
Nam mô A-di-đà Phật,
Thưa các cụ và các bà,
Thưa các ngài,
Từ khi Hội Phật giáo thành lập đến giờ, các sư cụ trong ban đạo sư đã thuyết pháp và giảng kinh mấy lần rồi. Nay đến lượt chúng tôi được Hội cử ra nói chuyện hầu các cụ và các ngài, tôi xin nói câu chuyện: Phật giáo đối với cuộc nhân sinh.
Đem cái đạo lý của một tôn giáo rất rộng và rất khó như đạo Phật mà nói trong chốc lát, thì thật không phải việc dễ. Nhưng vì đây là ở trước Tam bảo, nhờ có cái đức từ bi vô lượng của Phật, thì dù tôi có vụng về hay sai lầm thế nào nữa, chắc các cụ và các ngài cũng thể lòng đức Phật mà dung thứ cho. Vậy nên tuy biết là khó mà không lo ngại lắm.
Trong câu chuyện tôi sẽ nói có bốn đoạn: Đoạn đầu nói qua các mục đích tại sao mà lập ra Hội này, đoạn thứ hai nói lược qua lịch sử của Phật tổ Thích-ca, đoạn thứ ba nói mấy điều cốt yếu trong Phật pháp, đoạn sau cùng xét xem đạo Phật quan hệ đến cuộc nhân sinh là thế nào. Tôi sẽ cố sức nói vắn tắt và dễ hiểu, để khỏi phụ tấm lòng sốt sắng của các cụ và các ngài đã chịu khó đến nghe đông đúc như thế này. Tôi rất lấy làm hân hạnh và xin có lời thành thật cảm tạ các cụ và các ngài.
Chúng tôi sở dĩ lập ra Hội Phật giáo này là vì mấy lẽ sau, tôi tưởng cũng nên nhắc lại để bà con trong Hội hiểu rõ.
Người ta ở đời bao giờ cũng cần phải giữ sao cho phần tinh thần và vật chất được điều hòa với nhau, thì sự sinh hoạt của ta mới được mỹ mãn, bởi vì phần tinh thần có mạnh mẽ, minh mẫn thì phần vật chất mới được khỏe khoắn, tốt tươi. Phần vật chất thuộc về hình thể, quan hệ đến hình thức của mọi sự vật; phần tinh thần thì không có hình, phải nương vào vật chất để phát hiện ra. Song phải có tinh thần thì sự hành động của vật chất mới có nghĩa lý. Cũng vì thế, cho nên bất kỳ xã hội nào cũng có những tôn giáo hay là những tư tưởng cao siêu nào đó để chủ trương sự sinh hoạt của loài người. Những tôn giáo và những tư tưởng ấy đều phải căn cứ vào một tôn chỉ nào có ý nghĩa cao minh và rõ ràng để người ta tin mà theo. Cái tôn chỉ ấy lại phải thích hợp với tính tình và trình độ nhiều người, thì lòng tin của người ta vào nó mới chắc chắn, vững bền. Vậy trong các tôn chỉ dễ hiểu, dễ theo, thì không gì bằng tôn chỉ của các tôn giáo, người ta thường lấy để làm chỗ quy túc, nghĩa là chỗ kết thúc, chỗ nương tựa cuối cùng.
Nước Việt Nam ta có đạo Nho và đạo Phật là phổ thông hơn cả. Hai đạo ấy đều có tôn chỉ rất cao và lại có ý nghĩa rất hay về đường thực tiễn. Nhưng Nho thì lấy cái lẽ tự nhiên của tạo hóa làm gốc, lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm chỗ quy túc, mà Phật thì lấy sự giải thoát ra ngoài tạo hóa làm mục đích, lấy Niết-bàn tịch tĩnh làm chỗ quy túc. Bởi thế cho nên Nho thì chú trọng ở việc xử thế mà ít nói đến sự sống chết, Phật thì chú trọng ở việc xuất thế và hay nói về sự sống chết.
Việc sống chết là một vấn đề tự cổ chí kim, tự đông chí tây. Biết bao nhiêu những bậc trí tuệ, tài giỏi đã cố hết sức tìm tòi mà vẫn không giải quyết được, cho nên vấn đề ấy vẫn luôn ám ảnh trong lòng người ta. Thường thì những người trí thức có thể nhờ vào tư tưởng của mình mà an ủi, nhưng đa số trong quần chúng đều không muốn có sự hoài nghi về điều đó, người ta chỉ cầu lấy có cái cơ sở nào có thể tin được để tin cho yên. Bởi vậy đa số mọi người đều cần có tôn giáo.
Đạo Phật là một tôn giáo mà dân ta từ xưa nay vẫn tin theo rất nhiều, vì đạo ấy có hình thức dễ khiến người ta tin được. Còn về đạo lý của nhà Phật thì có nhiều ý nghĩa sâu xa. Hiện những nhà học thức trong thiên hạ cũng đã kê cứu tường tận và đều nhận là một đạo rất cao, rất hay. Vậy một tôn giáo có phần rất cao thâm, rất phổ thông mà lại thấm thía vào tủy não người mình đã bao nhiêu đời nay, người trong nước hầu khắp từ Nam chí Bắc, ai ai cũng tín ngưỡng và sùng bái, thì tất là có ảnh hưởng đến sự làm ăn hằng ngày của ta. Một cái đạo có thế lực về đường tinh thần sâu xa như thế, thì sao ta không cố gắng làm cho nó sáng rõ ra, khiến những tín đồ biết rõ cái đạo của mình tin và biết cách ăn ở cho phải đạo, để bớt được những sự khổ não trong đời? Chẳng hơn là cứ bo bo ở chỗ vật chất nông nổi, hẹp hòi, biến đổi vô thường, nay thế này, mai thế khác, làm cho người ta bơ vơ không biết bấu víu vào đâu, tựa như chiếc thuyền lênh đênh giữa dòng, không biết đâu là bờ là bến hay sao?
Bởi những lẽ ấy cho nên chúng tôi rủ nhau lập nên hội Hội Phật giáo này, chủ ý là muốn làm cho sáng cái đạo đã mờ, muốn trau chuốt cho đẹp đẽ hơn trước và lại thích hợp hơn với sự nhu yếu của người đời.
Nói thật tình thì ngày nay nói đến đạo Phật, phần nhiều người vẫn tưởng là theo đạo Phật chỉ cần những ngày rằm, mồng một nhớ ăn chay và đến chùa lễ Phật mà thôi, ngoài ra không mấy người hiểu đến cội nguồn đạo Phật là thế nào, không biết đạo lý sâu nông ra sao, thậm chí có kẻ ngày ngày miệng niệm Phật, tay lần tràng hạt, mà bao nhiêu hành động đều trái hẳn với đạo Phật. Đó chẳng qua là cái tập tục của người mình, chỉ theo thói thường mà làm, chứ không để ý suy nghĩ đến nghĩa lý của những việc mình làm. Ấy cũng là một điều ta nên lưu tâm để tìm cách sửa đổi.
Ta vẫn nghe nói và biết rằng đức Phật là từ bi bác ái, cứu nhân độ thế, nhưng thường chưa dễ mấy người đã hiểu nghĩa chữ Phật là thế nào!
Chữ “Phật” do tiếng Phạn① là Buddha. Khi đạo Phật truyền sang Trung Hoa, người Trung Hoa phiên âm chữ này là Phù-đồ (浮屠) hay là Phật-đà (佛). ② Về sau, chữ Phật-đà được dùng phổ thông hơn, và theo tiếng độc âm của Trung Hoa mà gọi tắt là Phật (佛).
Chữ Buddha dịch theo nghĩa chữ Hán là “giác giả” (覺者), nghĩa là người tỉnh giác, hiểu biết. Giác giả là người biết rõ đến tận nguồn gốc các sự vật ở trong vũ trụ. Vậy Phật là đấng thánh nhân biết rõ hết thảy các lẽ của tạo hóa và có thể chỉ bảo cho ta giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Các bậc “giác giả” đều là Phật, nhưng đức Phật khai sáng đạo Phật là đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đản sinh ở Ấn Độ. Ngài thuở chưa xuất gia, tên húy là Tất-đạt-đa, ③ họ là Cồ-đàm, ④ con vua Tịnh Phạn, ⑤ tại một xứ ở phía Bắc Ấn Độ⑥ thời bấy giờ. Cứ theo những sách của nhà Phật, thì ngài đã tu đến vô số kiếp rồi mới lên đến bậc Bồ Tát ở trên tầng trời Đâu-suất, giáo hóa các vị thần thánh ở đó. Ngài chờ đến ngày đản sinh và tu một kiếp nữa là thành Phật. Bởi vì theo vũ trụ quan của đạo Phật thì ở trên trời có nhiều tầng, mà các vị thần thánh ở trên vẫn còn trong vòng sinh diệt, chỉ có Phật mới hoàn toàn giải thoát ra khỏi luân hồi.
Ngày mồng tám tháng tư là ngày đức Phật Thích ca đản sinh, vào đời vua Linh vương nhà Chu bên Trung Hoa, vào khoảng hơn 500 năm trước Tây lịch, ⑦ cũng gần như đồng thời với Lão tử và Khổng tử. Khi ngài vừa sinh ra thì có ông tiên đến xem tướng, ⑧ nói ngài có 32 tướng lạ, nếu ngày sau không xuất gia đi tu đạo thì ngài sẽ làm vua cả thiên hạ; nếu ngài đi tu thì thành chánh quả.
Ngài sinh được 7 ngày thì bà mẹ mất, ⑨ bà dì nuôi. Ngài lớn lên đến 10 tuổi, thông minh lạ thường và có sức khỏe tuyệt luân. Vua Tịnh Phạn lập ngài lên làm thái tử và vẫn lo ngài xuất gia đi tu, cho nên vua đặt ra các thứ vui chơi để ngài không nghĩ đến việc đi tu đạo, và cấm không cho ai được để ngài trông thấy điều gì buồn khổ. Năm ngài 17 tuổi thì lấy vợ, về sau lại có con.
Nhưng cái tiền duyên đã định, nhà vua dù muốn giữ gìn thế nào cũng không được, tự nhiên có những cơ hội như giục ngài phải đi tu đạo để thành Phật. Như khi ngài mới 10 tuổi, một hôm theo phụ vương đi xem dân làm ruộng, ⑩ ngài thấy người cày ruộng chân lấm tay bùn, mình mẩy nắng cháy nám đen, mồ hôi tuôn chảy nhọc mệt vô cùng; con trâu con bò thì phải kéo cày rất khổ sở, mũi bị dây xỏ, mình bị roi đánh; chỗ đất cày lên, thì bao nhiêu sâu bọ phơi bày ra, chim chóc trên trời bay xuống tranh nhau mổ nuốt. Ngài thấy cái cảnh khổ của chúng sinh như thế, lấy làm thương xót lắm, bèn bảo những người theo hầu lui ra để ngài ngồi một mình ở gốc cây mà suy nghĩ.
Đến năm 19 tuổi, một hôm ngài đi xe ra ngoài thành về phía cửa đông, thấy một người đầu bạc lưng còng, chống gậy đi ra vẻ nhọc mệt. Ngài hỏi các quan đi theo hầu rằng: “Người ấy sao lại khác với chúng ta?” Các quan thưa vì đó là người già. “Thế nào là già?” Thưa rằng: “Người ấy xưa kia đã từng qua thời thơ dại, sau thành đồng tử, thành thiếu niên, rồi cứ biến đổi mãi, dần dần đến khi hình biến sắc suy, ăn uống không tiêu, khí lực kém hèn, đứng ngồi rất là khổ sở, sống chẳng được bao lâu, cho nên gọi là già.” Lại hỏi: “Có một người ấy như thế, hay là hết thảy ai cũng thế?” Thưa rằng: “Làm người ai cũng thế cả.” Ngài nghe lời ấy, trong lòng khổ não, tự nghĩ rằng: “Năm qua tháng lại, cái già đến nhanh như chớp. Ta dù phú quý cũng không khỏi được.” Bản tính ngài đã không thích cảnh thế tục, nay lại trông thấy sự khổ của loài người, càng thêm buồn bã, bảo quay xe về cung, nghĩ ngợi không vui.
Cách ít lâu ngài đi xe ra chơi ngoài cửa nam, thấy một người có bệnh, bủng beo vàng vọt, đứng ngồi không được, phải có người dìu dắt. Ngài hỏi, thì các quan hầu kể cái khổ về bệnh tật của loài người. Ngài lại buồn bã mà trở về.
Được mấy hôm, ngài đi xe ra chơi ngoài cửa tây, thấy cái xác người chết, có bốn người khiêng, theo sau là những người đầu bù tóc xõa, kêu gào khóc lóc. Ngài hỏi, thì các quan hầu lại kể cái khổ về sự chết. Ngài lại buồn bã mà trở về.
Lần sau cùng ngài đi ra ngoài cửa bắc, gặp một người tu hành, tóc râu cạo sạch, mặc áo nhà tu, một tay bưng bình bát, một tay cầm tích trượng, dáng điệu trang nghiêm, thanh thản, ngài đến gần hỏi là ai. Người ấy đáp rằng: “Ta là tỳ-kheo.” Hỏi: “Thế nào gọi là tỳ-kheo?” Đáp: “Tỳ-kheo là người lìa bỏ cảnh sống thế tục, sống cuộc sống không nhà cầu tìm đạo giải thoát.” Ngài nghe nói cái công đức của người tu hành như thế, liền nói to lên rằng: “Hay thay, hay thay! Ta quyết theo cuộc sống như thế.” Lần ấy ngài vui vẻ mà trở về, và quyết chí xuất gia tìm đạo.
Ấy là do nhân duyên từ trước mà ngài trông thấy những cảnh khổ là cảnh già, cảnh bệnh tật và cảnh chết, và lại trông thấy cảnh tu hành để giải thoát hết thảy những cái khổ ở đời. Nửa đêm ngày mồng bảy, sáng mồng tám tháng hai, trong khi mọi người còn ngủ say cả, ngài sai tên hầu ngựa đóng ngựa cho ngài đi ra phía bắc. Khi ra khỏi cửa thành, ngài phát thệ rằng: “Nếu ta không dứt hết được sự ưu bi, khổ não về sự sinh, lão, bệnh, tử, không được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề, ⑪ thì ta không về qua cửa này nữa.”
Thái tử Tất-đạt-đa bỏ nhà, bỏ nước đi tu, đi về phía núi Tuyết sơn, cắt tóc đổi áo, cho tên hầu ngựa về tạ lỗi với phụ vương, rồi một mình vào rừng đi tìm những bậc tu tiên để hỏi đạo. Vua Tịnh Phạn khi biết thái tử đã xuất gia rồi, sai các quan đại thần đi khuyên ngài về, ngài lập chí nhất quyết không về.
Ngài đi khắp các nơi, học hết các đạo thời bấy giờ, nhưng không có đạo nào giải thoát được sự khổ. Sau ngài cùng với bọn Kiều-trần-như năm người, vào rừng tĩnh tọa mà suy nghĩ để quan sát cái căn nguyên sự khổ của chúng sinh. Ngài tu theo lối khổ hạnh ở chỗ ấy sáu năm, ăn mỗi ngày mấy hạt vừng và mấy hạt gạo, về sau thân thể gầy còm, rất là nhọc mệt. Ngài tự nghĩ rằng: “Ta tu khổ hạnh như thế này mà không thấy đạo, thì cách tu của ta vẫn chưa phải, chi bằng ta phải theo trung đạo, nghĩa là theo con đường giữa, không say mê việc đời và cũng không khắc khổ hại thân, cứ ăn uống như thường, rồi mới thành đạo được.”
Ngài nghĩ thế rồi xuống sông tắm rửa, lại nhân có người đàn bà đi chăn bò đem sữa dâng cho ngài. Ngài dùng sữa rồi, thấy trong người khoan khoái, tỉnh táo lắm. Bọn Kiều-trần-như thấy ngài bỏ khổ hạnh, tưởng ngài đã thoái chí, đều bỏ ngài mà đi tu chỗ khác.
Ngài một mình đi đến chỗ cây Bồ-đề, lấy cỏ làm chiếu mà ngồi, lập nguyện rằng: “Nếu không thành chánh quả, quyết không đứng dậy khỏi gốc cây này.”
Ngài ngồi dưới gốc cây bồ-đề trong suốt 49 ngày đêm, suy nghĩ về cái khổ của chúng sinh. Đến đêm ngày mồng 8 tháng 12 thì ngài hoát nhiên ngộ đạo, thành tối chánh giác, tức là thành Phật. Bấy giờ ngài vừa 35 tuổi và lấy hiệu là Phật Thích-ca Mâu-ni. Trong các kinh sách thường gọi là đức Thế Tôn hay đức Như Lai.
Ta cũng nên tìm hiểu nghĩa hai chữ ngộ đạo. Chữ ngộ dùng về đường tu luyện hay học vấn, là trước hết cần phải đem hết cả tinh thần chú ý vào một điều gì rất lâu ngày, rồi có một lúc bất thình lình ở trong trí não tự nhiên sáng bừng lên, thấy rõ hết các lẽ thật mà xưa nay mình nghĩ ngợi hay là tìm kiếm không thấy. Lúc đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngộ đạo, chính là lúc ngài thấy rõ Tứ thánh đế⑫ và Thập nhị nhân duyên cùng mọi lẽ thật rốt ráo khác, ấy là được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề vậy.
Ngài thành đạo rồi, còn ngồi ở gốc cây 7 ngày nữa, tự nghĩ rằng: “Ta ở chỗ này thấy rõ hết thảy, không sót gì cả, thế là bản nguyện viên mãn rồi. Nhưng pháp này rất sâu, khó hiểu, chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ được mà thôi. Còn như chúng sinh vì tham dục, sân nhuế, ngu si và tà kiến che lấp, thì làm sao hiểu được pháp này? Nếu ta chuyển pháp luân, ⑬ thì e rằng chúng sinh vì mê hoặc nên đã không tin theo lại còn phỉ báng, phải sa vào ác đạo, chịu mọi điều đau khổ. Chi bằng ta cứ im lặng mà vào Niết-bàn.”
Lúc ấy Đại Phạm-thiên⑭ và Đế-thích⑮ ở trên cõi trời thấy ngài đã thành chánh quả, mà cứ ngồi yên không chuyển pháp luân, trong lòng lo buồn, liền xuống bạch Phật rằng: “Thế Tôn ngày xưa vì chúng sinh ở chỗ sanh tử, bỏ đi tu hành, chịu mọi điều khổ để rộng tu đức bản, đến nay thành được vô thượng đạo, sao ngài lại không đi thuyết pháp? Chúng sinh cực khổ ở chỗ tối tăm, đắm đuối trong vòng sanh tử, vậy xin Thế Tôn vì chúng sinh mà lấy sức đại tự tại⑯ chuyển diệu pháp luân.” ⑰ Đế-thích cũng kêu nài, Phật mới thuận đi thuyết pháp.
Song ngài còn nghĩ nên đi thuyết pháp ở đâu trước. Ngài nghĩ đến bọn Kiều-trần-như năm người trước đã theo ngài tu luyện rất cần khổ, ngài bèn đi đến độ cho những người ấy. Nhưng năm người ấy thấy ngài đến, bảo nhau rằng: “Người kia trước đã bỏ khổ hạnh, chạy theo cái vui thích của sự ăn uống, chắc là không có tâm cầu đạo. Nay lại đến đây, chúng ta đừng đứng dậy nghênh tiếp.” Năm người ấy bảo nhau như thế, rồi cứ ngồi yên, nhưng khi Phật đến nơi, năm người trông thấy Phật, thần thái trang nghiêm, bất giác đều đứng cả dậy làm lễ chào mừng.
Phật đem Tứ thánh đế mà thuyết pháp cho bọn Kiều-trần-như nghe. Chữ đế (諦) có nghĩa là lời dạy chân thật, chân lý. Tứ thánh đế (四聖諦) là bốn lời dạy chân thật và thiêng liêng. Đại lược ngài nói rằng: “Khổ⑱ phải nên biết, Tập⑲ phải nên dứt, Diệt⑳ phải nên chứng, Đạo㉑ phải nên tu.” Hễ đã biết được khổ, đã đoạn được tập, đã chứng được diệt, đã tu được đạo, thì được Tam-miệu Tam-Bồ-đề. ㉒ Biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo là bốn thánh đế. Hễ ai không biết bốn diệu pháp ấy thì không sao giải thoát được. Bởi vì bốn thánh đế ấy là thật, là chân: Khổ là thật có khổ, tập là thật có tập, diệt là thật có diệt, đạo là thật có đạo.
Bọn Kiều-trần-như nghe lời thuyết pháp ấy đều xa bỏ trần cấu, được Pháp nhãn tịnh, ㉓ bèn quy y Phật Pháp mà tu đạo, cắt tóc, mặc áo cà sa, thành năm vị sa-môn đầu tiên. Từ đó ở thế gian có đủ Tam bảo: Phật là Phật bảo, Tứ thánh đế pháp luân là Pháp bảo, năm người sa-môn đầu tiên ấy là Tăng bảo.
Phật cùng năm vị sa-môn đi thuyết pháp các nơi, lấy đạo từ bi mà độ chúng sinh. Tín đồ ngày càng nhiều, Tăng hội mỗi ngày một thêm. Phật đặt ra quy tắc, chuẩn định mọi việc, tức là Giới luật. Lúc ấy lại có các bậc vua chúa cùng các nhà quyền quý ngoại hộ, cho nên đạo Phật truyền bá rất nhanh chóng và rộng khắp.
Phật không phân đẳng cấp gì cả, bất cứ sang hèn, nghèo giàu, ai có lòng mộ đạo là Phật độ hết. Tất cả đệ tử của Phật được chia làm bốn chúng (Tứ chúng). Tỳ-kheo㉔ là những người đàn ông xuất gia tu hành và tỳ-kheo ni là những người đàn bà xuất gia tu hành. Tỳ-kheo và tỳ-kheo ni lập thành các Tăng hội. Mỗi Tăng hội có nhà tinh xá để các vị định cư trong 3 tháng mùa mưa, gọi là mùa an cư kiết hạ. Còn những tháng khác trong năm, các vị thường du phương đây đó để vừa khất thực độ nhật vừa giáo hóa chúng sinh. Đó gọi là hai chúng xuất gia.
Ngoài ra, những người nghe Phật thuyết pháp rồi tin làm theo nhưng không xuất gia, vẫn sống đời sống thế tục với đơn giản nhưng có lòng tu đạo, được gọi chung là cư sĩ. Trong số này, đàn ông gọi là ưu-bà-tắc, ㉕ tức cư sĩ nam, đàn bà gọi là ưu-bà-di, ㉖ tức cư sĩ nữ. Đó gọi là hai chúng tại gia.
Phật đi thuyết pháp khắp nơi, khi thì ở thành Xá-vệ, ㉗ khi thì ở thành Vương Xá, ㉘ khi thì ở Ba-la-nại. ㉙ Ngài thành đạo được sáu năm thì về Ca-tỳ-la㉚ là quê nhà để độ cho phụ vương Tịnh Phạn và các thân thuộc. Về sau thì ngài hay đi lại ở thành Xá-vệ, ở tinh xá Trúc Viên㉛ và núi Linh Thứu. ㉜ Lệ cứ đến mùa mưa thì ở yên một chỗ ㉝ sang mùa nắng ráo thì lại đi thuyết pháp trong vùng trung lưu sông Hằng. ㉞ Ngài đi thuyết pháp như thế trong 45 năm. Đến năm ngài đã ngoài 80 tuổi, ngài đi đến chỗ có hai cây sa-la, gần thành Câu-thi-na, ㉟ ở lại đó rồi diệt độ, nhập Niết-bàn. Phật nhập Niết-bàn nhưng Tam bảo vẫn còn ở đời để độ chúng sinh.
Các đệ tử của Phật đi khắp mọi nơi để truyền bá đạo Phật, dần dần đạo ấy lan rộng ra khắp các nước ở Á Đông.
Về sau đạo Phật chia ra nhiều tông phái, nhưng nhìn chung thì có hai phái lớn là Phật giáo Tiểu thừa㊱ và Phật giáo Đại thừa. ㊲
Chữ thừa (乘) có nghĩa là cỗ xe, ý nói giáo pháp là cỗ xe chở người ra khỏi luân hồi. Tiểu thừa là cỗ xe nhỏ, lấy nghĩa: ai tu đạo thì tự độ lấy mình, và tu theo Thanh văn chứng đến bậc A-la-hán hay Duyên giác là cùng. Đại thừa là cỗ xe lớn, lấy nghĩa: người tu đạo không những là để độ mình mà còn độ muôn chúng sinh, và tu chứng đến bậc Bồ Tát, ㊳ Phật.
Trong phái Đại thừa, các vị Bồ Tát tu tập theo tôn chỉ tự giác giác tha, nghĩa là không chỉ làm cho mình sáng suốt mà còn để làm sáng suốt cho người khác. Cho nên các vị Bồ Tát đều phát tâm Bồ-đề để tế độ chúng sinh.
Đó là nói tóm tắt lịch sử của Phật tổ và hai tông phái lớn trong Phật giáo, để sau sẽ bàn cho tường tận. Còn như đạo lý của Phật giáo thì rộng lắm, không thể nói hết được. Đây ta chỉ nói về mấy điều căn bản của đạo Phật và xét xem những điều ấy đem ứng dụng ở đời thì ích lợi như thế nào.
Đạo Phật cho việc đời là khổ và chú trọng tìm sự giải thoát khỏi cái khổ. Bởi vậy, đức Phật dạy các pháp Tứ thánh đế và Thập nhị nhân duyên.
Tứ thánh đế là Khổ thánh đế, Tập thánh đế, Diệt thánh đế và Đạo thánh đế. Khổ là sự hiển nhiên ai cũng biết là có. Tập là lấy Thập nhị nhân duyên mà tìm cái căn nguyên do đâu mà kết tập thành khổ. Diệt là dựa theo Thập nhị nhân duyên mà dứt dần từ ngọn cho đến cội rễ cái khổ. Đạo là những con đường ta phải đi để giải thoát được cái khổ. Ấy là những điều rất trọng yếu trong đạo Phật. Vậy ta thử xét xem thế nào là khổ, tập, diệt, đạo.
A. Khổ:
Xét trong đời người, sinh ra là khổ, có bệnh tật là khổ, già yếu là khổ, chết là khổ (tức là sinh lão bệnh tử khổ), oán ghét không ưa mà phải gặp nhau là khổ (oán tắng hội khổ), yêu thương mà phải xa lìa nhau là khổ (ái biệt ly khổ), mong muốn mà không được là khổ (cầu bất đắc khổ), mất cái vinh lạc là khổ, đa mang phiền não, năm ấm tan hợp là khổ (ngũ ấm xí thạnh khổ). Cái khổ ở đời thật là rõ rệt lắm, không ai có thể nói là không khổ.
B. Tập:
Tập là tụ họp lại và kết tập mà thành ra. Vậy do những cái gì tụ họp lại mà thành ra khổ? Đức Thế Tôn lấy Thập nhị nhân duyên mà giải cái nghĩa chữ tập. Ngài cho là khổ gốc ở vô minh. Vô minh là cái mơ màng, mờ tối, nó che lấp cái sáng tỏ bản nhiên. Từ vô minh đến già, chết, tất cả có mười hai đoạn. Đoạn này do cái duyên mà thành quả của đoạn kia, rồi quả ấy lại do cái duyên mà làm nhân cho đoạn sau nữa, cho nên gọi là nhân duyên. Nhân là mầm, duyên là dây leo. Bởi mười hai nhân duyên ấy mà chúng sinh cứ sinh sinh hóa hóa mãi, sinh ra rồi lại chết đi, chết đi rồi lại sinh ra, hết kiếp này đến kiếp khác, giống như nước bể, vì sức gió, vì cái lực bên ngoài mà thành có sóng. Sóng nhô lên rồi lại lặn xuống, lặn xuống rồi lại nhô lên, không bao giờ ngừng nghỉ.
Mười hai nhân duyên ấy là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh và lão tử.
-
1. Vô minh là sự mông muội, mờ tối từ lúc vô thỉ. Do vô minh mà có hành. Như vậy, vô minh làm nhân cho hành.
2. Hành là tưởng nghĩ mà hành động tạo tác, thì thành ra cái nghiệp, tức là cái nếp, cái tập khí. Bởi cái nghiệp mà hành động tạo tác mãi. Do hành mà có thức. Như vậy, hành là quả của vô minh và lại làm nhân cho thức.
3. Thức là ý thức, là nhận biết, như biết ta là ta, biết ta là một vật hành động tạo tác được. Do thức mà có danh sắc. Như vậy, thức là quả của hành và lại làm nhân cho danh sắc.
4. Danh sắc là tên gọi và hình sắc. Ta đã biết ta là riêng một vật, thì phải có tên gọi, có hình sắc của ta. Do danh sắc mà có lục xứ. Như vậy, danh sắc là quả của thức và lại làm nhân cho lục xứ.
5. Lục xứ hay lục nhập là sáu chỗ tiếp xúc với ngoại cảnh, tức là sáu giác quan. Ta thường chỉ nói có ngũ quan là: tai, mắt, mũi, lưỡi, thân mà thôi. Đạo Phật chỉ thêm một giác quan nữa là ý, tức là sự suy nghĩ của mình. Đã có tên, có hình là có lục xứ để giao tiếp với ngoại vật. Do lục xứ mà có xúc. Như vậy, lục xứ là quả của danh sắc và lại làm nhân cho xúc.
6. Xúc là sự tiếp xúc. Bởi có lục xứ là tai, mắt... nên ta tiếp xúc được với những thanh âm, hình sắc... của ngoại vật. Do xúc mà có thụ. Như vậy, xúc là quả của lục xứ và lại làm nhân cho thụ.
7. Thụ là cảm thụ, nhận chịu, lĩnh nạp cái ảnh hưởng, cái thế lực, hoặc cái thanh âm, hình sắc của ngoại vật vào mình. Do thụ mà có ái. Như vậy, thụ là quả của xúc và lại làm nhân cho ái.
8. Ái là khát vọng yêu thích, mong muốn, tức là lòng tư dục. Do ái mà có thủ. Như vậy, ái là quả của thụ và lại làm nhân cho thủ.
9. Thủ là nắm lấy, giữ lấy, quyến luyến những sự nó làm cho ta sống. Dẫu ta biết sống là khổ, nhưng vẫn không bỏ những cái ta muốn lấy để sống, cứ theo đuổi để lấy cho được. Do thủ mà có hữu. Như vậy, thủ là quả của ái và lại làm nhân cho hữu.
10. Hữu là sở hữu, là có, như có cái ta, có sự sống ở trong thế gian. Bởi ta ham muốn những cái nó làm cho ta sống, cho ta thích, như là: ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức). Vì có ngũ uẩn ấy cho nên ta mới có trần dục, nó gây thành cái lậu nghiệp. Do hữu mà có sinh. Như vậy, hữu là quả của thủ và lại làm nhân cho sinh.
11. Sinh là sinh ra ở thế gian, hoặc ở cõi trời, hoặc làm người, làm quỷ, làm súc sinh... Do sinh mà có lão tử. Như vậy, sinh là quả của hữu và lại làm nhân cho lão tử.
12. Lão tử là già và chết. Đã sinh ra là phải già và chết. Nhưng sinh với tử là hai thể như sáng với tối, sấp với ngửa vậy. Sống với chết cứ luân chuyển thay đổi nhau. Chết là thể phách, còn là tinh anh. Cái tinh anh lìa bỏ cái xác đã chết, nhưng vẫn lẩn quẩn ở trong vô minh, cho nên lại mang cái nghiệp mà lưu chuyển chìm nổi ở trong Tam giới và lục đạo, tức là cứ luân hồi ở trong thế gian. Bởi vì đạo Phật gọi thế gian là gọi gồm cả Tam giới và lục đạo. Tam giới là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới; lục đạo là cõi trời, cõi người, a-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Hễ còn luân hồi là còn khổ.
-
Như vậy tập họp cả mười hai nhân duyên lại, kết thành cái dây trói buộc người ta ở trong bể khổ, cho nên gọi là tập.
C. Diệt:
Diệt là dứt bỏ đi. Ta đã thấy rõ cái căn nguyên của sự khổ, thấy rõ cái nhân và cái quả của sự khổ, thì ta cứ lần lượt dứt bỏ hết các nhân quả ấy. Vậy ta lại lấy Thập nhị nhân duyên mà tính ngược lên từ số 12 lên đến số một. Ta muốn không có già có chết, thì ta phải dứt bỏ cái nhân nó làm cho ta sinh ra ở thế gian. Muốn không phải sinh ra ở thế gian, thì phải dứt bỏ cái nhân hữu, rồi đến cái nhân thủ, nhân ái v.v... Cứ thế mãi cho đến cái nhân hành. Dứt được cái nhân hành thì cái vô minh phải mất. Vô minh đã mất thì tựa như mặt trời sáng rõ ra, đánh tan cả sương mù, thì ta ra khỏi đám mờ tối nó làm cho ta lăn lộn ở chỗ khổ. Ta đã thấy rõ cái sáng, đã ra khỏi vô minh, thì ta đứng vào chỗ yên lặng vui vẻ, như đứng trên tòa sen ở Cực Lạc, mà không phải luân hồi trong cuộc sinh tử nữa. Ấy là ta được giải thoát.
Vậy tính theo Tập đế, từ vô minh trở xuống đến lão tử, thì thấy có cái khổ hiển nhiên, rất là chán nản. Nhưng tính theo diệt đế, từ lão tử lên đến vô minh, tức là dứt được cái căn nguyên của sự khổ, ra được ngoài luân hồi, thì thật là sung sướng. Bởi thế cho nên đạo Phật vốn gốc ở sự thấy rõ cái khổ, cho thế gian là bể khổ, ấy là cái quan niệm tưởng như rất bi quan, rất yếm thế. Đến khi tìm được cái đạo giải thoát, thì lại thành ra cái quan niệm rất lạc quan, rất vui về việc cứu đời. Cũng vì thế mà những bậc đã thành chánh quả bao giờ cũng có vẻ yên tĩnh, thanh thản lắm. Trông ngay nơi các pho tượng Phật và Bồ Tát, nét mặt thản nhiên không có vẻ gì lo sầu hết cả, thật là cái thái độ lạc quan lạ thường.
D. Đạo:
Đạo là con đường phải theo để được giải thoát. Bởi vì có theo con đường ấy thì mới phá được cái khổ. Đức Phật vẫn dạy rằng phải lấy trí tuệ sáng suốt mà phá sự mê muội. Nhưng muốn có được trí tuệ sáng suốt thì phải có sự thực hành mạnh mẽ, mới phá nổi những nguồn gốc của sự khổ. Sự thực hành ấy có tám con đường chánh gọi là Bát chánh đạo, tức là tám con đường để tu cho thành chánh quả.
Tám con đường ấy là:
-
1. Chánh kiến: Chánh kiến là thấy rõ, biết rõ chân lý, không để cái tà kiến che lấp sự sáng suốt của mình, khiến cho sự tin tưởng của mình không sai lầm.
2. Chánh tư duy: Chánh tư duy là lập chí theo chân lý mà suy nghĩ cho đến chỗ giác ngộ được đạo chánh.
3. Chánh ngữ: Chánh ngữ là nói những điều đúng chân lý, không nói những điều gian tà, giả dối.
4. Chánh nghiệp: Chánh nghiệp là làm những việc ngay chánh công bình, không làm những việc tàn bạo gian ác.
5. Chánh mạng: Chánh mạng là sống theo con đường công chánh, không tham lam lợi lộc mà bỏ những điều nhân nghĩa.
6. Chánh tinh tấn: Chánh tinh tấn là cố gắng học tập tu luyện cho tới đến đạo, giữ tâm trí cho ngay chánh sáng suốt, đừng để những điều tham, sân, si, và những tà kiến, vọng tưởng làm cho ta đi lầm đường lạc lối.
7. Chánh niệm: Chánh niệm là đem ý niệm của mình chú vào đạo lý chân chính, không tưởng nhớ đến những điều bạo ngược, gian ác.
8. Chánh định: Chánh định là định cái tâm trí của mình vào đạo lý chân chính, không để cái gì lay chuyển được. Tức là thu cái tâm trí vào đạo, không để tán loạn ra điều khác.
-
Vậy theo tám con đường chánh ấy là mình tự trị lấy mình, tự giác ngộ lấy mình, để đưa mình đến Niết-bàn.
Đó là mấy điều rất trọng yếu trong đạo lý của Phật. Xét trong cái thuyết Thập nhị nhân duyên có hai cái nhân duyên rất hệ trọng là hành và ái, ta cần phải biết rõ, thì mới hiểu được sự báo ứng và cái luân lý của đạo Phật.
Hành là dịch theo nghĩa tiếng Phạn “samskāra”. Tiếng ấy có nghĩa là hành động tạo tác hay là xếp đặt, sửa soạn, kết cấu. Hễ đã có sự hành động tạo tác tất là thành ra có cái nếp, cái vết; rồi cứ theo cái nếp, cái vết ấy mà sinh hóa mãi. Chữ hành của đạo Phật nói rộng ra là bao quát cả vạn vật trong vũ trụ. Nhưng đây hãy nói riêng về người cho dễ hiểu.
Ta sống đời này đây, nhưng ta đã sống kiếp trước rồi. Do kiếp trước của ta mà ta có kiếp này. Bởi vì theo cái thuyết luân hồi, thì người ta sống hết kiếp này, lại sanh ra ở kiếp khác. Mỗi một kiếp của ta là đeo theo cái nghiệp ta đã gây ra khi ta sống ở kiếp trước. Bao nhiêu những sự hành động tạo tác của ta đều gây thành nghiệp.
Nghiệp có ba thứ: thân nghiệp, tức là cái nghiệp do sự hành động của thân thể mà thành; khẩu nghiệp, tức là cái nghiệp do lời nói mà thành; ý nghiệp, tức là cái nghiệp do ý niệm tư tưởng mà thành. Sự suy nghĩ của ta tuy chưa hiện ra việc làm, nhưng vẫn gây thành nghiệp. Bởi thế đức Phật dạy: “Nhất niệm khởi, thiện ác dĩ phân.” ㊴ Ta sinh ra kiếp này, ta mang theo cái nghiệp kiếp trước, để lãnh chịu cho hết cái nghiệp ấy. Song cái nghiệp ấy hết, thì cái nghiệp khác lại hình thành rồi. Bởi vì có sống là có hành động tạo tác; có hành động tạo tác là gây ra nghiệp, lại đeo bám theo ta để khiến ta phải đi vào con đường mà sự hành động tạo tác ấy đã tạo quen thành lối.
Cái nghiệp do hành mà thành ra đó, tiếng Phạn gọi là “karma”, Hán dịch là lậu nghiệp, nghiệp báo hay là nghiệp, nói nôm na thì đó là một thứ nợ tiền kiếp. Cái nghiệp ấy là một cái công lệ chung của tạo hóa. Vạn vật không có vật nào tránh khỏi, dù là thần thánh cũng vậy. Chỉ khi nào thành Phật rồi, đã phá được vô minh, thì cái nghiệp ấy không có mầm mà sinh nảy ra được nữa, là tự nó phải hết. Còn các vật ở trong vô minh, thì vật nào cũng có nghiệp. Người làm điều lành, điều tốt thì có cái nghiệp tốt để báo ứng cho điều lành, điều tốt; người làm điều ác, điều xấu thì có cái nghiệp xấu để báo ứng cho điều ác, điều xấu. Xấu hay tốt, dữ hay lành đều là tự mình làm ra, rồi tự mình được hưởng hay phải nhận chịu lấy, chứ không có thần thánh hay ông trời nào có thể giúp mình tránh được cái nghiệp chính mình đã gây ra. Như thế, nghiệp là cái đạo báo ứng tự nhiên chí công. Bởi thế có câu rằng:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. ㊵
Người nói câu ấy thật đã hiểu rõ đạo Phật lắm.
Ở đời, ta thấy có người rất tàn ác, mà lại được hưởng mọi điều phú quý, có người rất từ thiện mà phải chịu mọi điều cực khổ, đến nỗi rằng ta ngờ là không có nhân quả gì cả, hoặc là nhân quả rất không công bằng. Đó là vì ta không biết rằng họa hay phúc đều tự ta gây ra; mà ta đã gây ra, thì ta phải tự nhận chịu. Người kia tàn ác mà hưởng phú quý là vì kiếp trước đã tạo cái nghiệp tốt, bây giờ được hưởng cho hết cái nghiệp ấy. Việc tàn ác bây giờ thành ra cái nghiệp về sau, thì rồi sau mới phải chịu. Người nọ từ thiện mà phải cực khổ, là chính mình phải chịu cái nghiệp xấu đã gây ra khi trước; còn việc làm từ thiện bây giờ lại gây ra cái nghiệp tốt, nhưng phải để cho hết cái nghiệp xấu trước đã, rồi mới được hưởng cái nghiệp tốt này.
Tôi tưởng người nào đã hiểu cái lẽ báo ứng ấy thì dẫu khổ sở thế nào cũng không chán nản, là vì ta phải trả cái nợ của ta đã mắc khi trước. Trong khi trả nợ ấy, ta chỉ phải lo làm thế nào cho kiếp sau được nhẹ nợ. Như thế là người ta sinh ra ở đời tuy phải chìm nổi ở trong bể khổ, nhưng vẫn hoàn toàn tự do trong việc tự tạo ra những sự họa phúc cho chính mình.
Cái tự do ấy còn có cái nghĩa rộng hơn nữa là không những chỉ gây lấy họa phúc trong bể khổ mà thôi, còn có thể cho ta thoát khỏi ra ngoài bể khổ. Nếu ta biết tu đạo để phá được vô minh che lấp, thì ta sẽ được thảnh thơi ở ngoài tạo hóa và tiêu dao ở nơi bất sinh bất diệt, tức là cõi Niết-bàn vậy.
Trong những cái vòng dây nó thắt chặt ta vào cái nghiệp, có cái vòng ái là thắt chặt hơn cả. Đây ta phải hiểu chữ ái cũng như chữ nghiệp, đều mang nghĩa khác với chữ nghiệp và chữ ái dùng trong sách Nho. Ở trong sách nhà Phật, thì nghiệp là lậu nghiệp, là nghiệp báo; còn ái là sự yêu thích mong muốn tài sắc danh lợi, tức là cái tư dục của người ta. Khi ta đã có lòng yêu thích mong muốn ấy, thì ta cố lăn lộn vào những chỗ để được thỏa cái ý muốn của ta. Ta đã lăn lộn vào chỗ ấy, tất là sự hành động của ta lại gây ra cái nghiệp tương đương nó trói buộc ta vào vòng sinh tử. Ta càng hành động theo cái tư dục bao nhiêu, cái nghiệp của ta lại nặng nề về đường tư dục bấy nhiêu. Bởi thế cho nên đạo Phật rất chú ý ở chỗ dứt ái. Đã dứt được ái, thì các khúc dây khác đều tự khắc lỏng ra, mà rồi đến cái hành cũng mất cái sức mạnh về đường gây ra nghiệp. Cái hành đã mất cái sức mạnh ấy, thì cái nghiệp cũng nhẹ dần. Vì hành mà không theo tư dục thì nghiệp dẫu có cũng là nhẹ và tốt. Thành thử lâu dần ta phá được vô minh. Vô minh đã phá thì cái sáng tỏ chân thật tự nhiên hiển hiện ra. Cái sáng tỏ chân thật ấy là mục đích lớn của đạo Phật. Có cái sáng tỏ ấy thì mới qua được bến mê, vượt được bể khổ.
Đạo lý của Phật giáo nói rộng ra về đường triết lý còn có những thuyết như duy thức, chân như, thái hư, pháp thân v.v... nhưng thuyết nào cũng chú trọng ở sự cầu được giải thoát ra khỏi cái khổ. Cho nên cái phương pháp thực hành là cốt ở ngũ giới và lục độ, bao quát cả hai phương diện hướng nội và hướng ngoại.
Hướng nội là chú trọng vào sự tự mình ngăn phòng những điều xấu ác, gây tổn hại cho mình và cho người khác; hướng ngoại là chú trọng vào sự thực hành, làm những điều từ thiện, ích lợi cho mình và cho người khác.
Làm những điều hướng nội thì có ngũ giới, tức là năm điều răn:
-
1. Bất sát: nghĩa là không giết hại. Không giết hại nghĩa là để cho mọi vật đều được sống trọn vẹn cái số kiếp của nó.
2. Bất đạo: nghĩa là không trộm cướp, tức là không làm điều phi nghĩa mà lấy của người khác.
3. Bất tà dâm: nghĩa là không gian dâm, chỉ quan hệ chính đáng một vợ một chồng. Không gian dâm thì sự giao thiệp ở đời không có những điều trắc trở để đến nỗi lắm khi gây ra những điều đắng cay chua xót.
4. Bất vọng ngữ: nghĩa là không nói dối, không bịa đặt ra điều nọ chuyện kia sai sự thật, không vu oan giá họa cho ai.
5. Bất ẩm tửu: nghĩa là không uống rượu. Không uống rượu, vì rượu chè say sưa thì loạn mất trí khôn, không giữ được tinh thần sáng suốt, thành ra lắm khi vì say sưa mà làm lắm sự tai hại.
-
Năm điều răn ấy chỉ cốt để ngăn giữ cái ái, tức là cái tư dục của mình, để không xảy ra những việc có thể làm tổn hại cho kẻ khác và có thể gây thành cái nghiệp xấu cho mình. Song năm điều ấy không giúp ta tích lũy công đức. Muốn tích lũy công đức ngày càng sâu dày thêm, thì ta phải thực hành những điều tích cực như lục độ, tức là sáu phép tu để đưa ta ra khỏi bến mê.
-
1. Bố thí: Bố thí là đem công, đem của mà cứu giúp người. Bố thí có hai loại: một là tài thí, là đem tiền của cơm gạo mà cứu giúp người ta trong lúc đói khổ. Sự bố thí ấy thì tùy sức mà làm, miễn là tự mình bỏ được lòng tham lận mà sẵn sàng giúp cho người khác được vui vẻ. Hai là pháp thí, là đem tài trí của mình mà thuyết phục, hướng dẫn người khác làm điều lành, điều phải, hoặc lấy cái lòng thanh tịnh ngay chính mà mở rộng con đường trí tuệ cho người khác. Người làm những việc pháp thí là vì lòng từ bi bác ái mà làm, chứ không có ý muốn khoe khoang, cầu danh cầu lợi.
2. Trì giới: là giữ vững các điều răn để ngăn những việc ác, cốt nhất là ngăn những điều ác do ở thân, miệng và ý của mình mà ra.
3. Nhẫn nhục: Nhẫn nhục là pháp đối trị sự tức giận nóng nảy. Nhẫn nhục có hai loại: một là sinh nhẫn, là chịu nhẫn về sự sống ở đời, không có trễ nải lười biếng, không vì tức giận mà chửi mắng, đánh đập, hoặc là thù oán người khác. Hai là pháp nhẫn, là khi mình phải chịu sự lo buồn trong tâm trí nhưng vẫn cứ yên cứ nhẫn, không lấy điều ấy làm oán giận lo phiền.
4. Tinh tấn: Tinh tấn là sự nỗ lực, cố gắng hết sức mà làm điều lành điều phải. Tinh tấn cũng có hai loại: một là thân tinh tấn, là thân mình chịu khó nhọc để chăm lo làm điều thiện. Hai là tâm tinh tấn, là cái lòng làm điều thiện lâu thế nào cũng không chán nản, khó thế nào cũng không thoái chí.
5. Thiền định: Thiền định nghĩa là tĩnh lự, tức là chuyên tâm nhiếp niệm, tập chú vào một điều gì, không tán loạn chạy theo những điều khác.
6. Bát-nhã: Bát-nhã là do chữ Phạn Prājnā, Hán dịch là trí tuệ, soi rõ hết thảy trong thế gian và thông đạt hết thảy các lẽ.
-
Những pháp tu của đạo Phật thì rất nhiều, rất rộng, nhưng đại khái đều cốt yếu dựa trên ngũ giới và lục độ. Ngũ giới là bước đầu thúc liễm thân tâm của người tu tập, dù là xuất gia hay tại gia. Người muốn tu tập thì trước hết phải thọ giới. Ai không thọ giới thì không thể dựa vào đâu để bắt đầu sự tu tập.
Còn lục độ là các pháp tu tập dành cho tất cả mọi người, từ người mới bắt đầu bước vào cửa Phật cho đến những bậc tu hành đã đắc đạo. Những bậc Bồ Tát khi đã tu được hoàn toàn nhân lục độ, thì được quả Niết-bàn.
Đó là những khuôn phép của người tu hành theo đạo Phật. Nếu như chân chánh tu hành theo đúng như thế, cũng phải trải qua biết bao nhiêu kiếp mới lên đến bậc Bồ Tát, huống chi người thường đã dễ đâu thành thánh, thành Phật ngay được! Song nếu đem những điều ấy ra ứng dụng ở đời, thì dẫu chưa dám mong được giải thoát ra khỏi luân hồi, nhưng ta cũng có thể tạo được cái nghiệp tốt cho ta và làm cho người khác giảm nhẹ biết bao khổ não. Vậy lấy một mặt nhân sinh mà suy, thì những điều ấy thật là một cái nền luân lý rất hay cho xã hội.
Hãy xem như ngũ giới thì bất kỳ ở vào thời đại nào hay xã hội nào cũng phải có một cái luân lý, mà không có luân lý nào lại không ngăn cấm sự tàn ác giết hại, sự trộm cướp và sự gian dâm giả dối cùng sự say mê cuồng dại.
Ấy là nói về đường tự tu tỉnh lấy; còn về cách giúp người, thì phép tu lục độ đã là đủ lắm. Thí dụ như bố thí, dù là tài thí hay là pháp thí, đều là những việc rất cần ở trong xã hội. Có tài thí thì mới có người bỏ tiền của ra mà làm việc phúc đức này, lập hội thiện kia; có pháp thí thì mới có những người đem cái học thức của mình mà truyền bá ra, để mọi người đều biết mà hưởng được những sự ích lợi.
Nhẫn nhục hay tinh tấn cũng vậy, nếu không có những đức ấy, thì bao nhiêu công việc khó khăn to lớn đều không sao làm được. Người nào đối với bên ngoài không có nhẫn nhục và đối với tự tâm không có tinh tấn, đều là người làm hỏng việc cả.
Ấy là nói đại lược những cái đức tính của người thường cần phải có, thì mới thành người hay, người tốt. Còn như những người đã chân thật tu hành theo phép nhà Phật, tất phải là người có tính khí rất cương kiện và có tư cách rất đặc biệt thì mới có thể thấy được đạo.
Xem đạo lý và phương pháp thực hành của Phật giáo như đã bàn trên, thì đạo Phật trước sau cầu lấy cái trí hiểu biết mà phá sự mê mờ. Về đường luân lý thực tiễn, thì lấy cái sức mạnh tự do của mình mà giải thoát lấy chính mình.
Phật là bậc đại giác đã được cái trí tuệ sáng suốt chân thật rồi, bảo đường chỉ nẻo cho chúng sinh để ra khỏi chỗ mù mịt tối tăm. Phật cứu độ chúng sinh cũng giống như người khỏe mạnh thấy những kẻ già yếu ốm đau, đi một mình không được, thì dắt cho mà đi; hoặc như người lái thuyền thấy có đám người đang đắm đuối ở chỗ sóng gió, liền ghé thuyền lại cứu vớt để chở sang bến yên ổn. Song tự mình có muốn đi tới nơi, thì mình phải cố gắng mà đi, rồi người khác mới dắt được mình đi, hoặc tự mình có muốn đến chỗ yên ổn, thì mình phải cố sức bơi lên, rồi người khác mới vớt được mình lên thuyền.
Đạo Phật không phải là chỉ để ai có lễ bái cầu nguyện thì Phật mới độ, mà ai không lễ bái cầu nguyện thì Phật bỏ. Người lễ bái cầu nguyện suốt đời mà cứ theo tư dục làm điều tàn ác, thì dầu Phật là bậc có thần thông quảng đại, nhưng người ấy không biết tu tỉnh mà bỏ điều ác, làm điều lành, thì Phật cũng không sao cứu độ được!
Ta lễ bái cầu nguyện là để trong lòng được an ổn, tựa như người mắc nạn mà biết có người sắp đến cứu, thì cái sức mạnh của mình có thể tăng lên bội phần mà chống với nạn khổ. Chứ nếu tự để mình chìm đắm đi mà lại mong Phật cứu thì cứu làm sao được!
Vậy theo đạo Phật là tự cái tâm mình phấn chấn lên mà làm điều lành điều phải, tự mình có sức mạnh để phá cho hết những cái nó trói buộc mình vào chỗ khổ. Bởi thế người chân chánh theo đạo Phật là người có cái tâm lực rất cương kiện, lòng dạ vững bền như gang như sắt. Cũng vì thế mà đạo Phật thường hay dùng bốn chữ dũng mãnh tinh tấn. Dũng mãnh tinh tấn để giải thoát. Dũng mãnh tinh tấn để cứu người. Dũng mãnh tinh tấn để phá cái mê, trừ cái hại. Người ta đã có cái đức dũng mãnh tinh tấn thì không bao giờ chịu đứng lùi lại mà thua kém người khác, không bao giờ lười biếng, trễ nải, không bao giờ ham mê vật dục, có thể giam hãm mình vào những nơi tối tăm dơ bẩn.
Cũng bởi có cái đức dũng mãnh tinh tấn ấy, cho nên đức Bồ Tát Quán Thế Âm vì lòng từ bi mà phát thệ rằng: “Hễ ở trần gian mà còn có cái khổ, thì dầu phải đợi đến mấy muôn kiếp nữa, ta cũng ở lại mà cứu giúp chúng sinh chứ không vào Niết-bàn thành Phật. Bất kỳ ở đâu mà có con ruồi con bọ phải khổ là có ta ở đó.” Từ bi thay cái lòng cứu thế của đức Quán Âm! Ta chịu cực khổ ở chốn bụi trần này, mà nghe lời từ bi ấy, tựa như đang bị cơn lửa hồng nung nấu, được ngọn gió mát quạt vào người; tựa như đang đau đớn, được giọt nước cam lộ nhỏ vào chỗ đau, khiến ta lại hăng hái mà vật lộn với đời để ra khỏi chỗ đau, chỗ khổ.
Đạo Phật về đường tinh thần thì mạnh mẽ như thế, về đường từ bi thì rộng rãi bao la như thế. Giá như người đời hiểu được rõ và biết đúng thì rất có lợi cho sự tiến thủ. Đạo ấy có thể rèn luyện nên nhiều đức tính: như là đối với người với vật thì có lòng nhân từ, đối với công việc làm thì rất chuyên cần mạnh mẽ, đối với tư tưởng thì rất sáng suốt, đối với sự tín ngưỡng thì không mê muội, đối với cuộc đời thì rất trọng sự hòa bình.
Đối với toàn thể cuộc nhân sinh, đạo Phật lại có cái thần lực rất linh diệu là làm cho người ta vơi được bao nhiêu những nỗi khổ não trong lòng. Là vì người ta sinh ra ở đời, lẽ tất nhiên là phải vật lộn với đời, mà đã vật lộn với đời tất là phải mắc vào vòng tình dục, nó làm cho ta hôn mê đi, tưởng danh là thật danh, lợi là thật lợi. Ngờ đâu danh với lợi ở đời đều là những cái ảo ảnh làm mồi nhử ta vào đống lửa hồng mà hun đốt ta mãi. Nhờ có đạo Phật làm cho ta tỉnh ra, thấy rõ cái thật, cái giả, thì dù ta có hăng hái mà làm việc đời để trả nợ đời, ta cũng không say đắm ở những sự hư vọng nó ràng buộc ta, mà lúc nào ta cũng ung dung tự do để điều khiển cái tâm thần của ta và trừ bỏ hết thảy những điều phiền não.
Bởi thế, người nào đã đạt được đạo lý của nhà Phật thì bao giờ cũng thản nhiên, không cho việc đời là chán nản, không lấy sự đắc thất làm lo buồn, không bị cái lửa tình dục nó hun đốt được. Ta vui lòng làm điều lành, điều phải là ta biết có chư Phật soi tỏ cái tâm ý của ta, và vẫn ở bên cạnh ta để nâng đỡ, cứu giúp ta và chứng minh cái lòng thành thật của ta. Nhờ có thần lực ấy của Phật, cho nên ta có cái sức mạnh để làm việc giúp đời mà không vướng víu với tình dục.
Đạo Phật mà hiểu đúng như thế thì thật là một đạo rất ung dung thư thái, mà vẫn có cái tiềm lực rất mạnh và rất hay. Một tôn giáo mà có những đức tính như thế, thật đáng quý lắm vậy.
Song ta phải biết rằng: “Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân”, nghĩa là: Người có thể mở rộng được đạo, chứ không phải đạo mở rộng được người. Đạo vốn là hay, nhưng mà người không hiểu hết nghĩa lý, không cố sức làm cho đạo sáng rõ ra, thì lâu dần cũng thành mờ tối. Đạo Phật cũng vậy, đạo Nho cũng vậy, không bao giờ ra được ngoài cái công lệ ấy. Vậy đạo hay, dở cũng là tại người ta. Người mà tinh khôn thì dù đạo có điều dở rồi cũng thành ra hay; người mà khờ dại thì dù đạo có hay thế nào rồi cũng hóa dở. Điều đó ta nên chú ý mà suy nghĩ cho kỹ.
Thưa các ngài!
Người ta ở đời chỉ có hai con đường là mê với ngộ. Mê rồi thì mỗi ngày một tối tăm lại, ngộ rồi thì càng ngày càng sáng tỏ ra. Đạo Phật nói tóm lại chỉ có mấy lời: mục đích là chuyển mê khai ngộ.
Chuyển mê là làm cho người ta thoát khỏi cái mê tình trong Tam giới, khai ngộ là chuyển mở cái tâm nhãn đại ngộ để được có đại Bồ-đề và được chứng đại Niết-bàn. Phương pháp là: “Bao nhiêu điều ác thì không làm, bao nhiêu điều thiện thì phải làm hết; tự mình phải giữ cái tâm ý của mình cho ngay chính trong sạch. Ấy là lời dạy của chư Phật.” ㊶
Vậy tôi thiết tưởng rằng: Nếu ta biết theo cái tinh thần của Phật giáo mà sửa bỏ những cái tệ tục và những điều mê tín đi, thì rồi dám chắc có nhiều điều ích lợi. Nhưng ta phải biết rằng: việc tu đạo cũng như việc trồng cây. Trồng cây mà đã có cái mầm tốt, thì phải chọn chỗ đất tốt, rồi ngày ngày chăm nom bón tưới, hễ thấy cỏ xấu mọc lên, thì nhổ ngay đi, đừng để nó làm hại cái mầm ấy. Như thế rồi tất có ngày cái mầm ấy thành ra cây to bóng mát, nhiều hoa sai quả. Ấy là cái hy vọng của chúng tôi, mà chắc cũng là cái hy vọng của tất cả bà con trong Hội ta vậy.
Nam-mô A-di-đà Phật.
--------
Chú thích:
① Sanskrit, một ngôn ngữ được dùng ở Ấn Độ từ trước thời đức Phật, còn gọi là Bắc Phạn. Ngoài ra còn có ngôn ngữ Pali gọi là Nam Phạn.
② Cũng từ chữ này, khi trực tiếp truyền sang nước ta vào khoảng thế kỷ thứ nhất, được dân gian đọc là Bụt-đà, sau đó nói tắt lại là Bụt.
③ Tiếng Phạn là Siddhārtha.
④ Tiếng Phạn là Gotama.
⑤ Tiếng Phạn là Śuddhodana.
⑥ Vùng đất này ngày nay thuộc nước Nepal.
⑦ Ngày nay, theo sự thống nhất của Phật giáo thế giới thì năm Phật đản sanh là năm 563 trước Công nguyên, và ngày đản sinh theo âm lịch là ngày trăng tròn, tức ngày rằm tháng tư.
⑧ Vị tiên nhân này tên là A-tư-đà (Asita).
⑨ Tức hoàng hậu Ma-da (Māyā).
⑩ Đó là dịp tổ chức lễ Hạ điền vào đầu vụ mùa, vua đến tham dự để cày đường cày đầu tiên dưới ruộng.
⑪ Tiếng Phạn là Anuttara-samyak-saṃbodhi, Hán dịch là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (無上正等正覺).
⑫ Tức là Tứ diệu đế, bốn chân lý không gì thay đổi được. Đó là các chân lý về Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
⑬ Chuyển pháp luân: nghĩa đen là chuyển bánh xe Pháp, tức là bắt đầu việc thuyết giảng giáo pháp, khiến cho Chánh pháp được lưu chuyển khắp nơi.
⑭ Tiếng Phạn là Brahmā.
⑮ Tiếng Phạn là Indra.
⑯ Sức đại tự tại: sức mạnh không có sự ngăn ngại, có thể làm hết thảy mọi việc theo ý muốn.
⑰ Chuyển diệu pháp luân: Thuyết giảng giáo pháp rất vi diệu.
⑱ Mọi sự khổ ở đời phải biết nhìn nhận đúng thật, như sanh, già bệnh, chết, mong cầu không được như ý, xa lìa người yêu dấu, gần gũi người oán hận... đều là những việc khổ, mà người đời không chịu nhận ra, vẫn mãi chạy theo những niềm vui tạm bợ để quên đi.
⑲ Tập: Những nguyên nhân gây ra, dẫn đến khổ đau.
⑳ Nguyên nhân gây khổ có thể trừ bỏ, nên khổ có thể được dứt trừ.
㉑ Những phương cách để dứt trừ nguyên nhân gây đau khổ chính là Đạo, phải tu tập theo đó để được giải thoát.
㉒ Tức là quả Phật.
㉓ Pháp nhãn tịnh (法眼淨): Mắt pháp trong sạch, người được pháp này nhìn nhận các pháp đúng theo bản chất thật của chúng, không bị sai lệch.
㉔ Tiếng Phạn là Bhikshu.
㉕ Tiếng Phạn là Upasaka, tức là các vị nam cư sĩ.
㉖ Tiếng Phạn là Upasaki, tức là các vị nữ cư sĩ.
㉗ Tiếng Phạn là Śrāvastī.
㉘ Tiếng Phạn là Rājagṛha.
㉙ Tiếng Phạn là Vārāṇasī, nay là Béneres.
㉚ Tiếng Phạn là Kapilavastu.
㉛ Tiếng Phạn là Veṇuvana-vihāra.
㉜ Tiếng Phạn là Gṛdhrakūṭa.
㉝ Tức là lệ an cư, mỗi năm 3 tháng đã nói ở trên.
㉞ Tiếng Phạn là Gaṅgā.
㉟ Tiếng Phạn là Kuśinagara.
㊱ Tiếng Phạn là Hinayānā.
㊲ Tiếng Phạn là Mahāyāna.
㊳ Tiếng Phạn là Bodhisattva.
㊴ Một niệm vừa khởi, thiện hay ác đã phân rõ rồi.
㊵ Truyện Kiều (Nguyễn Du).
㊶ Kinh Đại Bát Niết-bàn: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo.”
➖➖➖