bring her to me, for I have long heard continually of her miracles and her merits, and I yearn to see her and be blessed by her; for people in trouble profit greatly by her virtues.” So the agha went and fetched the Moorish sorcerer, disguised in Fatimeh’s clothes. And when he came before the Lady Bedr-el-Budur, and looked upon her, he began saying his beads, and none there doubted that he was the saint herself. Then the Lady Bedr-el-Budur arose and saluted him and seated him beside her, and said: “O my mistress Fatimeh, I will thee to stay with me always, that I be blessed by thee and learn of thee the paths of piety and devotion, and be thy disciple.” Now this was a trick of this accursed magician, and he resolved to complete his treachery further. So he said: “O my lady, I am a poor woman, dwelling in the desert, and the like of me is not worthy to stay in the palaces of Kings.” But the Lady Bedr-el-Budur answered: “Have no anxiety at all, O mistress Fatimeh. I will give thee a place in my house, where thou shalt worship and none ever disturb thee, and thou shalt serve God here better than thou couldst in thy cave.” So the Moor replied: “I hear and obey, O my lady. I will not gainsay thy words, for the word of the children of Kings cannot be contradicted or disobeyed. Only I beg that my eating and drinking and sitting may be in my own room alone, where none may enter; and I do not require dainties, but each day vouchsafe to send me by thy handmaid to my chamber a piece of bread and a drink of water; and when I desire to eat let me eat in my room alone.” The wretch resolved thus for fear lest he should lift his veil, when his affair might be foiled and he be proved a man by his beard and mustache. “O my mistress Fatimeh,” replied the Princess, “be of good cheer; nothing shall be but as thou desirest. Arise now with me that I may shew thee the chamber which I mean to make ready for thy stay with us.” So the Lady Bedr-El-Budur arose and took the wizard, who was disguised as Fatimeh the ascetic, and led him to the place which she had promised him to stay in, saying: “O my mistress Fatimeh, here shalt thou live and this chamber is for thyself, where thou shalt dwell in all ease and comfort and privacy.” So the Moor thanked her for her goodness and blessed her. Then the Lady Bedr-el-Budur took him and shewed him the lattices and the kiosk of jewels with its twenty-four windows, and said: “What thinkest thou, O my mistress Fatimeh, of this wonderful kiosk?” The Moor answered: “By Allah, my daughter it is wonderful and splendid, and me thinks there is none like it in the world. But alas! for one thing which is wanting to its beauty and adornment.” “What is that, O my mistress Fatimeh,” Lady Bedr-el-Budur asked, “which is lacking, and what is this thing which would adorn it?” And the sorcerer replied: “O my lady, all it lacketh is that there should hang from the dome an egg of the bird called the rukh; and were this hung, the kiosk would not be equalled in the world.” Then the Lady Bedr-el-Budur said: “What is this bird, and where is its egg to be found?” And the Moor said: “O my lady, the rukh is a huge bird that lifteth camels and elephants in its claws and flieth off with them, so vast is its strength. And this bird is found chiefly in the mountains of Kaf; and he who built this kiosk can bring thee one of its eggs.” Then they ceased talking, as it was the dinner hour; and when the maidens had laid the table the Lady Bedr-el-Budur seated herself and invited the accursed Moor to eat with her. But he refused and retired to his own room, and there the slave-girls brought him his food.
When it was evening ‘Ala-ed-Din returned from hunting, and his wife met him and saluted him, and he embraced and kissed her. Then looking in her face he perceived a trace of melancholy, and, unlike her habit, she was not smiling. So he asked her: “What hath come over thee, O my beloved? Tell me hath anything disturbed thy mind?” And she said: “Nothing at all; but, O my beloved, I fancied that there was nothing wanting to our kiosk; yet, O my eyes, if an egg of the rukh were hung from the dome there would not be its equal in the universe.” And ‘Ala-ed-Din said: “And for this thou art sad! when it is as easy as possible to me. So be of good cheer, and whatsoever thou dost want, only inform me of it, and I will bring it from the bowels of the earth in an instant.” Then, after cheering her, he retired to his chamber and took the Lamp and rubbed it, and immediately the Marid appeared and said: “Ask what thou desirest.” And ‘Ala-ed-Din replied: “I wish thee to bring me an egg of the rukh to hang from the dome of the kiosk.” But when the Marid heard these words his face become terrible, and he was wroth, and shouted with a tremendous voice: “O hinderer of good deeds, it is not enough for thee that I and all the slaves of the Lamp are at thy service, but thou wishest, moreover, that I bring thee our Lady for thy amusement, to hang her up in the dome of thy kiosk to please thee and thy wife? By God, ye both deserve to be burnt to ashes this instant and scattered to the winds; but as ye were ignorant of this, not knowing its meaning, I pardon you, since ye are innocent. The insult cometh from the accursed magician, brother of the Moorish sorcerer, who pretendeth to be Fatimeh the ascetic, after putting on her dress and slaying her in her cave. And he is come to kill thee in revenge for his brother; and he it was who made thy wife demand this thing of me.” Then the Marid vanished. But when ‘Ala-ed-Din heard this words his faculties departed and his limbs shook at the Marid’s fearful shout. But he plucked up resolution, and went forth from his chamber to his wife’s apartments, where he pretended that his head ached, for he knew that Fatimeh was renowned for the mystery of curing all aches. When the Lady Bedr-el-Budur saw him putting his hand to his head and complaining of pain, she asked him the cause, and he answered: “I know not, except that my head aches badly.” So she instantly sent for Fatimeh, that she might lay her hand upon his head. And ‘Ala-ed-din said, “Who is Fatimeh?” And she told him how she had established Fatimeh the ascetic in the palace. So the slave-girls went and brought the accursed Moor. And ‘Ala-ed-Din rose to him; and, shewing that he knew nothing of the trick, saluted him as though he were saluting Fatimeh the ascetic, and kissed the hem of his gown, and welcomed him, and said, “O my mistress Fatimeh, I hope thou wilt do me a favour, since I have heard of thy success in curing sickness; and I have a violent pain in my head.” Then the accursed Moor hardly believed these words, for it was just what he wanted; but he approached ‘Ala-ed-Din to lay his hand on his head and cure his pain. And he laid one hand on him, and putting the other under his dress drew forth a dagger to kill him. But ‘Ala-ed-Din was watching him, and waited till he had bared the dagger, when he seized him and took the dagger and plunged it into his heart.
When the Lady Bedr-el-Budur saw him, she screamed and said: “What hath Fatimeh the ascetic done that thou shouldst place this awful burden of her blood upon thy soul? Dost thou not fear God, that thou slayest Fatimeh, a holy woman, whose miracles are famous?” And ‘Ala-ed-Din said: “I have not killed Fatimeh, but he whom I killed first killed Fatimeh, and this is the brother of the cursed Moorish sorcerer who seized thee and removed thy palace to Africa by his spells. And this accursed brother of his came to this country, and contrived this trick, and slew Fatimeh and assumed her dress, only to wreak vengeance upon me for his brother’s blood, And he it was who made thee ask for the rukh’s egg, that it might cause my destruction. And if thou doubtedst me, come and look at him I slew.” Then ‘Ala-ed-Din lifted the veil of the Moor, and the Lady Bedr-el-Budur looked and saw a man with a beard all over his face. Then she understood the truth, and said to “Ala-ed-Din: “O my beloved, twice have I brought thee in peril of death!” But he replied: “No harm is done, O Lady Bedr-el-Budur. Blessing on thine eyes! I accept all that cometh from thee with perfect delight.” And the Lady Bedr-el-Budur, when she heard these words, hastened and embraced and kissed him, saying: “O my beloved, all this is my love for thee, and I knew nothing; and I treasure thy love.” And he kissed her and pressed her to his bosom, and their love grew stronger.
Now at that moment the Sultan appeared, and they told him all that had befallen from the brother of the Moorish sorcerer. And they looked at him, and he was dead. So the Sultan ordered that he should be burnt and his ashes scattered to the winds, like his brother’s. But ‘Ala-ed-Din abode with his wife, the Lady Bedr-el-Budur, in all content and happiness and escaped all danger. And after a time the Sultan died, and ‘Ala-ed-Din sat on the royal throne and ruled and administered justice to the subjects, and all the people loved him, and he lived with his wife, the Lady Bedr-el-Budur, in perfect peace and happiness, till they were visited by the terminator of delights and the separator of companions.
------
NOTES
Note ②. Javelin of palm.
Note ③. I.e., which took effect in a moment.
➖➖➖