
Ⓐ Đôi dòng về vương quốc Bỉ
Sau khi Napoléon bại trận tại Leipzig (1813), miền đất Belgique sát nhập với Pháp vào năm 1797 dưới thời cách mạng Pháp (1789-1799), lúc bấy giờ được tách ra khỏi Pháp để sát nhập với miền đất Hà Lan thành Vương quốc Hà Lan (Royaume uni des Pays-Bas) theo hòa ước Paris 30/5/1814 giữa Pháp và liên minh thắng trận Anh – Phổ – Áo – Nga – Thụy Điển – Bồ Đào Nha. Năm 1815 Napoléon vượt ngục từ đảo Elbe về làm vua trở lại, khởi binh định giành lại đất đai song nhanh chóng bị thất bại trong trận đánh nổi tiếng tại Waterloo, ngoại ô nam của Bruxelles. Năm 1830, nhân dân Bỉ lại nổi lên chống Hà Lan, làm nên cuộc cách mạng giành độc lập, thoát khỏi nhà nước Pays-Bas. Vương quốc Bỉ được thành lập từ năm đó. Từ đó đến nay lấy ngày 21-7 làm ngày Quốc khánh và ngày 15-11 làm ngày lễ của vương triều. Pays-Bas chỉ còn lại Hà Lan như trước.
Nước Bỉ tuy chỉ có 10 triệu dân và đất chỉ rộng 32.545 km2 nhưng trù phú và chứa các trục giao thông thủy bộ xung yếu giữa Anh – Hà Lan – Đức – Đại công quốc Luxembourg – Pháp, lại thêm có ba thuộc địa rộng mênh mông và vô cùng trù phú ở Trung Phi là Congo, Ruanda và Burundi, nên sớm phát triển và hiện nay mức sống được xếp cao hơn Anh, Pháp.
Bỉ có thủ đô Bruxelles và vùng Wallonie sử dụng tiếng Pháp, đời sống văn hóa có nhiều điểm tương đồng với Pháp. Vùng Flanders nói tiếng Hà Lan, có cảng Anvers (Antwerpen), rộng lớn thứ ba trên thế giới sau Thượng Hải và Rotterdam, là nơi phát triển nhất của vùng Flanders nói riêng và của Bỉ nói chung. Thủ đô Bruxelles còn là thủ đô của 27 nước Liên minh châu Âu (EU) hiện nay.
Hệ thống hành chính nước Bỉ khá phức tạp vì Bỉ vừa có vua, vừa là liên bang của ba vùng lãnh thổ Bruxelles, Flanders, Wallonie vừa có thêm cơ chế riêng cho ba cộng đồng ngôn ngữ Pháp, Hà Lan, Đức. Quan hệ giữa hai cộng đồng nói tiếng Pháp và Hà Lan không phải lúc nào cũng êm xuôi vì những tranh chấp lãnh thổ và quyền lợi kinh tế. Khác với Pháp, đạo Thiên chúa có hệ thống trường học, bệnh viện an sinh xã hội, công đoàn riêng; bên cạnh đó, hai đảng Xã hội PSB, SPA cũng có cơ sở vững chắc, liên tục cầm quyền ở vùng Wallonie và hầu như luôn luôn có mặt trong chính phủ liên bang, trong khi các đảng công giáo kỳ cựu CVP, PSC vừa qua đã phải thay tên đổi họ, không còn mang danh nghĩa tôn giáo.
Nước Bỉ có quan hệ ngoại giao với Việt Nam từ thời Pháp thuộc. Sau hiệp định Genève năm 1954, Bỉ có quan hệ cấp nhà nước với chính quyền miền Nam và mãi đến sau hiệp định Paris mới thiết lập quan hệ với chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và sau 1975 thì tiếp tục giữ quan hệ với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho tới hôm nay.
Hệ thống giáo dục đại học và cao đẳng của Bỉ gồm các trường đại học sử dụng tiếng Pháp ở Bruxelles, Liège, Louvain-la-Neuve, Mons, Namur, các trường đại học dùng tiếng Hà Lan ở Antwerpen, Brussels, Leuven, Gent và rất nhiều trường đào tạo kỹ sư thực hành, nhân công kỹ thuật cho tất cả các ngành nghề cần cho nước Bỉ và nhằm khai thác tài nguyên các thuộc địa. Đặc biệt, hai đại học Leuven (KUL) và Louvain-la-Neuve (UCL) là hai đại học công giáo lớn nhất thế giới, thành lập năm 1425, hàng năm đều có sinh viên hàng trăm nước đến du học. Đại học Bruxelles (ULB và VUB) do các giới không theo Công giáo (anticlerical) thành lập năm 1834 khi vương quôc Bỉ vừa mới ra đời, gọi là đại học tự do để khẳng định tính không lệ thuộc vào giáo hội Thiên chúa. Các đại học Liège, Mons, Gent, Antwerpen cũng như các đại học còn lại thuộc hệ đại học quốc gia.
Sinh viên ở Bỉ thời bấy giờ được nhà nước bao cấp, đóng học phí rất ít dù là trường công hay trường dân lập, công giáo; dù là người Bỉ hay người nước ngoài. Chỉ mới vài mươi năm gần đây học phí mới tăng lên một chút và sinh viên các nước phát triển khác đến Bỉ học phải đóng học phí cao hơn sinh viên Bỉ và các nước nghèo. Ở Bỉ, sinh viên bắt buộc phải thi cả phần viết lẫn phần vấn đáp, không phải đậu viết xong mới được vấn đáp như ở Pháp, do đó việc ôn tập khó hơn cho sinh viên Việt Nam học các trường Việt trong nước mới sang. Bù lại, để có công bằng về cơ hội (égalité de chance) cho học sinh gia đình công nhân, gia đình có thu nhập thấp, sinh viên không phải thi tuyển vào các khoa, trường Y, Bách khoa, sư phạm như ở Pháp.
★ Những người từng sống trên đất Bỉ nổi tiếng xưa kia có thể kể dến là nhà họa đồ Mercator (Sint Niklaas), họa sĩ Rubens (Anvers) với những bức tranh vô giá; thế kỷ 19 có Zénobe Gramme (Liège) phát minh động cơ điện hai chiều, góp phần quan trọng vào cuộc cách mạng kỹ thuật thế kỷ 19; Ernest Solvay (Bruxelles) phát minh công nghệ chế tạo soude làm đại hạ giá thành hóa chất cơ bản này. 10 người được giải Nobel trong đó về lý-hóa-sinh-y có François Englert (ULB 2013), Ilya Prigogine (ULB 1977), Albert Claude và Christian De Duve (UCL 1974), Corneille Heymans (1938), Jules Bordet (ULB 1919). Jacques Brel sáng tác và hát tiếng Pháp cho đến nay chưa ai sánh được; Eddy Merckx quán quân 100 năm vòng đua nước Pháp, nhà văn Simenon (Liège) với 500 tiểu thuyết với nhân vật thám tử Maigret, nhà xuất bản truyện bằng tranh Dupuis (Charleroi) với sự cộng tác của RG Hergé (Bruxelles) qua truyện bằng tranh Tintin, A. Franquin (Bruxelles) với Spirou, Peyo (Bruxelles) với Schtroumpfs, vv… Người nước ngoài học ở Bỉ nổi tiếng được nêu tên trên Wikipedia về ULB có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam.
Ⓑ Cộng đồng người Việt trên nước Bỉ
1. Thời kỳ trước 1965
Trong thời Pháp đô hộ, người Việt xuất dương sang Pháp sinh sống, du học, bị bắt đi lính chống Đức v.v… là chính. Tuy nhiên, cũng có nhiều linh mục và sinh viên công giáo từ Việt Nam sang Bỉ để học tại đại học Louvain, tiêu biểu là các GS. Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, BS. Phạm Thị Hồng Quê; hoặc từ phong trào yêu nước ở Pháp sang như các PGS. Tăng Văn Hải (UCL), Huỳnh Long Vạn (ULB) hoặc do được học bổng của Bỉ cấp như GS. Nguyễn Đăng Hưng (ULg).
Chính quyền Sài Gòn cố gắng tranh thủ trí thức nhưng mỗi lần đại sứ Ngô Đinh Luyện từ Luân Đôn sang Bỉ triệu tập đều bị chất vấn gắt gao. Người đứng đầu sóng trong những năm này là PGS. Tăng Văn Hải, vốn trước đây hoạt động trong phong trào học sinh Trần Văn Ơn, sau sang Pháp học và là một trong ba người (có KS. Huỳnh Hữu Nghiệp ở Pháp) bị Tòa án Sài Gòn xử khiếm diện vì tội chống chính phủ trong một phiên tòa nhằm thị uy trí thức du học tại Pháp.
2. Thời kỳ 1965-1975
Năm 1965 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong phong trào du học tự túc. Đây là năm Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược, đổ quân ồ ạt vào miền Nam, ném bom miền Bắc. Học sinh, sinh viên khó được hoãn dịch, chỉ còn con đường xin đi du học là tốt nhất, vừa khỏi đi lính, vừa được theo học ở các trường đại học Âu, Mỹ. Các bậc phụ huynh là công chức hoặc thương gia giàu có vận động chính quyền nới lỏng điều kiện về học lực, cho phép chuyển ngân một số ngoại tệ làm học phí, nhờ đó những gia đình trung lưu cũng được hưởng chế độ du học dễ dãi này.
Năm 1965 cũng là năm tổng thống Pháp Charles De Gaulle đích thân sang thăm Campuchia, đọc bài diễn văn Phnom Pênh nổi tiếng trong đó ông phê phán nghiêm khắc chính sách can thiệp của Mỹ vào Việt Nam và Đông Dương nói chung. Đồng thời, chính phủ Pháp cũng chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Tổng lãnh sự với chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Chính quyền Sài Gòn, lúc bấy giờ do ông Nguyễn Cao Kỳ đứng đầu, đã phản ứng mạnh mẽ, tổ chức biểu tình chống Pháp dữ dội tại Sài Gòn và cắt đứt quan hệ ngoại giao với Pháp, cấm sinh viên sang Pháp du học.
Hệ quả của việc này là sinh viên Việt Nam chuyển sang du học tại nhiều nước khác. Những ai quen sử dụng tiếng Pháp thì chuyển sang Canada, Thụy Sĩ và Bỉ, quen tiếng Anh thì đi Mỹ, Úc, Anh. Đặc biệt nhất là phong trào du học tại Đức, Ý và Nhật chủ yếu để học các ngành kỹ sư.
Sinh viên sang Bỉ du học từ năm 1965 đến 1975 có thể đến năm, bảy ngàn người, tuy nhiên nhiều người chỉ đến Bỉ một thời gian ngắn rồi sang Pháp do có gia đình bảo lãnh sang và sắp xếp trước.
Bỉ là nước xuất khẩu hàng hóa tính theo đầu người lớn nhất nhì thế giới, ngang hàng với Singapore, vì thế có nhiều trường chuyên về kinh tế, thương mại và sinh viên Việt Nam chọn các ngành này cũng khá đông (trường Solvay thuộc ULB, trường cao đẳng thương mại công giáo ICHEC ở Bruxelles, các khoa kinh tế ở ULB, UCL, ULG). Như nói ở trên, các trường cao đẳng kỹ sư thực hành rải đều khắp trên tất cả mọi tỉnh thành cùng thu hút hàng ngàn sinh viên Việt Nam (Ceria, Iisib, Gramme, Vervies, Seraing, Charleroi v.v…). Tiếp theo, một số độ chừng vài trăm sinh viên thì vào học các ngành kỹ sư dân sự tại các đại học bách khoa thuộc ULB, UCL, Ulg và Mons. Ngành y cũng thu hút độ vài trăm người. Cuối cùng, một số ít hơn theo học Toán, Lý, Hóa, Sinh, Luật v.v… tại các đại học lớn.
Thành phần người Việt trong những năm 65-75 như vậy rất trẻ và năng động. Người lớn tuổi rất hiếm hoi.
Về chính trị, vài trăm sinh viên thuộc thành phần quyền thế và giàu có ở Sài Gòn thì hăng hái chống cộng; đa số thuộc thành phần trung lưu thì cầu an, lại ít hiểu biết về công cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây và phong trào đấu tranh chống xâm lược Mỹ lúc bấy giờ, dễ bị chính quyền khống chế.
Sinh viên có sẵn cảm tình với cách mạng không đông, chủ yếu là vài mươi sinh viên đã từng tham gia phong trào sinh viên Sài Gòn chống Mỹ xâm lược hoặc trong gia đình có cha anh đi theo cách mạng.
3. Thời kỳ sau 1975.
Từ tháng 5-1975, người Việt sang Bỉ định cư gồm hai thành phần. Một là những người được con em sang Bỉ du học trước đó bảo lãnh rước sang. Hai là những người di tản, thuyền nhân được chính phủ Bỉ cho phép tái định cư. Cho tới nay có thể nói ở Bỉ có độ 10 ngàn người Việt, một phần ba là sinh viên du học trước đây và còn ở lại Bỉ làm việc, một phần ba sang đoàn tụ gia đình và một phần ba nguyên là thuyền nhân.
Việt kiều ở Bỉ những năm 80 còn tổ chức và tham gia nhiều sinh hoạt văn hóa chính trị rầm rộ song hiện nay sống hòa nhập vào xã hội Bỉ, còn rất ít sinh hoạt cộng đồng ngoại trừ cúng kiến cầu nguyện tại các chùa, nhà thờ…
Lớp học tiếng Việt cho thiếu nhi hầu như chẳng còn. Chủ yếu là giao thiệp theo từng nhóm nhỏ có tính chất gia đình.
Ⓒ Sự hình thành phong trào yêu nước tại Bỉ
1. Giai đoạn nhen nhúm 1965-1969
Những năm sau thế chiến, phong trào cộng sản và cánh tả ở châu Âu rất mạnh mẽ do đã có công và gương mẫu trong cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa phát xít trước đó không lâu. Tại các đại học, ngày nào cũng có sinh hoạt của các nhóm sinh viên tiến bộ, đặc biệt là sinh viên các nước còn chế độ độc tài như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp và sinh viên các nước châu Phi, Nam Mỹ. Mỹ lại là nước hậu thuẫn cho các chế độ thối nát, tàn bạo cho nên các tất cả các tổ chức sinh viên nói trên đều ủng hộ kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam.
Đầu năm 1966, Hội liên hiệp sinh viên Việt Nam tại Pháp được mời sang Bruxelles diễn thuyết và tranh luận tại ULB về cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Cuộc nói chuyện này đã tác động mạnh mẽ lên sinh viên Việt Nam, lần đầu tiên đối diện với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTGP). Sứ quán Việt Nam Cộng hòa hoảng hốt, tổ chức sinh viên quốc gia chống cộng lại nhằm củng cố tinh thần và theo dõi lập trường của từng người. Trong khi đó, các sinh viên có sẵn cảm tình cách mạng tại mỗi thành phố cũng bắt đầu tìm đến nhau.
Tại Bruxelles, PGS. đại học ULB Huỳnh Long Vạn và vài sinh viên mới sang trong đó có chị Nguyễn Thị Anh Thơ là cơ sở của phong trào Pháp (nay là thành viên BCH Hội người Việt Nam tại Pháp), trách nhiệm gây dựng phong trào tại Bỉ, cũng bắt đầu tổ chức đường dây Paris-Bruxelles từ năm 1966. Anh Đỗ Tấn Sĩ, một sinh viên khoa Toán Đại học Khoa học Sài Gòn mới sang nhận phát hành báo Liên Hiệp cho sinh viên tại Bỉ.
Tại Louvain, ngoài PGS. Tăng Văn Hải, còn có anh Lê Văn Hiếu, từ phong trào học sinh ở Huế sang, nhiệt tình không ai bằng. Nhắc đến anh mọi người vẫn còn thương tiếc do chẳng may anh bị bệnh mất năm 1974, chưa kịp thấy ngày giải phóng. Một sinh viên tích cực trong phong trào Louvain, sau này được phong Giáo sư KUL là TS. Nguyễn Minh Thọ. Còn có sinh viên ban tiến sĩ và là Phật tử thuần thành Trần Văn Cảnh cùng góp phần cho phong trào Louvain thêm phong phú.
Tại Liège, nơi nhiều sinh viên qui tụ nhất, tình hình cũng sớm sôi động hơn hết. Phía chống cộng có nhóm sinh viên công giáo do một người cháu của GM Lê Hữu Từ cầm đầu, rất đông và qui củ, hơn cả Hội sinh viên công giáo Louvain. Phía cảm tình cách mạng, ngoài những anh lớn sang trước 1965 nói ở phần trên (Nguyễn Khoa Thành, Nguyễn Minh Duyệt, Nguyễn Đăng Hưng, v.v…) người dẫn dắt phong trào sâu sát nhất có lẽ là anh Hồ Văn Thi Sĩ, người sinh viên Bàn Cờ khoa Toán (Sau được phong GS. Toán), từ trong phong trào Phật giáo chống Mỹ Diệm năm nào, nay ngày ngày trực diện tranh luận với phe chống cộng, trước sự ngưỡng mộ của sinh viên trẻ. Bên cạnh và hỗ trợ anh Thi Sĩ, luôn luôn có anh Trần Quang Minh và những sinh viên trẻ, về sau thành đạt như KS. Ngô Đức Chí, KS. Trương Minh Hùng, TS. Đặng Ngọc Hùng, GS.TS. Huỳnh Văn Công. v.v… Một người anh gương mẫu trên lập trường kính yêu Bác Hồ, ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là BS. Phan Văn Ba (qua đời tại Mons năm 1987), tuy lớn tuổi vẫn sinh hoạt vui đùa chung với anh em trẻ mới sang, ai ai cùng yêu mến. Song đông đảo hơn hết là nhóm sinh viên có tài văn nghệ, dần dà tập hợp để vài năm sau là ngòi pháo đấu tranh mạnh mẽ nhất ở Bỉ. Có thể kể đến các anh Lê Long, Nguyễn Đức Dũng, Hồ Đức Lê, Thái Ngọc Minh, Huỳnh Kim Long, Trần Quang Thạch, Trần Anh Kiệt, Lê Chánh Cần, Trần Hữu Vinh, Võ Mạnh Linh và rất nhiều chị phụ trách ca, múa.
Tại Mons, thành phố gần kề biên giới Pháp, có anh Phan Tấn Trình là người anh lớn chăm lo đời sống, tập hợp những sinh viên mới sang học Đại học bách khoa tại đây. (Sau ngày giải phóng, năm 1978, sinh viên Việt Nam từ Hà Nội sang được đi học dự bị tại đây, được phong trào Mons giúp đỡ tận tình). Bên cạnh anh Trình còn có các sinh viên thuộc gia đình cách mạng, đặc biệt hơn hết có anh Nguyễn Văn Gia, từ là một sinh viên chủng viện, tu xuất lại hăng hái tham gia phong trào, làm công tác ngoại vụ của phong trào Bỉ ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng tại Mons và sau này tại Liège rất hiệu quả.
Tại Verviers, một thị trấn vùng Liège gần các thành phố đại học Aachen và Bonn của Cộng hòa liên bang Đức, nổi tiếng từ xưa với ngành dệt nhuộm len nhờ nước sông Vesdre, vài mươi anh chị em đến học tại trường kỹ sư thực hành. Trái với những nơi khác, ở Verviers sinh viên cảm tình cách mạng đông ngang hàng với sinh viên quốc gia. Anh Võ Lâm Bá là người hướng dẫn phong trào tại đây. Cũng cần nhắc lại là thời bấy giờ, rất khó xin visa giữa Bỉ, Pháp, Đức cho nên những đầu mối ở biên giới như Mons, Verviers rất quan trọng, giúp đưa đón, liên lạc giữa các phong trào qua các đường ngang ngõ tắt. Một sinh viên tích cực trong phong trào Verviers là Trương Minh Dự, về sau gặp nạn qua đời cũng rất được yêu mến.
Trong giai đoạn nhen nhúm phong trào, quan hệ giữa hai phe quốc gia - cộng sản chưa đến nỗi căng thẳng, các sinh viên mới sang vẫn nhờ các anh học ban tiến sĩ hoặc học lớp trên trong phong trào, chỉ dẫn bài vở, nhất là về Toán, qua đó nảy sinh những quan hệ tốt. Điển hình là vào năm 1968, lúc phong trào sinh viên cánh tả châu Âu lên cao, cũng là lúc các anh Đỗ Tấn Sĩ, Trần Văn Cảnh và Hồ Văn Thi Sĩ đắc cử chủ tịch các hội ái hửu sinh viên Bruxelles, Louvain và Liège.
Ngày Bác Hồ mất, anh chị em ở Bruxelles đã quyết định treo ảnh Bác có băng tang tại cư xá ULB với hàng chữ Tiếc Thương Vô Hạn.
2. Giai đoạn bộc phát 1969-1971
Sau một thời gian tập hợp lực lượng tại từng địa phương, các nhóm lại tìm liên kết với anh chị em nơi khác. Từ Liège, các anh Thi Sĩ, Trần Quang Minh, Ngô Đức Chí, Trương Minh Hùng tìm gặp anh Đỗ Tấn Sĩ ở Bruxelles và quyết định hợp sức ra một tờ báo in ronéo gởi bưu điện đến mọi sinh viên Việt Nam có địa chỉ. Anh Thi Sĩ đề nghị đặt tên báo là Giải Phóng, lập trường rạch ròi ủng hộ mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, có cảm tình với miền Bắc, chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Nhóm Giải Phóng quan hệ chặt chẽ với phong trào Pháp.
Tờ Giải Phóng ra đời năm 1969 như tiếng nổ của bộc phá, gây dư luận xôn xao. Sứ quán Việt Nam Cộng hòa hốt hoảng, chỉ đạo các nhóm chống cộng tăng cường kiểm soát; sinh viên nói chung lặng im sợ sệt, các nhóm cảm tình cách mạng khác nôn nóng xắn tay áo lên hành động.
Không bao lâu sau đó, một tờ báo cùng lập trường ra đời, lấy tên là Tranh Đấu, do các anh Nguyễn Đăng Hưng, Lê Văn Hiếu chủ trương.
Hai tờ Giải Phóng và Tranh Đấu có lập trường cao quá so với số đông sinh viên, cho nên không phù hợp và không lâu sau phải ngưng dành sức làm việc khác.
Từ đó lần lượt ra đời các tờ báo có lập trường tương tự như báo của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, lấy tình tự dân tộc khơi dậy nỗi nhục mất nước, văn hóa bị xâm lăng, thể hiện bằng thơ văn, tư liệu là chính.
Bruxelles xuất bản tờ Về Nguồn do anh Trần Quốc Tế đứng tên trách nhiệm, các anh Nguyễn Hữu Anh, Nguyễn Bá Cường, Đỗ Tấn Sĩ, Đặng Văn Tân, Nguyễn Văn Thu, Trần Hữu Vinh, viết bài, in ấn.
Liège có tờ Hiện Diện, do hai anh Ngô Đức Chí và Trương Minh Hùng của nhóm Giải Phóng trước đây cùng nhiều sinh viên trẻ, giữ khoảng cách nhất định đối với các anh lớn có lập trường quá cao. Nhóm Hiện Diện rất đông, không kể tên hết tại đây mà mong có một bài viết riêng về sau này. Ngoài tờ Hiện Diện, một ít sinh viên công giáo yêu nước còn cho ra đời một hai số báo Cảm Thông. Cũng có ý kiến muốn làm Hội Phật tử nhưng vì lực lượng không đủ làm nhiều việc nên thôi.
Louvain xuất bản tờ Khai Phóng, do các anh Phạm Trí Chánh, Đinh Hùng Cường, Nguyễn Thế Dũng, Nguyễn Minh Thọ, Trần Đình Thọ phụ trách, có anh Lê Văn Hiếu đầu đàn.
Mons thì xuất bản tờ Dân Tộc, do các anh Nguyễn Hữu Trí, Huỳnh Chánh Đức., v.v…
Verviers về sau có tờ Thông Xanh, do các anh Võ Lâm Bá, chị Tạ Thị Mỹ Anh, Trương Minh Dự, Đào Văn Khoa, Trần Anh Kiệt v.v… ⍟
--------------------------------------------
⍟ Thời gian qua đã lâu, người viết bài có thể thiếu sót, nhầm lẫn ngoài ý muốn, xin các anh chị lượng thứ và chỉnh sửa nếu có điều gì sơ suất.
Nhìn chung, phong trào khởi sắc hơn cả mơ ước của những người xây dựng cơ sở cách mạng: chỉ sau vài năm ngắn ngủi, sinh viên và Việt kiều yêu nước, ủng hộ Mặt trận Giải phóng đã có tổ chức khắp các thành phố vùng tiếng Pháp trên xứ Bỉ; liên thông với hai phong trào lớn là Pháp và Đức. Điều này tác động lại trên dư luận Bỉ, tạo thêm niềm tin vào cách mạng Việt Nam, thêm sức cho phong trào nhân dân Bỉ ủng hộ Việt Nam, lúc bấy giờ cũng đang lên cao với Comité National Vietnam do Bộ trưởng Quốc vụ Khanh Henri Rollin làm chủ tịch, qui tụ hầu hết mọi nhân vật tiến bộ tại Bỉ, liên tục tổ chức biểu tình, mít tinh, chiếu phim, quyên góp vì Việt Nam.
Thời gian phong trào bùng phát cũng là thời gian đã diễn ra cuộc đàm phán bốn bên về Việt Nam ở Paris. Thông qua phong trào Pháp, phong trào Bỉ được hai đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Xuân Thủy và đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam do bà Nguyễn Thị Bình dẫn đầu, tiếp nồng hậu mỗi khi có dịp sang Paris thăm viếng, họp hành. Cán bộ của hai đoàn và Đại sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ĐS Mai Văn Bộ, ĐS Võ Văn Sung), Văn phòng đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (ĐS Phạm Văn Ba) cũng thường xuyên sang Bỉ kết hợp công tác ngoại giao với hướng dẫn nòng cốt phong trào về lý luận cách mạng, phương pháp vận động quần chúng và xây dựng phong trào.
--------------------------------------------
3. Giai đoạn liên kết chống đàn áp 1971-1972
Trước sức lớn mạnh của phong trào, Sứ quán Việt Nam Cộng hòa lúng túng, phản ứng vụng về bằng việc báo cáo về Sài Gòn, ra quyết định gọi về nước, cắt chuyển ngân ba sinh viên Nguyễn Văn Gia (ĐHBK Mons), Đỗ Thị Thanh Thủy (Cao đẳng Mỹ thuật Bruxelles), Nguyễn Thanh Vân (ĐH Liège) cuối niên học 1970-1971.
Để đối phó, đồng thời dấy phong trào lên cao thêm nữa, các phong trào địa phương họp lại nhau tại Bruxelles và quyết định thành lập Ủy ban Bảo vệ quyền lợi sinh viên Việt Nam tại Bỉ, do hai anh Nguyễn Bá Cường (SV Toán ULB) và Đỗ Đình Thành (SV Y khoa ULg) đứng tên trách nhiệm.
Ủy ban Bảo vệ quyền lợi sinh viên Việt Nam tại Bỉ hành động theo bốn hướng: vận động sinh viên Việt Nam ký tên phản đối; báo động cho các tổ chức sinh viên Bỉ để hỗ trợ, thông tin cho các phong trào tại Đức, Pháp để hiệp đồng; lên gặp Sứ quán chất vấn. Bản ký tên của sinh viên Việt Nam được hưởng ứng tốt vì có thêm vài mươi sinh viên trước đây im lặng, nay mới xuất hiện, can đảm ký tên. Các bạn Bỉ sẵn sàng, phong trào Pháp chính thức gửi thư ủng hộ, phong trào Đức cũng đang sục sôi tranh đấu, rất vui mừng khi có phong trào Bỉ bên cạnh hỗ trợ nhau. Sứ quán Việt Nam Cộng hòa thì chối quanh, đổ thừa cho sinh viên quốc gia chống cộng báo cáo mật thẳng về Sài Gòn.
Tháng 4 năm 1972, cuộc đấu tranh dâng cao đến đỉnh điểm với cuộc tuyệt thực chống đàn áp tại ULB (do anh Nguyễn Bá Cường chịu đựng trong hai ngày) và ULg (các anh Dũng, Thìn, Bá, Thành, Chí, Thạch, Lê), được các bạn Bỉ và quốc tế ủng hộ hết mình. Tình cờ, đó cũng là những ngày quân giải phóng mở chiến dịch đánh chiếm Quảng Trị, Lộc Ninh cho nên sứ quán Việt Nam Cộng hòa cho là có Mặt trận Giải phóng chỉ đạo, Đoàn đại diện Ủy ban Bảo vệ quyền lợi sinh viên Việt Nam tại Bỉ đến Sứ quán Việt Nam Cộng hòa đưa yêu sách. Không được đáp ứng, 12 giờ trưa ngày thứ bảy 15-4-1972, cố vấn đại sứ Việt Nam Cộng hòa cùng một nhóm sinh viên quốc gia đến tại cuộc tuyệt thực ở ULB để đối chất với sinh viên ULB có mặt. Khi cố vấn đại sứ vừa quay lưng, cuộc tuyệt thực tại Bruxelles vừa tuyên bố chấm dứt, nhóm sinh viên quốc gia ra tay đánh phá. May nhờ sinh viên Bỉ và quốc tế bảo vệ nên vô sự chỉ có anh Nguyễn Hữu Anh bị xây xát nhẹ.
Cuộc đấu tranh thành công hơn dự định vì báo chí, đài truyền hình Bỉ đều đưa tin và Viện trưởng ULB ra thông báo chính thức phản đối việc sứ quán Việt Nam Cộng hòa xâm nhập đại học bất hợp pháp để đàn áp sinh viên Việt Nam đang theo học tại trường. Khí thế phong trào và tinh thần đoàn kết lên cao hơn bao giờ hết.
4. Giai đoạn thành lập Hội 1972-1973
Giữa năm 1972, nhận thấy việc thống nhất lực lượng trong một Hội đoàn chung đã được mọi người tán thành, được sự khuyến khích của phong trào Pháp và đại diện của cách mạng trong nước tại Paris, anh chị nòng cốt phong trào Bỉ cũng người anh lớn nhất trong phong trào là PGS. Tăng Văn Hải, PGS UCL. Anh Hải sốt sắng đứng ra kêu gọi mọi nhóm tham gia, lập Ban trù bị, dự thảo nội quy. Trên nguyên tắc thì dễ, đi vào cụ thể từng câu chữ mới thấy khó vì khái niệm tập trung dân chủ, phương thức bầu cử, v.v… hãy còn mới mẻ, dễ sinh hiểu lầm, phải mất nhiều ngày tháng, nhiều phiên họp sóng gió mới đi đến nhất trí.
Việc chuẩn bị thành lập Hội đang tiến hành thì tin vui Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết ngày 27-01-1973 sau chiến thắng Điện Biên Phủ trên không vô cùng hào hùng của quân dân miền Bắc vào mùa Noël 1972.
Hội được thành lập trong hai ngày 6 và 7-10-1973 tại Werbomont trong vùng đồi núi Ardennes nước Bỉ với khoảng 60 hội viên đầu tiên, lấy tên là Hội sinh viên và Việt kiều yêu nước tại Bỉ, trong một tuần lễ trang nghiêm và cảm động. Các chị và nhiều anh không cầm được nước mắt khi đứng lên nghe đọc Tuyên ngôn thành lập Hội, trong đó có lời hứa với đồng bào hai miền Nam Bắc, với các ba má ở các đô thị miền Nam còn bị chiếm đóng sẽ cố gắng học giỏi, công tác hăng say, xứng đáng là con em của một dân tộc anh hùng. Đại hội bầu ra Ban chấp hành do anh Tăng Văn Hải làm chủ tịch, anh Đỗ Tấn Sĩ làm phó chủ tịch và anh Ngô Đức Chí làm Tổng thư ký. Hội có 5 chi hội, hoạt động bán công khai để bảo vệ hội viên, xuất bản một tờ báo lấy tên là Kết Hợp với ý nghĩa phải đoàn kết, hợp sức với nhau để đấu tranh cho đất nước.
Cũng vào năm 1973, Hội hữu nghị Bỉ - Việt Nam (Association Belgique-Viet-nam) được thành lập với GS. François Houtart làm chủ tịch và nguyên TNS Đảng cộng sản Bỉ Jean Verstappen làm Tổng thư ký. Từ đó đến nay, dưới sự lãnh đạo của ông Verstappen, ABV luôn luôn kề vai sát cánh với Hội, tổ chức thành công hàng trăm hoạt động như mít-tinh, hội thảo, chiếu phim, Quốc khánh, Tết, giúp các đoàn trong nước sang dự hội nghị, mít tinh tố cáo tội ác Mỹ ngụy, công tác, v.v…
Trong thời gian thành lập Hội, hoạt động của phong trào thêm khởi sắc với sự ra đời của Nhóm sinh hoạt văn nghệ sinh viên Liège, được rất đông anh chị em sinh viên trẻ tham gia, không thể kể hết ra đây trong khuôn khổ bài viết này. Phải nói rằng các anh chị em trong nhóm hết sức có công trong việc vận động người sinh viên bình thường trở thành người yêu quê hương, đất nước qua những đêm dân ca, sử ca, tranh đấu ca, đêm hát cứu trợ đồng bào, các đêm hát nhạc sinh viên Sài Gòn, trình diễn vở kịch thơ Tiếng gọi Lam Sơn, đêm Hòa Bình.
Từ kỳ lễ Pâque (lễ Phục sinh) năm 1973 cho đến hơn mười năm sau, phong trào Bỉ đều đặn tổ chức những trại mùa xuân, mùa hè, có các bạn ở phong trào Đức qua tham dự, rất vui tươi, đầm ấm và ích lợi.
5. Giai đoạn mừng thắng lợi 1973-1975
Ngay sau ngày thành lập Hội, phong trào đề ra nhiệm vụ phá vỡ Đại hội thể thao lần 10 của các hội quốc gia chống cộng tại châu Âu, dự định tổ chức trong khuôn viên UCL. Một ban hành động được đề ra, phối hợp cùng các hội tiến bộ Bỉ tranh đấu với UCL để cấm treo cờ Việt Nam Cộng hòa trong các buổi thi đấu, chuẩn bị tác chiến khi cần thiết v.v… Kết quả đạt được như ý muốn của Hội, làm cho phe quốc gia không tuyên truyền cho chế độ Việt Nam Cộng hòa được.
Tiếp sau đó, Hội chủ trương thành lập các nhóm quần chúng hoạt động xã hội, cứu trợ đồng bào, nhịp nhàng cùng với các phong trào đô thị miền Nam, được các chị ủng hộ, xung phong in thiệp Giáng sinh, chia nhau đi bán trước các nhà thờ nơi mình học, trước sự bất lực cấm cản của sứ quán Việt Nam Cộng hòa.
Tháng 4-1975, Hội và Ủy ban Bảo vệ quyền lợi sinh viên Việt Nam tại Bỉ được mời sang Paris dự Đại hội các phong trào sinh viên và Việt kiều yêu nước trên thế giới do Hội Người Việt Nam tại Pháp tổ chức, có mặt hai anh Võ Như Lanh và Tôn Thất Lập. Những ngày này Quân giải phóng đã mở cuộc tổng tiến công, chiếm lĩnh Ban Mê Thuột, mở đầu cho đại thắng mùa Xuân năm 1975. Kết thúc, Đại hội lập bốn đoàn đại diện đem nghị quyết cho bốn sứ quán: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Thay mặt Hội Sinh viên Việt kiều yêu nước tại Bỉ, anh Đỗ Tấn Sĩ đã cùng anh Nguyễn Đức Minh Tuấn của Hội Sinh viên Việt kiều yêu nước tại Cộng hòa liên bang Đức đến sứ quán Việt Nam Cộng hòa trao nghị quyết của Đại hội và phát lời kêu gọi của đại hội khiến cho nhân viên tại đây hoang mang cùng cực. Sau một hồi tranh luận, bị chụp hình lén, hai anh đã ra về bình yên.
Và rồi ngày vinh quang 30-4-1975, được lệnh của bà Nguyễn Thị Bình từ Paris gọi sang vào sáng sớm, anh Tăng Văn Hải và anh Đỗ Tấn Sĩ, cùng một chị, mặc chiếc áo dài đẹp nhất cho thêm phần long trọng, đã kịp thời thay mặt cho phong trào, đường hoàng bước chân vào sứ quán Việt Nam Cộng hòa, yêu cầu bảo quản tài sản để trao lại cho cách mạng, dưới sự chứng kiến của đông đảo sinh viên đến xin gia hạn hộ chiếu vào giờ phút chót.
Đây là kinh nghiệm mà anh em phong trào học tập được từ hai đoàn đàm phán của ta tại hội nghị Paris: “căng mà không đứt”.
Một giai đoạn của lịch sử của phong trào sinh viên và Việt kiều yêu nước tại Bỉ sang trang. Giai đoạn mười năm kế tiếp sau đó của Hội cũng rất cực nhọc và khó khăn trong hoàn cảnh đất nước còn ít bạn, nhiều thù, không được thong dong xây dựng như ngày nay.
THAY LỜI KẾT LUẬN
❀❀❀❀❀
Phong trào sinh viên và Việt kiều yêu nước tại Bỉ cũng như ở các nước khác đã thành công tốt đẹp trong một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Đi tìm nguyên nhân khiến những sinh viên từ miền Nam sang Âu, Mỹ, Úc, Nhật du học, không hề bị thiệt thòi, lại hăng hái tham gia công cuộc chống Mỹ cứu nước có lẽ không đâu bằng trong những bài thơ, nhạc, bức thơ gửi Tổng thống Nixon nổi tiếng của anh Nguyễn Thái Bình và những bài viết đủ thể loại của bản thân các anh chị em ấy trên các báo của phong trào thời bấy giờ. Những tình cảm trong sáng của anh chị em không chỉ là chuyện tình cảm của một thời không xa vắng mà còn có thể giúp cho thế hệ trẻ ngày nay, mai sau hiểu thêm về cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta trong thế kỷ 20. Đó cũng là lý do khiến tác giả viết tư liệu này, dù hết sức đắn đo ngần ngại. Ký ức của một thời đã qua lâu không thể nào chính xác. Vả lại, “cách mạng miền Nam ai làm người đó biết”. Mong được thứ lỗi cho những thiếu sót trong bài tư liệu này mà đắc tội nhất là không nêu lên được đầy đủ những đóng góp thầm lặng của các chị, những đóa hoa tươi đẹp của phong trào, múa ca trên sân khấu, đóng kịch trong trại hè, thức đêm làm báo, nấu ăn cho hàng chục, hàng trăm người và ôm mặt khóc khi các anh bất hòa trong buổi họp. Hy sinh của các chị, các anh suốt mấy mươi năm nay đã phôi pha theo ngày tháng nhưng chắc ai cũng lâng lâng vui khi hồi tưởng lại thời oanh liệt ấy, cũng thấy mình đã giữ vẹn lời hứa với đồng bào hai miền Nam Bắc, với ba má ở quê nhà trong ngày thành lập Hội.
Đỗ Tấn Sĩ
(Bruxelles ngày 23-9-2005)
(hiệu đính 12-12-2020)
➖➖➖

Chân quàng Quất, tay ôm Đào, Mai quyện đầu, BelUnion nhàn nhã đón Xuân.