
Lời tựa:
Không gia đình (tiếng Pháp: Sans famille), còn được dịch là Vô gia đình, có thể được xem là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn Pháp Hector Malot, được xuất bản năm 1878. Tác phẩm đã được giải thưởng của Viện Hàn lâm Văn học Pháp. Nhiều nước trên thế giới đã dịch lại tác phẩm và xuất bản nhiều lần. Từ một trăm năm nay, Không gia đình đã trở thành quen thuộc đối với thiếu nhi Pháp và thế giới. Kiệt tác này đã được xuất hiện nhiều lần trên phim ảnh và truyền hình. Xin giới thiệu với anh/chị chương đầu tiên của tác phẩm.
~~~
Chương 1 - Làng tôi
Tôi là một đứa trẻ bị bỏ rơi.
Mãi đến năm lên tám, tôi vẫn tưởng tôi có một người mẹ như những đứa trẻ khác, vì lúc nào tôi khóc thì lại có một bà đến dịu dàng ôm tôi vào lòng, dỗ dành cho tôi nín.
Mỗi khi tôi đi ngủ lại có bà đến vuốt ve tôi. Về mùa đông, khi gió gieo tuyết vào cửa kính trắng xóa, bà kéo chân tôi ủ vào hai bàn tay bà và ru tôi. Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ giọng hát và câu hát ru của bà.
Khi tôi chăn con bò sữa trên những ven đường cỏ xanh hay ở bãi hoang mà chợt gặp mưa to, bà vội vã chạy ra đón, kéo vạt áo che đầu cho tôi và đưa tôi về.
Khi tôi cãi nhau với một đứa trẻ khác, bà bảo tôi kể lại cho bà nghe, rồi bà tìm lời ngọt ngào dỗ tôi và bao giờ cũng cho tôi là phải.
Vì những điều đó và nhiều điều khác nữa, vì giọng nói âu yếm, vì đôi mắt trìu mến của bà, vì những sự vỗ về thương yêu tôi, vì vẻ nhân từ của bà dẫu khi trách mắng tôi, tôi luôn nghĩ bà là mẹ tôi.
Tôi biết bà chỉ là mẹ nuôi tôi thôi, như thế này đây.
Làng tôi, hay gọi cho đúng, nơi tôi được nuôi nấng, vì tôi không có làng riêng cho tôi, không có nơi sinh, mà không có cả cha lẫn mẹ nữa, làng mà tôi đã sống trong thời thơ ấu gọi là Savanong, một làng trong những làng nghèo nhất ở miền Trung nước Pháp.
... nghèo nàn đó không phải là tại .... đần độn hay lười biếng mà chính vì vị trí của làng ở vào một nơi đất khô cằn. Đất lớp mặt mỏng, muốn được hoa màu tốt phải có phân bón nhưng ở miền này đều thiếu thốn. Vì thế người ta chỉ thấy một số ít ruộng được cày cấy, còn toàn là những bãi hoang bao la để cho bụi rậm và cỏ mọc đầy. Trên những bãi cao đó, lác đác cũng có một vài khóm cây to, nhưng khi những ngọn gió may thổi đến, thì chỉ còn trơ những cành khẳng khiu.
Muốn thấy những cây đẹp, phải xuống thung lũng, đến chỗ các bờ sông nhỏ; trong những đồng cỏ hẹp mới có những cây dẻ cao và những cây sồi to lớn xum xuê. Chính ở một trong những thung lũng đó, trên bờ một dòng suối chảy xiết đổ vào phụ lưu của sông Loa, có ngôi nhà thân yêu của tôi thời thơ ấu.
Cho đến năm lên tám, tôi chưa hề trông thấy một người đàn ông nào trong nhà. Tuy nhiên, mẹ tôi không phải góa bụa, vì chồng bà đi làm thợ đẽo đá ở Pari cũng như phần đông những người thợ khác ở vùng này. Từ ngày tôi đến tuổi hiểu biết, tôi không thấy ông ta về lần nào. Thỉnh thoảng bạn cùng làm về quê thì ông nhắn tin thôi.
- Bà Bacbơranh ơi! Ông nhà vẫn khỏe mạnh, có nhờ tôi về nói cho bà biết là việc làm ăn cũng khá và có gửi ít tiền về đây. Bà đếm lại xem!
Chỉ có thế thôi. Bà Bacbơranh cũng đành biết có thế là đủ: chồng bà mạnh giỏi, công việc đều, làm ăn khá. Ông Bacbơranh ở mãi Pari không về, không phải là trong gia đình có chuyện xích mích gì đâu. Việc bất hòa không phải là nguyên nhân cuộc xa vắng đó. Ông phải ở luôn Pari vì công việc bắt buộc, chỉ có thế thôi. Khi già ông sẽ trở về. Với số tiền góp nhặt, dành dụm, vợ chồng ông sẽ khỏi bị đói rét khi tuổi già sức yếu.
Một buổi chiều về tháng Mười Một, trời sắp tối, có một người đàn ông lạ mặt, đến đứng ngoài bờ giậu. Tôi ở trên hè đang bẻ củi chà là. Người ấy đứng ngoài nghển đầu vào hỏi tôi có phải đây là nhà bà Bacbơranh.
Tôi mời ông ta vào. Ông khách đẩy cửa làm cho sợi dây buộc kêu cót két rồi bước vào.
Ông ta lấm như vùi. Những vẩy bùn chỗ khô, chỗ ướt bám từ đầu xuống chân. Trông thấy thế, ai cũng hiểu rằng ông ta đã vất vả trên những con đường lầy lội. Nghe có tiếng người, mẹ tôi chạy ra thì vừa gặp ông ta đang vào. Ông ta nói:
- Tôi đem tin từ Pari về đây!
Đó là một câu rất quen tai, nhưng câu đó nghe khác hẳn giọng nói các câu mấy lần trước thường kèm thêm những tin: "Ông ấy khỏe mạnh, làm ăn khá".
Mẹ tôi chắp tay lại và kêu to:
- Trời ơi! Chắc có tin chẳng lành cho ông Giê-rôm nhà tôi rồi!
- Phải đấy! Bà đừng lo sợ quá. Ông nhà bị thương, may không chết. Nhưng có lẽ rồi thành tật. Hiện giờ ông nằm nhà thương. Tôi nằm giường bên cạnh. Nhân tôi về quê, ông bảo đi qua nhắn giúp. Thôi, chào bà, tôi không thể ở lâu được, vì còn phải đi ba dặm nữa, mà trời đã sắp tối rồi.
Mẹ tôi muốn biết tường tận hơn nên đã mời ông khách ở lại ăn cơm. Đường thì xấu, mà người ta lại bảo trong rừng có nhiều chó sói, nên ông ta cũng vui lòng ở lại. Ông ta ngồi trong góc cạnh lò sưởi, vừa ăn vừa kể lại cho chúng tôi nghe.
Ông Bacbơranh bị giàn giáo xây nhà đổ sập xuống đè phải. Xét ra lúc bấy giờ không phải việc ông ở đấy, nên chủ thầu không chịu bồi thường. Ông khách nói thêm:
- Thực không may! Phải kẻ tinh khôn hơn, có lẽ họ tìm cách đòi được tiền trợ cấp suốt đời. Nhưng ông nhà thì chẳng được đồng nào.
Ông ta vừa sấy đôi ống quần cứng cộp vì bùn khô lại, vùa nhắc lại câu "Thực không may!" với một vẻ buồn thành thực như tỏ ra rằng nếu vào địa vị ông, ông sẽ vui lòng xin cưa phăng đi một chân hòng đòi khoản trợ cấp suốt đời. Để kết thúc câu chuyện, ông nói:
- Tuy nhiên, tôi đã khuyên ông nhà đệ đơn kiện chủ thầu.
Mẹ tôi nói:
- Kiện thì tốn kém lắm!
- Phải, nhưng lúc được kiện thì cũng bõ!
Mẹ tôi muốn đi Pari xem sao, nhưng đi là cả một sự phiền phức vì đường sá xa xôi và tốn nhiều tiền.
Sáng hôm sau, chúng tôi đến hỏi ý kiến linh mục làng. Cha bảo để xét xem mẹ tôi ra đó có lợi ích gì, thì hãy nên đi. Rồi cha viết thư cho cha tuyên úy ở nhà thương ông Bacbơranh nằm điều trị. Mấy hôm sau, cha nhận được thư trả lời, bảo mẹ tôi không phải đi, chỉ cần gửi ít tiền ra cho ông để kiện chủ thầu.
Ngày, tháng qua, thỉnh thoảng lại có thư về hỏi tiền. Lá thư cuối cùng khẩn bách hơn, bảo nếu hết tiền thì đem bán con bò sữa đi mà gửi.
Những ai đã sống ở nhà quê, mới biết có bao nhiêu khổ não, đau đớn trong hai tiếng "bán bò sữa".
Đối với nhà động vật học, bò là giống nhai lại; dưới con mắt của du khách, đó là con vật tô điểm cho phong cảnh nên thơ mỗi khi nó nghếch cái mồm đẫm sương trên thảm cỏ; với trẻ con ở tỉnh, bò là nguồn cà phê sữa, bánh phó-mát kem. Nhưng đối với dân quê, còn có những điều hơn thế. Nhà dù nghèo đến thế nào, khó đến thế nào, nếu trong chuồng có được một con bò cái, thì nhất định không phải nhịn đói.
Chỉ với một cái dây thừng để dài hay quấn gọn trên sừng là đủ để một đứa trẻ có thể chăn bò trên những con đường đầy cỏ xanh non, nơi không thuộc về ai. Rồi chiều đến, cả gia đình có đủ bơ để nấu súp, đủ sữa để dầm khoai. Cha, mẹ, con cái, người lớn cũng như trẻ con, mọi người đều sống nhờ con bò.
Mẹ tôi và tôi, sống rất no đủ nhờ con bò của chúng tôi, ngoài sữa ra không hề cần đến thịt thà. Con bò cái đó không những là vú nuôi của chúng tôi, nó còn là một người bạn chân tình nữa. Ta chớ tưởng con bò là một con vật không biết gì, trái lại, nó là giống rất thông minh và có nhiều đức tính ngày thêm nảy nở do sự huấn luyện mà ra. Chúng tôi vuốt ve nó, nói chuyện với nó, nó hiểu chúng tôi. Bằng đôi mắt to tròn, dịu hiền, nó có thể tỏ cho chúng tôi biết ý muốn hoặc sự cảm biết của nó. Nói tóm lại, chúng tôi yêu nó và nó cũng mến chúng tôi.
Thế mà chúng tôi phải lìa bỏ nó, lìa nhau vì phải bán nó mới làm cho ông Bacbơranh vừa lòng.
Hôm sau, một người lái đến. Sau khi ngắm nghía con Russet, rồi vừa sờ nắn, vừa lắc đầu nói đi nói lại đến trăm lần là con bò này chẳng vừa ý ông ta chút nào, bò nhà nghèo, khó bán lại, đã ít sữa mà sữa lại xấu. Sau cùng, ông ta cũng cố gắng mua, cốt để tỏ lòng tốt muốn giúp đỡ bà Bacbơranh là một người đàn bà đảm đang.
Tội nghiệp cho con Russet. Hình như nó cũng biết câu chuyện vừa diễn ra, nên không chịu ra khỏi chuồng và kêu rống lên.
Người lái tháo cái roi vẫn quàng ở cổ, đưa cho tôi và bảo:
- Em vào phía sau đánh cho nó ra.
Mẹ tôi bảo:
- Đừng làm thế! Rồi cầm lấy dây, mẹ tôi nói nhẹ nhàng:
- Russet ra đây! Ngoan!
Con Russet không dám kháng cự nữa. Ra đến đường cái, người lái buộc dây bò vào sau xe, thế là nó phải chạy theo ngựa.
Chúng tôi trở về nhà, vẫn còn nghe thấy tiếng bò kêu, lâu lâu mới hết.
Thế là chẳng còn sữa, chẳng còn bơ. Từ nay, sáng ăn bánh suông, chiều ăn khoai chấm muối.
Bán bò được mấy hôm thì đến ngày lễ "Tuần chay". Năm ngoái, cũng ngày này, mẹ tôi đã làm một bữa bánh rán, bánh sữa rất ngon. Tôi ăn lấy ăn để, mẹ tôi tỏ vẻ sung sướng vô cùng.
Bấy giờ chúng tôi còn Russet, nó cho sữa pha bột, cho bơ để bỏ chảo. Bây giờ không còn Russet nữa, hết bơ, hết sữa, hết ngày "Tuần chay". Tôi nghĩ mà buồn.
Nhưng mẹ tôi đã đem lại cho tôi một sự ngạc nhiên. Không phải vay mượn ai, bà đã xin hàng xóm người này một chén sữa, người kia một miếng bơ. Khoảng trưa tôi về nhà, thấy bà đang lúi húi đổ bột vào chảo sành lớn. Tôi lại gần mẹ tôi và nói:
- A! Nhà có bột!
Mẹ tôi vừa cười vừa đáp:
- Có chứ! Bột đấy! Chính bột mì đấy! Rémi, con xem bột có mịn không?
Lòng tôi muốn hỏi bột đó dùng để làm gì, nhưng không dám nói ra. Tôi cũng muốn nhắc hôm nay là ngày lễ "Tuần chay", nhưng sợ làm mẹ tôi phiền lòng. Chợt mẹ tôi hỏi:
- Đố con biết bột dùng để làm gì?
- Làm bánh mì.
- Làm gì nữa?
- Nấu cháo sữa.
- Gì nữa?
- Trời! Con không biết!
- Có, con biết đấy. Nhưng con là đứa trẻ ngoan, nên con không nói đấy thôi. Con biết hôm nay thứ ba, ngày "Tuần chay" được ăn bánh rán, bánh sữa. Nhưng con thấy nhà hết bơ, hết sữa nên con không dám nhắc đến. Phải không?
- Ôi! Mẹ...
- Mẹ biết trước thế. Nên mẹ đã sắp đặt để đến ngày lễ con khỏi phải buồn tủi. Con nhìn trong thùng gỗ xem.
Tôi vội tới mở mạnh nắp ra, thì quả thấy nào sữa, nào bơ, nào trứng, nào khoai. Mẹ tôi bảo:
- Lấy trứng ra đây cho mẹ làm! Con đi gọt khoai đi!
Trong khi tôi thái khoai, mẹ tôi đập trứng cho vào bột, đánh đều, rồi thỉnh thoảng lại trộn vào một thìa sữa. Khi bột đã hòa xong, mẹ tôi đặt chậu lên đống tro nóng để đến chiều làm, vì bữa tối chúng tôi mới dùng đến. Tôi xin thú thật rằng ngày hôm đó tôi thấy dài quá và nhiều lần tôi vào bếp mở trộm tấm khăn phủ chậu bột ra nhìn. Mẹ tôi gắt:
- Đừng mở! Bột mì bị lạnh vào không nở đâu!
Nhưng tôi thấy bột vẫn nở tốt. Nhiều chỗ phồng lên và trên mặt có thứ nước như nước dùng. Bột lên men sao mà thơm thế, nức mùi trứng và sữa. Mẹ tôi bảo:
- Con bẻ cho mẹ một ít củi vụn, để lửa cháy cho đượm và không có khói.
Không cần phải bảo đến hai lần, tôi vào bếp luôn vì đã nóng ruột lắm rồi. Trong giây lát, một ngọn lửa to đã bốc lên trong lò. Ánh sáng chiếu khắp căn bếp. Mẹ tôi liền lấy chảo ở trên tường xuống, đặt lên lò:
- Lấy bơ cho mẹ.
Tôi đem bơ ra, mẹ tôi lấy mũi dao xén một miếng bằng quả hồ đào và bỏ vào chảo, bơ chảy ra và kêu xèo xèo. A! Bơ thơm ngon quá vì đã lâu tôi không ngửi thấy mùi. Đồng thời, tôi lại được nghe một khúc nhạc vui tai do lửa reo và tiếng mỡ nổ tí tách trên lò.
Trong khi tôi chăm chú nghe những âm thanh đó, thì hình như có tiếng bước chân ngoài sân. Ai lại có thể đến ám bên ta trong giờ này? Có lẽ bà hàng xóm sang xin lửa chăng?
Nhưng tôi cũng chẳng để ý đến việc đó, vì mẹ tôi đang múc ở chậu ra một thìa bột trắng tinh đổ vào chảo. Lúc này không phải là lúc nghĩ đến chuyện khác.
Tiếng gậy chạm vào ngưỡng cửa, rồi bỗng nhiên cánh cửa mở toang ra. Không ngoảnh cổ lại, bà Bacbơranh hỏi:
- Ai đấy?
Một người đàn ông bước vào. Nhờ ánh đèn đỏ, tôi trông rõ người đó mặc một cái áo blu trắng, tay chống chiếc gậy to. Người đó nói giọng chương chướng:
- Đây cũng ăn lễ "Tuần chay" à? Cứ làm đi.
Mẹ tôi bắc chảo ra, vội kêu to:
- A! Ông đã về đấy à?
Xong mẹ tôi cầm cánh tay tôi, đẩy tôi lại chỗ ông ta, ông đứng dừng lại. Mẹ tôi bảo tôi:
- Cha con đấy!
➖ ➖ ➖
Sans Famille
~~~
À Lucie Malot.
Pendant que j'ai écrit ce livre, j'ai constamment pensé à toi, mon enfant, et ton nom m'est venu à chaque instant sur les lèvres. - Lucie sentira-t-elle cela ? - Lucie prendra-t-elle intérêt à cela? Lucie, toujours. Ton nom, prononcé si souvent, doit donc être inscrit en tête de ces pages : je ne sais la fortune qui leur est réservée, mais quelle qu'elle soit, elles m'auront donné des plaisirs qui valent tous les succès, - la satisfaction de penser que tu peux les lire, – la joie de te les offrir.
HECTOR MALOT.
PREMIÈRE PARTIE
I
Au village.
Je suis un enfant trouvé.
Mais jusqu'à huit ans j'ai cru que, comme tous les autres enfants, j'avais une mère, car lorsque je pleurais, il y avait une femme qui me serrait si doucement dans ses bras, en me berçant, que mes larmes s'arrêtaient de couler.
Jamais je ne me couchais dans mon lit, sans qu'une femme vînt m'embrasser, et, quand le vent de décembre collait la neige contre les vitres blanchies, elle me prenait les pieds entre ses deux mains et elle restait à me les réchauffer en me chantant une chanson, dont je retrouve encore dans ma mémoire l'air, et quelques paroles.
Quand je gardais notre vache le long des chemins herbus ou dans les brandes, et que j'étais surpris par une pluie d'orage, elle accourait au-devant de moi et me forçait à m'abriter sous son jupon de laine relevé qu'elle me ramenait sur la tête et sur les épaules.
Enfin quand j'avais une querelle avec un de mes camarades, elle me faisait conter mes chagrins, et presque toujours elle trouvait de bonnes paroles pour me consoler ou me donner raison.
Par tout cela et par bien d'autres choses encore, par la façon dont elle me parlait, par la façon dont elle me regardait, par ses caresses, par la douceur qu'elle mettait dans ses gronderies, je croyais qu'elle était ma mère.
Voici comment j'appris qu'elle n'était que ma nourrice.
Mon village, ou pour parler plus justement, le village où j'ai été élevé, car je n'ai pas eu de village à moi, pas de lieu de naissance, pas plus que je n'ai eu de père et de mère, le village enfin où j'ai passé mon enfance se nomme Chavanon ; c'est l'un des plus pauvres du centre de la France.
Cette pauvreté, il la doit non à l'apathie ou à la paresse de ses habitants, mais à sa situation même dans une contrée peu fertile. Le sol n'a pas de profondeur, et pour produire de bonnes récoltes il lui faudrait des engrais ou des amendements qui manquent dans le pays. Aussi ne rencontre-t-on (ou tout au moins ne rencontrait-on à l'époque dont je parle) que peu de champs cultivés, tandis qu'on voit partout de vastes étendues de brandes dans lesquelles ne croissent que des bruyères et des genêts. Là où les brandes cessent, les landes commencent; et sur ces landes élevées les vents âpres rabougrissent les maigres bouquets d'arbres qui dressent çà et là leurs branches tordues et tourmentées.
Pour trouver de beaux arbres, il faut abandonner les hauteurs et descendre dans les plis du terrain, sur les bords des rivières, où dans d'étroites prairies poussent de grands châtaigniers et des chênes vigoureux.
C'est dans un de ces replis de terrain, sur les bords d'un ruisseau qui va perdre ses eaux rapides dans un des affluents de la Loire que se dresse la maison où j'ai passé mes premières années.
Jusqu'à huit ans, je n'avais jamais vu d'homme dans cette maison ; cependant ma mère n'était pas veuve, mais son mari qui était tailleur de pierre, comme un grand nombre d'autres ouvriers de la contrée, travaillait à Paris, et il n'était pas revenu au pays depuis que j'étais en âge de voir ou de comprendre ce qui m'entourait. De temps en temps seulement, il envoyait de ses nouvelles par un de ses camarades qui rentrait au village.
- Mère Barberin, votre homme va bien; il m'a chargé de vous dire que l'ouvrage marche fort, et de vous remettre l'argent que voilà ; voulez-vous compter ?
Et c'était tout. Mère Barberin se contentait de ces nouvelles : son homme était en bonne santé ; l'ouvrage donnait ; il gagnait sa vie.
De ce que Barberin était resté si longtemps à Paris, il ne faut pas croire qu'il était en mauvaise amitié avec sa femme. La question de désaccord n'était pour rien dans cette absence. Il demeurait à Paris parce que le travail l'y retenait ; voilà tout. Quand il serait vieux, il reviendrait vivre près de sa vieille femme, et avec l'argent qu'ils auraient amassé, ils seraient à l'abri de la misère pour le temps où l'âge leur aurait enlevé la force et la santé.
Un jour de novembre, comme le soir tombait, un homme, que je ne connaissais pas, s'arrêta devant notre barrière. J'étais sur le seuil de la maison occupé à casser une bourrée. Sans pousser la barrière, mais en levant sa tête par-dessus en me regardant, l'homme me demanda si ce n'était pas là que demeurait la mère Barberin.
Je lui dis d'entrer.
Il poussa la barrière qui cria dans sa hart, et à pas lents il s'avança vers la maison.
Jamais je n'avais vu un homme aussi crotté ; des plaques de boue, les unes encore humides, les autres déjà sèches, le couvraient des pieds à la tête, et à le regarder l'on comprenait que depuis longtemps il marchait dans les mauvais chemins.
Au bruit de nos voix, mère Barberin accourut, et au moment où il franchissait notre seuil, elle se trouva face à face avec lui.
- J'apporte des nouvelles de Paris, dit-il.
C'étaient là des paroles bien simples et qui déjà plus d'une fois avaient frappé nos oreilles, mais le ton avec lequel elles furent prononcées ne ressemblait en rien à celui qui autrefois accompagnait les mots : "Votre homme va bien, l'ouvrage marche."
- Ah ! mon Dieu ! s'écria mère Barberin en joignant les mains, un malheur est arrivé à Jérôme.
- Eh bien, oui, mais il ne faut pas vous rendre malade de peur ; votre homme à été blessé voilà la vérité ; seulement il n'est pas mort. Pourtant il sera peut-être estropié. Pour le moment il est à l'hôpital. J'ai été son voisin de lit, et comme je rentrais au pays il m'a demandé de vous conter la chose en passant. Je ne peux pas m'arrêter, car j'ai encore trois lieues à faire et la nuit vient vite.
Mère Barberin, qui voulait en savoir plus long, pria l'homme de rester à souper ; les routes étaient mauvaises ; on parlait de loups qui s'étaient montrés dans les bois ; il repartirait le lendemain matin.
Il s'assit dans le coin de la cheminée et tout en mangeant, il nous raconta comment le malheur était arrivé : Barberin avait été à moitié écrasé par des échafaudages qui s'étaient abattus, et comme on avait prouvé qu'il ne devait pas se trouver à la place où il avait été blessé, l'entrepreneur refusait de lui payer aucune indemnité.
- Pas de chance, le pauvre Barberin, dit-il, pas de chance ; il y a des malins qui auraient trouvé là-dedans un moyen pour se faire faire des rentes, mais votre homme n'aura rien.
Et tout en séchant les jambes de son pantalon qui devenait raide sous leur enduit de boue durcie, il répétait ce mot : "pas de chance"avec une peine sincère, qui montrait que pour lui, il se fût fait volontiers estropier dans l'espérance de gagner ainsi de bonnes rentes.
- Pourtant, dit-il en terminant son récit, je lui ai donné le conseil de faire un procès à l'entrepreneur.
- Un procès, cela coûte gros.
- Oui, mais quand on le gagne !
Mère Barberin aurait voulu aller à Paris, mais c'était une terrible affaire qu'un voyage si long et si coûteux.
Le lendemain matin nous descendîmes au village pour consulter le curé. Celui-ci ne voulut pas la laisser partir sans savoir avant si elle pouvait être utile à son mari. Il écrivit à l'aumônier de l'hôpital où Barberin était soigné, et quelques jours après il reçut une réponse, disant que mère Barberin ne devait pas se mettre en route, mais qu'elle devait envoyer une certaine somme d'argent à son mari, parce que celui-ci allait faire un procès à l'entrepreneur chez lequel il avait été blessé.
Les journées, les semaines s'écoulèrent et de temps en temps il arriva des lettres qui toutes demandaient de nouveaux envois d'argent ; la dernière, plus pressante que les autres, disait que s'il n'y avait plus d'argent, il fallait vendre la vache pour s'en procurer.
Ceux-là seuls qui ont vécu à la campagne avec les paysans savent ce qu'il y a de détresses et de douleurs dans ces trois mots : "vendre la vache."
Pour le naturaliste, la vache est un animal ruminant ; pour le promeneur, c'est une bête qui fait bien dans le paysage lorsqu'elle lève au-dessus des herbes son mufle noir humide de rosée ; pour l'enfant des villes, c'est la source du café au lait et du fromage à la crème ; mais pour le paysan, c'est bien plus et bien mieux encore. Si pauvre qu'il puisse être et si nombreuse que soit sa famille, il est assuré de ne pas souffrir de la faim tant qu'il a une vache dans son étable. Avec une longe ou même avec une simple hart nouée autour des cornes, un enfant promène la vache le long des chemins herbus, là où la pâture n'appartient à personne, et le soir la famille entière a du beurre dans sa soupe et du lait pour mouiller ses pommes de terre : le père, la mère, les enfants, les grands comme les petits, tout le monde vit de la vache.
Nous vivions si bien de la nôtre, mère Barberin et moi, que jusqu'à ce moment je n'avais presque jamais mangé de viande. Mais ce n'était pas seulement notre nourrice qu'elle était, c'était encore notre camarade, notre amie, car il ne faut pas s'imaginer que la vache est une bête stupide, c'est au contraire un animal plein d'intelligence et de qualités morales d'autant plus développées qu'on les aura cultivées par l'éducation. Nous caressions la nôtre, nous lui parlions, elle nous comprenait, et de son côté, avec ses grands yeux ronds pleins de douceur, elle savait très-bien nous faire entendre ce qu'elle voulait ou ce qu'elle ressentait.
Enfin nous l'aimions et elle nous aimait, ce qui est tout dire.
Pourtant il fallut s'en séparer, car c'était seulement par "la vente de la vache"qu'on pouvait satisfaire Barberin.
Il vint un marchand à la maison et après avoir bien examiné la Roussette, après l'avoir longuement palpée en secouant la tête d'un air mécontent, après avoir dit et répété cent fois qu'elle ne lui convenait pas du tout, que c'était une vache de pauvres gens qu'il ne pourrait pas revendre, qu'elle n'avait pas de lait, qu'elle faisait du mauvais beurre, il avait fini par dire qu'il voulait bien la prendre, mais seulement par bonté d'âme et pour obliger mère Barberin qui était une brave femme.
La pauvre Roussette, comme si elle comprenait ce qui se passait, avait refusé de sortir de son étable et elle s'était mise à meugler.
- Passe derrière et chasse-la, m'avait dit le marchand en me tendant le fouet qu'il portait passé autour de son cou.
- Pour ça non, avait dit mère Barberin.
Et, prenant la vache par la longe, elle lui avait parlé doucement.
- Allons, ma belle, viens, viens.
Et Roussette n'avait plus résisté ; arrivée sur la route, le marchand l'avait attachée derrière sa voiture, et il avait bien fallu qu'elle suivît le cheval.
Nous étions rentrés dans la maison. Mais longtemps encore nous avions entendu ses beuglements.
Plus de lait, plus de beurre. Le matin un morceau de pain ; le soir des pommes de terre au sel.
Le mardi gras arriva justement peu de temps après la vente de Roussette ; l'année précédente, pour le mardi gras, mère Barberin m'avait fait un régal avec des crêpes et des beignets ; et j'en avais tant mangé, tant mangé qu'elle en avait été toute heureuse.
Mais alors nous avions Roussette, qui nous avait donné le lait pour délayer la pâte et le beurre pour mettre dans la poêle.
Plus de Roussette, plus de lait, plus de beurre, plus de mardi gras ; c'était ce que je m'étais dit tristement.
Mais mère Barberin m'avait fait une surprise ; bien qu'elle ne fût pas emprunteuse, elle avait demandé une tasse de lait à l'une de nos voisines, un morceau de beurre à une autre et quand j'étais rentré, vers midi, je l'avais trouvée en train de verser de la farine dans un grand poêlon en terre.
- Tiens ! de la farine, dis-je en m'approchant d'elle.
- Mais oui, fit-elle en souriant, c'est bien de la farine, mon petit Rémi, de la belle farine de blé ; tiens, vois comme elle fleure bon.
Si j'avais osé, j'aurais demandé à quoi devait servir cette farine ; mais précisément parce que j'avais grande envie de le savoir, je n'osais pas en parler. Et puis d'un autre côté je ne voulais pas dire que je savais que nous étions au mardi gras pour ne pas faire de la peine à mère Barberin.
- Qu'est-ce qu'on fait avec de la farine ? dit-elle me regardant.
- Du pain.
- Et puis encore ?
- De la bouillie.
- Et puis encore ?
- Dame… Je ne sais pas.
- Si, tu sais bien. Mais comme tu es un bon petit garçon, tu n'oses pas le dire. Tu sais que c'est aujourd'hui mardi gras, le jour des crêpes et des beignets. Mais comme tu sais aussi que nous n'avons ni beurre, ni lait, tu n'oses pas en parler. C'est vrai ça ?
- Oh ! mère Barberin.
- Comme d'avance j'avais deviné tout cela, je me suis arrangée pour que mardi gras ne te fasse pas vilaine figure. Regarde dans la huche.
Le couvercle levé, et il le fut vivement, j'aperçus le lait, le beurre, des œufs et trois pommes.
- Donne-moi les œufs, me dit-elle, et, pendant que je les casse, pèle les pommes.
Pendant que je coupais les pommes en tranches, elle cassa les œufs dans la farine et se mit à battre le tout, en versant dessus, de temps en temps, une cuillerée de lait.
Quand la pâte fut délayée, mère Barberin posa la terrine sur les cendres chaudes, et il n'y eut plus qu'à attendre le soir, car c'était à notre souper que nous devions manger les crêpes et les beignets.
Pour être franc, je dois avouer que la journée me parut longue et que plus d'une fois j'allai soulever le linge qui recouvrait la terrine.
- Tu vas faire prendre froid à la pâte, disait mère Barberin, et elle lèvera mal.
Mais elle levait bien, et de place en place se montraient des renflements, des sortes de bouillons qui venaient crever à la surface. De toute la pâte en fermentation se dégageait une bonne odeur d'œufs et de lait.
- Casse de la bourrée, me disait-elle ; il nous faut un bon feu clair, sans fumée.
Enfin, la chandelle fut allumée.
- Mets du bois au feu ! me dit-elle.
Il ne fut pas nécessaire de me répéter deux fois cette parole que j'attendais avec tant d'impatience. Bientôt une grande flamme monta dans la cheminée, et sa lueur vacillante emplit la cuisine.
Alors mère Barberin décrocha de la muraille la poêle à frire et la posa au-dessus de la flamme.
- Donne-moi le beurre.
Elle en prit, au bout de son couteau, un morceau gros comme une petite noix et le mit dans la poêle, où il fondit en grésillant.
Ah ! c'était vraiment une bonne odeur qui chatouillait d'autant plus agréablement notre palais que depuis longtemps nous ne l'avions pas respirée.
C'était aussi une joyeuse musique celle produite par les grésillements et les sifflements du beurre.
Cependant, si attentif que je fusse à cette musique, il me sembla entendre un bruit de pas dans la cour.
Qui pouvait venir nous déranger à cette heure ? Une voisine sans doute, pour nous demander du feu.
Mais je ne m'arrêtai pas à cette idée, car mère Barberin qui avait plongé la cuiller à pot dans la terrine, venait de faire couler dans la poêle une nappe de pâte blanche, et ce n'était pas le moment de se laisser aller aux distractions.
Un bâton heurta le seuil, puis aussitôt la porte s'ouvrit brusquement.
- Qui est-là ? demanda mère Barberin sans se retourner.
Un homme était entré, et la flamme qui l'avait éclairé en plein m'avait montré qu'il était vêtu d'une blouse blanche et qu'il tenait à la main un gros bâton.
- On fait donc la fête ici ? Ne vous gênez pas, dit-il d'un ton rude.
- Ah ! mon Dieu ! s'écria mère Barberin en posant vivement sa poêle à terre, c'est toi, Jérôme ?
Puis me prenant par le bras elle me poussa vers l'homme qui s'était arrêté sur le seuil.
- C'est ton père.
➖ ➖ ➖