
Họ hì hụi tập tễnh xuống bờ suối, và có lần gã đi đầu trong số hai người loạng choạng giữa lớp đá lởm chởm. Họ mệt, yếu lử lả và mặt họ thuỗn ra cái vẻ nhẫn nại do chịu đựng gian khổ đã lâu. Họ đeo những bó nặng bọc mềm có quai đeo vào vai. Những bọc này còn có những đai đầu quàng qua trán cho đỡ nặng. Mỗi người mang một cây súng trường. Họ bước đi trong tư thế lom khom, vai chúi hẳn về đằng trước, đầu còn nhô xa hơn, mắt cúi gằm xuống đất.
- Giá như chúng mình có hai viên đạn ở chỗ giấu của chúng mình - người thứ hai nói.
Giọng gã hoàn toàn vô cảm một cách buồn tẻ. Gã nói không một chút hào hứng; và người đi đầu trật trà trật trưỡng trong dòng suối trắng như sữa sủi bọt trên những mô đá, không buồn trả lời.
Gã kia theo sát gót hắn ta. Họ không cởi giày, tất gì hết, mặc dầu nước giá lạnh, lạnh đến nỗi đau cả mắt cá và bàn chân tê cóng. Có những chỗ, nước xô vào đầu gối họ, và cả hai chệnh choạng quờ tìm chỗ đặt chân.
Gã đi sau trượt chân trên một phiến đá nhẵn lì, suýt ngã, nhưng hết sức cố gắng gượng dậy, đồng thời ré lên một tiếng kêu đau. Gã có vẻ lả đi, chóng mặt và trong khi lảo đảo, giơ bàn tay rảnh ra như muốn níu vào không khí. Khi đứng vững rồi, gã bước tiếp nhưng lại lảo đảo và suýt ngã lần nữa. Rồi gã đứng im và nhìn người kia, tay này không ngoảnh đầu lại lấy một lần.
Gã đứng im cả một phút như bàn luận với chính mình, rồi lên tiếng gọi:
- Này Bil, mình bị trẹo mắt cá rồi.
Bil vẫn ngật ngưỡng đi qua dòng nước trắng sữa. Hắn không quay lại nhìn. Gã kia ngó theo hắn đi và tuy mặt gã vẫn đờ đẫn như trước, nhưng cặp mắt thì lại như mắt một con nai bị thương.
Người nọ tập tễnh lên bờ bên kia và tiếp tục đi thẳng không nhìn lại. Gã ở giữa dòng ngó theo. Môi gã run rẩy khiến lớp lông nâu phủ bên trên động đậy rõ rệt. Cả lưỡi gã cũng thè ra liếm môi.
- Bil ! - gã gọi to
Đó là tiếng kêu khẩn cầu của một người khoẻ mạnh trong cơn quẫn bách, nhưng Bil không ngoái đầu lại. Gã kia nhìn theo hắn đi, tập tễnh đến tức cười và loạng quạng tiến dần từng bước theo bờ dốc thoải hướng tới nét lượn mềm in lên nền trời của trái đồi thấp. Gã nhìn theo cho đến khi Bil đi qua đỉnh đồi và biến mất. Rồi gã xoay hướng nhìn và từ từ đảo mắt vòng quanh thế giới còn lại với gã giờ đây khi Bil đã đi khỏi.
Gần chân trời, vầng dương thoi thóp mờ mờ, gần như bị những đám sương mù và hơi không ra hình thù gì che khuất, gây một cảm giác về tảng khối và đậm đặc không đường nét hoặc không cụ thể. Gã rút đồng hồ ra xem, dồn trọng lượng toàn thân trên một chân. Đã bốn giờ và vì đận này đã gần cuối tháng bảy hay đầu tháng tám - trong vòng một, hai tuần nay, gã không còn nhớ đích xác ngày tháng - gã biết là mặt trời lúc này ang áng chỉ hướng tây bắc. Gã nhìn về phía nam và biết rằng đâu đó bên kia những trái đồi heo hút này, là Hồ Gấu Lớn; gã cũng biết rằng ở phía ấy vòng tròn bắc cực cắt ngang vùng hoang địa Canada. Con suối mà gã đang đứng giữa dòng là một nguồn tiếp nước ra sông Mỏ Đồng, sông này lại chảy theo hướng bắc đổ vào Vịnh Đăng Quang và Bắc Băng Dương. Gã chưa bao giờ tới đó, nhưng gã đã thấy nơi ấy một lần trên một tấm bản đồ của công ty Vịnh Hatsơn.
Một lần nữa, mắt gã lại đảo khắp một vong cái thế giới quanh gã. Một quang cảnh không lấy gì làm phấn khởi. Đâu đâu cũng là đường chân trời mềm mại. Các trái đồi đều thấp. Chẳng có cây to, cây nhỏ cũng chẳng có cỏ, chẳng có gì ngoài một sự tiêu điều mênh mông và ghê gớm, khiến cái sợ mau chóng nhóm lên trong mắt gã.
- Bil ! - gã thì thào, một lần rồi hai lần : - Bil !
Gã co ro giữa dòng nước trắng sữa, như thể khoảng không rộng lớn đang ép lên gã với một sức mạnh áp đảo, đè dí gã một cách thô bạo với sự uy nghi đầy tự mãn của nó. Gã bắt đầu run lên như cơn sốt, cho đến khi cây súng rơi đánh tõm khỏi tay gã. Điều đó có tác dụng khuấy động gã. Gã đấu tranh với nỗi sợ và trấn tĩnh lại, mò xuống nước nhặt cây súng lên. Gã nhích cái bọc qua về phía vai trái, để chuyển bớt một phần trọng lượng khỏi đè lên phía mắt cá bị thương. Rồi gã từ từ và thận trọng tiến vào bờ, mặt nhăn nhó vì đau.
Gã không dừng lại. Với một sự tuyệt vọng như điên, bất kể đau, gã hối hả lên dốc tới tận đỉnh đồi, nơi bạn gã đã đi khuất, dáng vẻ còn tức cười hơn nhiều so với tay bạn tập tễnh, ngật ngưỡng nọ. Nhưng tới đỉnh, gã trông thấy một thung lũng nông, trống vắng sự sống. Gã lại đấu tranh với cái sợ, vượt lên được, nhích thêm cái bọc qua nửa vòng phía vai trái và tiếp tục lảo đảo xuống dốc.
Đáy thung lũng sũng nước được lớp rêu dày, tựa bọt biển, hút xâm xấp trên mặt. Nước ấy, cứ mỗi bước, lại bắn vọt từ dưới chân gã và mỗi lần gã nhấc chân lên, lại nghe kêu đánh oạp khi lớp rêu ướt miễn cưỡng nhả ra. Gã lách đường từ đám lầy này sang đám lầy khác và dò theo dấu chân của người kia, dọc, ngang những gờ đá lô nhô như những hòn đảo nhỏ giữa biển rêu.
Tuy có một mình, nhưng gã không lạc. Gã biết đi quá nữa, gã sẽ đến chỗ có những cây vân sam và linh sam chết nhỏ xíu và quắt queo bên bờ một con hồ nhỏ, Titsinisili, tiếng địa phương có nghĩa là "Vùng đất của những chiếc que nhỏ". Và chảy vào hồ ấy, là một con suối nhỏ, nước không lờ lờ màu trắng sữa. Trên bờ dòng suối này có cỏ bấc, điều này gã nhớ rất rõ, nhưng không có cây to, và gã sẽ ngược theo nó đến đầu nguồn của một đường phân thuỷ. Gã sẽ qua đường phân thuỷ đó, tới đầu nguồn một con suối khác chảy vào sông, ở đấy gã sẽ tìm thấy một chỗ cất giấu dưới một cái xuồng lật sấp, với nhiều phiến đá xếp chồng lên trên. Và trong chỗ cất giấu ấy, sẽ có đạn cho cây súng rỗng không của gã, lưỡi câu và dây câu, một cái lưới nhỏ, tất cả những thứ đó dùng cho việc giết và bẫy mồi làm thức ăn. Gã cũng sẽ tìm thấy bột mì, không nhiều, một miếng thịt lợn và chút ít đậu.
Bil sẽ đợi gã ở đó và họ sẽ chèo xuồng xuôi về nam trên sông Đi-zơ đến Hồ Gấu Lớn. Và họ sẽ xuyên qua hồ về phía nam, cứ phía nam đi miết cho đến khi tới sông Mac-ken-zi. Và lại hướng nam, vẫn hướng nam, họ sẽ tiếp tục đi, trong khi mùa đông hoài công đuổi theo họ, băng đóng trong những xoáy nước, và ngày trở nên lạnh giá và hanh, cứ hướng nam mà tiến, đến một trạm ấm áp nào đó của công ty Vịnh Hat-sơn, ở đó có cây mọc cao và thoáng, ở đó có ê hề đồ ăn, thức uống.
Đó là những ý nghĩ của người đàn ông này, khi gã gắng sức dấn bước. Nhưng dầu nỗ lực mấy về thể xác, gã cũng nỗ lực không kém về tinh thần, cố nghĩ rằng Bil không bỏ gã, rằng Bil chắc chắn sẽ chờ gã ở chỗ cất giấu. Gã buộc phải nghĩ vậy, nếu không thì việc gì phải ráng sức, cứ nằm xuống và chết cho rồi. Và trong khi mặt trời như quả cầu mờ từ từ lặn xuống mé tây bắc, gã điểm qua suốt lượt, nhiều lần, từng phần một chặng đương trốn chạy xuống phía nam của gã và Bil trước khi mùa đông tới. Và gã xem đi xét lại những đồ ăn ở nơi cất giấu ở trạm công ty Vịnh Hat-sơn. Đã hai ngày, gã không ăn gì cả, trong một thời gian dài hơn thế nhiều, gã phải bóp miệng, không có đủ những gì gã muốn ăn. Nhiều lúc, gã cúi xuống nhặt những quả tai tái mọc ở đầm lầy, bỏ vào miệng, nhai và nuốt. Đó là một tí hạt bọc trong một tí cùi nước. Bỏ vào mồm, cùi nước tan ra và hạt nhai găn gắt, đắng nghét. Gã biết quả ấy chẳng bổ béo gì, song cứ kiên nhẫn nhai, với một hi vọng lớn hơn kiến thức và bất chấp kinh nghiệm.
Đến chín giờ, gã vấp ngón chân vào một mô đá và chỉ vì mệt và yếu, gã lảo đảo, quỵ ngã. Gã nằm nghiêng một lúc, không động cựa. Rồi gã rút tay ra khỏi quai đeo bọc và lóng ngóng gượng ngồi dậy. Trời chưa tối hẳn và trong ánh hoàng hôn còn vương lại, gã rờ rẫm quanh, tìm những mảng rêu khô giữa những phiến đá. Khi đã vun lại được một đống, gã đốt lên một ngọn lửa, một ngọn lửa lom rom, lem nhem, và đặt lên một bình thiếc đựng nước để đun sôi.
Gã mở cái bọc và việc đầu tiên là đếm các que diêm. Có sáu mươi bảy que. Gã đếm tới ba lần cho chắc. Gã chia làm nhiều phần, gói bằng giấy dầu, cất một bó vào cái túi đựng thuốc lá đã rỗng không , một bó khác vào đai trong của chiếc mũ nhàu nát, bó thứ ba vào dưới ngực áo sơ mi. Làm xong việc đó, gã chợt hoảng và giở tất cả ra đếm lại. Vẫn còn nguyên sáu mươi bảy que.
Gã hong giầy tất bên bếp lửa cho khô. Đôi giày da đanh rách bươm, ướt sũng. Bít tất nhiều nhỗ thủng, chân gã trầy da cà rướm máu. Mắt cá giần giật và gã xem xét kỹ chỗ đau. Nó đã sưng lên to bằng đầu gối. Gã xé ở một trong hai tấm mền ra một miếng dài và buộc chặt lấy mắt cá. Gã xé thêm nhiều dải khác buộc quanh hai chân thay cả giầy lẫn tất. Rồi gã uống bình nước nóng bốc hơi, lên giây đồng hồ và mò vào giữa hai lớp mền chăn.
Gã ngủ như chết. Bóng tối ngắn ngủi vào khoảng nửa đêm, đến rồi đi. Măth trời lên ở mạn đông bắc, chí ít là ngày đã rạng ở khu vực ấy, vì mặt trời bị những đám mây xám che khuất.
Sáu giờ, gã thức giấc, nằm ngủ bình thản. Gã nhìn thẳng lên bầu trời xám và biết rằng mình đói. Khi chống khuỷu tay xoay người đi, gã giật mình vì một tiếng khịt to và trông thấy một con tuần lộc caribu đực đang nhìn gã với vẻ tò mò cảnh giác. Con vật cách gã không quá mười lăm mét và lập tức trong óc gã bật lên hình ảnh và vị thơm ngon của một miếng bit-tết caribu rán xèo trên bếp lửa. Như cái máy, gã với tay ra lấy cây súng rỗng không nhằm và bóp cò. Con tuần lộc khịt khịt và nhảy đi, móng nện lóc cóc khi chạy qua những mô đá.
Gã rủa một tiếng rồi quẳng cây súng rỗng không khỏi mình. Gã rên to khi bắt đầu nhổm người đứng dậy. Đó là một công việc chậm chạp và gay go. Các khớp xương của gã như những bản lề gỉ. Chúng ngúc ngắc khó khăn trong hốc xương vì cọ sát nhiều, và mỗi động tác gập vào hay duỗi ra đều chỉ thực hiện được với sự cố gắng ghê gớm. Cuối cùng khi gã điều khiển được đôi chân, lại mất độ một phút nữa để đứng thẳng lên được, đứng như tư thế của một con người.
Gã bò lên một cái gò nhỏ và nhìn khắp xung quanh. Không có cây to, cũng chẳng có cây bụi, chẳng có gì ngoài một biển rêu xám, lác đác điểm xuyết bằng những tảng đá xám, những hồ nhỏ màu xám, những suối nhỏ màu xám. Bầu trời cũng xám. Không có nắng, cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của mặt trời; gã không còn biết đâu là phương bắc và gã đã quên đêm qua gã đã đến chỗ này bằng cách nào. Nhưng gã không lạc. Điều đó thì gã biết. Chẳng bao lâu gã sẽ đến Vùng đất của những chiếc que nhỏ. Gã cảm thấy nó nằm bên trái đâu đấy không xa, có thể ngay sau trái đồi thấp sắp tới.
Gã quay lại xếp cái bọc cho vuông vức để lên đường. Gã kiểm tra cho chắc chắn là vẫn còn ba gói diêm riêng rẽ, tuy nhiên gã không mất thì giờ đếm lại. Nhưng gã có lần chần, cân nhắc về một cái túi da nai bè bè. Nó không to. Gã có thể che dấu nó dưới hai bàn tay mình. Gã biết nó nặng mười lăm "pao" - bằng phần còn lại của cái bọc- và nó làm gã băn khoăn. Cuối cùng, gã để nó sang một bên và cuộn cái bọc lại. Gã ngừng lại, đăm đăm nhìn cái túi da nai bè bè. Gã nhặt vội nó lên, đưa mắt nhìn quanh ra chiều thách thức, tựa hồ sự hoang sơ đang chực cướp nó đi vậy, và khi gã đứng dậy để loạng choạng đi vào ngày mới, thì nó đã được gói gọn trong cái bọc trên lưng.
Gã rẽ sang bên trái, thỉnh thoảng dừng lại để ăn những trái cây đầm lầy. Mắt cá gã đã cứng ngắc, bước đi cà nhắc hơn, nhưng cái đau ấy hồ như chẳng thấm gì so với cái đau hành hạ dạ dày. Những cơn đói quặn thắt ruột thắt gan cứ nhay huỷ cho đến khi gã không thể giữ cho đầu óc tập trung vào lộ trình gã phải theo để tới Vùng đất của những chiếc que nhỏ. Những trái cây đầm lầy không làm sao giảm nhẹ được sự nhay nghiến đấy, mà chỉ làm cho lưỡi và vòm miệng gã đau rộp lên.
Gã tới một thung lũng, tại đó gà gô núi đá vỗ cánh rào rào bay lên từ những gờ đá và bãi lầy. "Kéc ... kéc ... kéc ", chúng kêu như vậy. Gã lấy đá ném nhưng không trúng con nào. Gã đặt cái bọc xuống đất và rón rén đến gần chúng như mèo định lén bắt chim sẻ. Đá nhọn cứa qua ống quần đến độ đầu gối gã để lại một vết máu. Nhưng cái đau ấy chìm trong cái đau đói bụng. Gã bò ngoằn ngoèo trên lớp rêu ướt, quần áo ướt đẫm, người rét run; những cơn sốt cuồng đòi ăn quá lớn, khiến gã không còn biết tới cảm giác đó. Và lũ gà gô vẫn bay lên rào rào trước mặt gã, đến khi tiếng "kéc ... kéc" của chúng trở thành một sự trêu chọc đối với gã, và gã rủa chúng, quát ngậu lên với chúng.
Một lần, gã bò tới một con, chắc đang ngủ. Mãi đến lúc nó vụt lên từ hốc đá ngay trước mặt gã, gã mới trông thấy nó. Gã chộp một cái, cũng bất thần như con gà gô bay lên, và trong tay gã còn lại ba cái lông đuôi. Nhìn theo nó bay, gã thấy căm thù nó như thể nó đã hại gã một điều gì ghê gớm lắm. Rồi gã quay lại và khoác cái bọc lên vai.
Giờ này qua giờ khác gã đi vào những thung lũng hoặc những chỗ đất thấp lầy còn nhiều thú săn hơn nữa. Một đàn tuần lộc caribu đi qua, có tới hơn hai chục con, ở trong tầm súng như trêu ngươi. Gã cảm thấy một khao khát cuồng dại muốn đuổi theo chúng, tin chắc mình có thể bắt được chúng. Một con cáo đen tiến về phía gã, mồm ngậm một chú gà gô. Gã la lên. Đó là một tiếng kêu ghê sợ, nhưng con cáo hốt hoảng nhảy đi, không buông rơi con gà gô.
Xế chiều, gã lần theo một con suối, nước lờ lờ chất vôi, chảy qua những vạt cỏ bấc rải rác. Nắm chặt những bụi cỏ bấc ấy ở quãng gần rễ, gã nhổ lên một cái gì từa tựa một đọt hành non, không lớn hơn chiếc đinh ván. Nó mơn mởn và răng gã cắm ngập vào đó, gặm rau ráu tưởng chừng sẽ là món ăn tuyệt diệu. Nhưng thớ nó rắn cấc. Nó gồm những sợi đẫm nước, như những trái cây bãi lầy nọ, và chẳng có chất dinh dưỡng gì. Gã quẳng cái bọc xuống và quỳ gối bò vào đám cỏ bấc, gặm và nhai trệu trạo như trâu bò.
Gã rất mệt và nhiều lúc muốn nghỉ, nằm ềnh ra và ngủ; nhưng gã vẫn bị thôi thúc dấn bước liên tục bởi cái đói hơn là bởi nỗi mong muốn tới được Vùng đất của những chiếc que nhỏ. Gã sục những vũng nước mò ếch nhái và lấy móng tay đào đất tìm giun, mặc dầu gã biết ở mạn cực bắc này chẳng làm gì có ếch nhái cũng như giun.
Gã hoài công soi mói từng vũng nước, cho đến khi hoàng hôn đến, gã mới phát hiện ra một con cá lẻ loi, bằng cỡ một con cá tuế, trong một cái vũng như vậy. Gã thọc tay xuống nước đến tận vai, nhưng con cá lẩn thoát. Gã với cả hai tay ra chộp nó, khuấy tung lớp bùn đục lờ dưới đáy. Thế là nước đục ngầu lên khiến gã không thấy nó đâu nữa và buộc phải đợi cho bùn lắng xuống.
Cuộc săn bắt tiếp tục, cho đến khi nước lại đục ngầu lên. Nhưng gã không thể đợi được nữa. Gã tháo chiếc xô thiếc và bắt đầu tát nước. Thoạt đầu gã tát như điên, bắn vung cả lên người, và hắt nước gần quá thành thử lại chảy về vũng. Rồi gã làm thận trọng hơn, cố gắng bình tĩnh, mặc dầu tim đập vào thành ngực thình thịch và hai tay run lên. Được nửa giờ, vũng nước gần cạn khô. Chỉ còn không đầy một cốc nước. Mà chẳng thấy cá đâu. Gã tìm ra một khe nứt giữa lớp đá, nó đã chui qua đó trốn sang cái vũng bên cạnh to hơn, một cái vũng mà có bỏ cả một ngày, một đêm gã cũng chẳng thể tát cạn. Nếu có biết cái khe nứt ấy thì gã ắt đã lấy một hòn đá bịt lại từ đầu và giờ đây con cá ắt đã là của gã.
Nghĩ thế, gã vật mình vật mẩy trên nền đất ướt. Mới đầu gã khóc khe khẽ một mình, rồi khóc to tướng với cả cảnh hoang sơ vô tình bao quanh gã; và hồi lâu sau, người gã còn rung lên những tiếng nấc khan.
Gã đốt một đống lửa, uống hàng ca nước nóng cho ấm người; và hạ trại trên một gờ đá như đêm trước. Việc làm sau cùng của gã là lo cho số diêm thật khô ráo và lên dây đồng hồ. Những tấm mền thì ướt và dính nháp. Mắt cá gã đau giần giật. Nhưng gã chỉ biết rằng gã đói và, qua giấc ngủ náo động, gã mơ thấy tiệc lớn, tiệc nhỏ và thức ăn bày la liệt theo đủ mọi cách có thể tưởng tượng được.
Gã thức dậy, rét run và nôn nao. Không một chút nắng. Màu xám của đất và trời đã trở nên đậm hơn, sâu hơn. Một ngọn gió rét căm căm thổi và những bông tuyết đầu tiên làm trắng xoá những đỉnh đồi. Không khí quanh gã dày đặc thêm và quánh dần trong khi gã đốt một đống lửa và đun thêm nước. Tuyết ướt, gần như mưa, và những bông tuyết vừa to vừa sũng nước. Thoạt đầu, mới chạm đất, chúng đã chảy liền, nhưng mỗi lúc một xuống nhiều, phủ kín mặt đất, dập tắt lửa làm hỏng cả chỗ rêu dự trữ làm chất đốt của gã.
Điều đó thành một tín hiệu cho gã khoác cái bọc lên vai và ngật ngưỡng bước tiếp, không biết là đi đến đâu. Gã không bận tâm đến Vùng đất của những chiếc que nhỏ, cũng như đến Bil và chỗ cất giấu dưới cái xuồng lật sấp bên dòng sông Đi-zơ nữa. Thống ngự gã lúc này là động từ "ăn". Gã đang đói điên người. Gã chẳng để ý gì đến hướng đường gã đang đi theo, chừng nào hướng ấy dẫn gã qua những bãi thấp. Gã dò dẫm qua tuyết ướt lần tới những trái cây đầm lầy mọng nước và đi bằng cảm giác trong khi gã nhổ những rễ cỏ bấc. Nhưng cái món này thật vô vị không thoả mãn được gì cả. Gã tìm được một thứ cỏ có vị chua và kiếm được bao nhiêu cỏ ấy, gã ăn tuốt, cũng chẳng nhiều nhặn gì, vì nó là loại cây bò sát, dễ bị lấp dưới tuyết dày hàng mấy phân.
Đêm ấy, gã không có lửa, cũng không có nước nóng, gã chui vào chăn ngủ giấc ngủ đứt quãng vì đói. Tuyết chuyển thành mưa lạnh. Gã tỉnh dậy nhiều lần để cảm thấy nó rơi trên khuôn mặt úp sấp của mình. Ngày đến, một ngày đen xám và không có mặt trời. Mưa đã tạnh. Cái nhói buốt của cơn đói đã biến đi. Về sự háo hức muốn có cái ăn, mức nhạy cảm đã kiệt. Bụng gã âm ỉ một cái đau nặng trịch, song nó không quấy rầy gã nhiều như trước. Gã trở nên duy lý hơn, và một lần nữa gã lại quan tâm chủ yếu tới Vùng đất của những chiếc que nhỏ và chỗ cất giấu ở bờ sông Đir.
Gã xé mảnh còn lại của một tấm mền thành từng dải để buộc đôi bàn chân tướp máu. Gã cũng buộc chặt lại chỗ mắt cá bị thương và chuẩn bị cho một ngày đường. Khi đụng đến cái bọc, gã ngừng lại hồi lâu suy tính về chiếc túi da nai bè bè, nhưng rốt cuộc vẫn mang nó đi theo.
Dưới mưa, tuyết đã tan chảy và chỉ còn những đỉnh đồi là phô màu trắng. Mặt trời ló ra và gã định vị được các hướng địa bàn, mặc dầu giờ đây gã biết là mình đã lạc. Có lẽ, trong khi lang thang những hôm trước, gã đã quá lệch về bên trái. Giờ đây gã ghé sang phải cho cân lại độ có thể sai lệch khỏi hướng chính gã cần đi theo.
Mặc dầu cái đói không còn hành hạ dữ dội như trước nữa, nhưng gã nhận biết rằng mình rất yếu, gã buộc phải dừng lại nghỉ luôn, để nhá những trái cây đầm lầy và những vạt cỏ bấc. Gã cảm thấy lưỡi mình khô và to tướng như mọc đầy một lớp bông nhỏ li ti, và có vị đắng ngắt trong mồm. Tim gã làm rầy gã ghê gớm. Đi được ít phút, nó đã bắt đầu nện không thương xót thình thịch, thình thịch, thình thịch, rồi nhảy loạn xạ trong một thôi đập xao xuyến, đau đớn, khiến gã nghẹn thở, lử lả và chóng cả mặt. Đến giữa trưa, gã tìm được hai con cá tuế ở một cái vũng to. Không thể tát cạn nó được, nhưng bây giờ gã bình tĩnh hơn và xoay xở bắt được chúng vào trong cái xô thiếc. Chúng không dài hơn ngón tay út của gã, nhưng gã không đói lắm. Cái đau âm ỉ trong bụng gã đã lắng xuống và yếu đi. Như thể dạ dày gã đang ngủ gà ngủ gật vậy. Gã ăn cá sống, thận trọng nhai một cách vất vả, vì việc ăn là một hành động thuần tuý lý trí. Tuy gã chả muốn ăn chút nào, nhưng gã biết mình phải ăn để mà sống.
Chiều đến, gã bắt được thêm ba con cá tuế, ăn hai con và để dành một con cho bữa điểm tâm sáng hôm sau. Mặt trời đã sấy khô những mảng rêu rải rác và gã có thể sưởi ấm bằng nước nóng. Hôm ấy gã không đi được quá mười dặm; và hôm sau, cất bước khi nào tim gã cho phép, gã đi được không quá năm dặm. Nhưng dạ dày gã lại không hề làm gã khó chịu tí nào. Nó đã ngủ. Một điều nữa: gã đang ở một vùng đất lạ và tuần lộc caribu tại đây tăng nhiều hơn, cả sói nữa. Lắm lúc tiếng hú của chúng vang qua cảnh tiêu điều, và một lần gã trông thấy ba con lẩn tránh trước mặt gã, trên đường đi.
Lại một đêm nữa; và sáng hôm sau, duy lý hơn, gã cởi dây da buộc cái túi da nai bè bè. Từ mệng túi đã mở, chảy tuôn một dòng bụi vàng thô và quặng vàng. Gã chia đại khái số vàng ra làm hai phần, giấu một nửa vào một gờ đá nhô ra, gói nửa kia vào một mảnh chăn và bỏ trở vào túi. Gã cũng bắt đầu dùng những giải của cái chăn còn lại để buộc chân. Gã vẫn níu giữ cây súng vì ở chỗ cất giấu bên sông Đi-zơ có đạn.
Đó là một ngày đầy sương mù, và ngày hôm ấy cái đói lại thức dậy trong gã. Gã rất yếu và bị chóng mặt đến nỗi đôi lúc hoa mắt không thấy gì. Bây giờ, đối với gã, vấp ngã không phải là chuyện không bình thường, và một lần bị vấp ngã, gã ngã trúng giữa một tổ gà gô núi. Có bốn chú gà con mới nở được một ngày, những đốm sống phập phồng, vừa một miếng, không hơn, và gã ăn chúng ngấu nghiến, nhét chúng vào mồm nhai sống nuốt tươi ràu rạu giữa hai hàm răng như nhai vỏ trứng. Gà gô mẹ lồng lộn quanh gã, kêu rầm rĩ. Gã dùng cây súng như một chiếc chuỳ để đánh nó, nhưng nó tránh xa khỏi tầm với. Gã ném ba hòn đá về phía nó và một hòn ngẫu nhiên trúng, làm gãy một bên cánh. Rồi nó chao chao chạy đi, kéo lê chiếc cánh gẫy, gã đuổi theo sau.
Mấy chú gà con chỉ làm cho gã thêm háu đói. Gã nhảy loi choi một cách vụng về với vết thương mắt cá chân, chốc chốc lại ném đá và kêu la khàn giọng, lắm lúc lại lặng lẽ chạy lật đà lật đật, mỗi lần ngã lại hằm hằm bò dậy một cách kiên nhẫn, hoặc đưa tay lên dụi mắt khi cơn chóng mặt đe doạ quật ngã gã.
Cuộc săn đuổi đưa gã qua bãi đất lầy xuống đáy thung lũng và gã bắt gặp những vết chân trên lớp rêu sũng nước. Không phải vết chân gã, gã có thể thấy rõ là thế. Chắc là vết chân Bil. Song gã không thể dừng lại, vì con gà gô mẹ vẫn chạy tiếp. Gã sẽ bắt nó trước, rồi quay lại dò tìm điều tra sau.
Gã quần con gà gô mẹ kiệt sức, nhưng gã cũng tự làm mình kiệt sức. Con gà nằm nghiêng thở dốc. Gã cũng nằm nghiêng thở hồng hộc, chỉ cách nó khoảng ba, bốn mét mà không sao bò được tới nó. Và khi gã hồi tỉnh lại, nó cũng hồi sức, vỗ cánh chạy khỏi tầm với, khi gã vươn bàn tay đói lả về phía nó. Cuộc săn đuổi lại tiếp diễn. Đêm xuống hẳn và gà gô mẹ chạy thoát. Yếu ớt, gã loạng quạng vấp và lao đầu ngã sấp mặt xuống, toạc cả má, chiếc bọc vẫn trên lưng. Hồi lâu, gã không động cựa; rồi gã xoay nghiêng người, lên dây đồng hồ và nằm đó đến sáng.
Lại một ngày mù sương. Nửa cái màn cuối cùng đã xé ra để làm giẻ bọc chân. Gã không thấy lại được dấu chân Bil. Chẳng hề gì. Cái đói đang đôn thúc gã quá xá ... có điều ... có điều gã băn khoăn không biết Bil có lạc nốt không. Đến trưa, cái bọc trở nên quá nặng, không chịu nổi. Gã lại chia đôi số vàng, lần này thì đơn giản là dốc toẹt một nửa xuống đất. Đến chiều, gã vứt nốt số còn lại và gã chỉ còn độc nửa cái chăn, cái xô thiếc và cây súng.
Một huyễn cảm bắt đầu quấy rầy gã. Gã tin rằng mình còn một viên đạn. Nó nằm trong ổ nòng súng và gã đã quên béng mất. Mặt khác, gã luôn biết rằng ổ đạn rỗng không. Thế nhưng huyễn cảm ấy vẫn dai dẳng. Gã xua đuổi nó hàng giờ liền, rồi mở súng ra và thấy tận mắt là ổ đạn rỗng tuếch. Sự thất vọng cũng cay đắng như thể gã thực sự chờ đợi thấy viên đạn trong đó.
Gã lụi hụi đi tiếp được nửa giờ thì cơn huyễn cảm lại nổi dậy lần nữa, gã lại cố dẹp đi mà nó vẫn dằng dai cho đến lúc gã mở súng tự thuyết phục là chẳng có gì. Đôi lúc đầu gã phiêu diêu đi xa hơn, và gã lụi hụi đi như thằng người máy, với những ý nghĩ ngộ nghĩnh và ngông cuồng kỳ lạ gặm nhấm óc như những con sâu. Nhưng những cuộc du ngoạn khỏi thực tại ấy đến ngắn ngủi, vì bao giờ những dằn vặt của cái đói cào cấu cũng gọi gã trở lại. Một lần, đang phiêu du như vậy, thình lình gã bị kéo giật trở lại bởi một cảnh khiến gã suýt ngất xỉu. Trước mặt gã sừng sững một con ngựa. Một con ngựa! Gã không thể tin ở mắt mình. Một màn sương dày rủ trong mắt gã, điểm những chấm sáng lấp lánh. Gã dụi mắt như điên để nhìn cho rõ và nhận ra không phải một con ngựa mà là một con gấu lớn màu nâu. Con vật đang ngắm nghía gã với một vẻ tò mò hung hãn.
Gã đã nâng súng lên vai rồi mới nhớ ra là không có đạn. Gã hạ súng xuống và rút con dao săn bên hông ra khỏi vỏ. Trước mặt gã là thịt và sự sống. Gã lướt ngón tay cái trên lưỡi dao. Lưỡi sắc, mũi nhọn. Gã sẽ lao cả người vào con gấu và giết chết nó. Nhưng tim gã bắt đầu báo động: thình thịch, thình thịch, thình thịch. Rồi tiếp theo là nhịp nhảy lên cuồng loạn và sức nén ép như một vành đai sắt thít quanh trán, cơn chóng mặt len lỏi bò vào trong đó.
Sự can đảm tuyệt vọng của gã bị một nỗi sợ dâng trào mãnh liệt đánh bật ra. Gã đang yếu thế này, nhỡ con vật tấn công gã thì sao? Gã đứng thẳng lên trong tư thế hùng dũng nhất, nắm chặt con dao và nhìn chằm chằm vào con gấu. Con gấu vụng về tiến lên vài bước, lùi lại và trút ra một tiếng gầm gừ thăm dò. Nếu con người chạy ắt nó sẽ đuổi theo. Nhưng con người không chạy. Lúc này, trong gã dấy lên lòng can đảm của khiếp sợ. Gã cũng gầm gừ, man rợ, gớm ghiếc thốt lên nỗi sợ vốn là thích hợp với sự sống và vốn xoắn xuýt quanh những rễ sâu nhất của sự sống.
Con gấu né sang một bên lủi đi, gầm gừ đe doạ. Bản thân nó cũng kinh hãi trước cái sinh vật bí ẩn hiên ngang thẳng đứng, không biết sợ ấy. Nhưng con người không động đậy. Anh ta đứng sững như một pho tượng cho đến khi cơn nguy hiểm qua hẳn, bấy giờ mới chịu khuất phục run bắn lên một hồi và quỵ xuống lớp rêu ướt.
Gã định thần lại và đi tiếp, bây giờ lại sợ theo cách khác. Không phải là sợ sẽ chết một cách thụ độngvì không có cái ăn, mà sợ sẽ bị tiêu diệt một cách cuồng bạo trước khi cái đói làm suy kiệt nốt chút xíu cố gắng cuối cùng trong gã nhằm vươn tới sự sống sót. Vùng này có chó sói. Suốt cảnh tiêu điều này, vẳng tới vẳng lui tiếng sói hú, dệt cả bầu không khí thành một tấm màn đe doạ có thể sờ mó thấy, đến độ gã bỗng giơ tay lên trời, đẩy không khí ra khỏi mình, như thể nó là thành vải của một cái lều bị gió thổi ép vào.
Thỉnh thoảng, sói đi từng tốp hai hoặc ba con, kéo qua đường đi của gã. Nhưng chúng tránh gã. Chúng không đủ đông, vả lại, chúng đang săn tìm tuần lộc caribu, tụi này không đánh trả, trong khi cái sinh vật đi thẳng đứng này có thể vừa cào vừa cắn.
Xế chiều, gã bắt gặp những ống xương rải rác ở chỗ lũ chó sói đã giết một con thú. Đám xương tàn, trước đó một giờ, còn là một chú tuần lộc Caribu non kêu quang quác, chạy nhảy và đầy sức sống. Gã ngắm đống xương đã lóc sạch thịt và nhẵn bóng, với sinh bào hồng hồng bên trong còn chưa hết hẳn. Liệu có khả năng, gã cũng có thể như thế trước khi ngày tàn không? Sự sống là thế ư? Một sự hão huyền và thoảng qua. Chỉ có sống là đau đớn mà thôi. Chết thì chẳng đau gì hết. Chết là ngủ. Có nghĩa là thôi, là nghỉ ngơi. Thế thì tại sao gã lại không bằng lòng chết.
Nhưng gã không lý luận rông dài. Gã đang ngồi xổm trên lớp rêu, với một cái xương trong miệng, mút mát những vụn sinh bào còn nhuộm hồng hồng chất xương. Cái vị thịt ngọt, loãng và thoáng thấy thoáng mất gần giống như một hồi ức làm gã tức điên. Gã ngoạm hàm vào những đốt xương và nhai rào rạo. Lúc thì xương gãy, lúc thì răng gã gãy. Rồi gã bỏ xương vào giữa những hòn đá, nghiền nát nhừ và nuốt chửng. Trong lúc vội vàng gã giã cả vào ngón tay mình, và có lúc lại ngạc nhiên thấy những ngón tay không đau lắm khi bị kẹp vào đá.
Rồi đến những ngày tuyết xuống, mưa rơi kinh khủng. Gã không còn biết mình hạ trại lúc nào, nhổ trại lúc nào. Gã đi ban đêm cũng nhiều bằng đi ban ngày. Gã nghỉ luôn ở nbất cứ chỗ nào gã ngã xuống, bò đi tiếp bất cứ lúc nào ngọn lửa sống đang tàn trong gã bùng lên và đỡ mù mịt hơn. Với tư cách là một con người, gã thôi không ráng sức nữa. Chính là cái sinh lực trong gã không muốn chết, nó thôi thúc gã dấn bước. Gã không đau đớn. Thần kinh gã đã cùn mòn, tê dại đi trong khi đầu óc gã đầy viễn ảnh kỳ lạ và những giấc mơ thú vị.
Nhưng gã vẫn mút và nhai những đốt xương nát của con tuần lộc non, mà những dư tàn nhỏ nhất của nó đã vun vén lại và đã mang theo. Gã không vượt đồi, cũng chẳng qua những đường phân thuỷ nữa mà cứ tự động theo một con suối lớn chảy qua một thung lũng rộng và nông. Gã không nhìn thấy con suối ấy cũng như thung lũng ấy. Gã không nhìn thấy gì ngoài những tấm ảnh. Hồn và xác hoặc đi hoặc bò cạnh nhau, nhưng riêng rẽ, vì sợi dây buộc chúng lại với nhau quá mảnh.
Gã thức dậy minh mẫn, nằm ngủ trên một gờ đá. Mặt trời chiếu rực rỡ và ấm áp. Xa xa gã nghe thấy tiếng những con tuần lộc non kêu quác quác. Gã nhớ mang máng là đã có mưa, có gió, có tuyết rơi, nhưng còn về việc gã đã bị dãi gió dầm mưa hai ngày hay hai tuần thì gã không biết.
Gã nằm gần như không động đậy một lúc, ánh mặt trời hiền hoà chảy tràn trên gã và toả hơi ấm thấm đẫm cái thân hình khốn khổ của gã. Một ngày đẹp, gã nghĩ. Chưa chừng gã có thể xác định được mình đang ở đâu cũng nên. Bằng một cố gắng cực nhọc gã xoay người nằm nghiêng. Phía dưới gã, một con sông rộng và lờ đờ chảy. Vẻ lạ lẫm không quen thuộc của nó khiến gã bối rối. Gã chậm rãi đưa mắt nhìn theo dòng sông uốn lượn thành những khúc rộng giữa những ngọn đồi trọc đìu hiu, đìu hiu hơn, trơ trụi hơn và lún thấp hơn mọi trái đồi gã gặp cho đến nay. Chậm rãi, từ tốn, không chút khích động hoặc chỉ với sự quan tâm hết sức bình thường, gã theo dõi dòng chảy của con sông lạ về phía đường chân trời, và thấy nó đổ vào một vùng biển sáng lấp lánh. Gã vẫn không thấy náo nức gì. Thật khác thường, gã nghĩ một tấm ảnh hay một ảo giác, có vẻ là một tấm ảnh thì đúng hơn, một trò ranh ma do tâm trí rối loạn của gã. Gã chắc chắn vậy khi nhìn thấy một con tàu nằm thả neo giữa vùng biển lấp lánh. Gã nhắm mắt một lát, rồi lại mở ra. Kỳ lạ thay, tấm ảnh ấy vẫn còn! Thế nhưng lại không kỳ lạ. Gã biết chẳng làm gì có biển hay tàu nào giữa vùng đất cằn này, cũng như gã đã biết chẳng có viên đạn nào trong cây súng rỗng không.
Gã nghe thấy một tiếng khụt khịt đằng sau mình, một tiếng thở dốc gần như bị nghẹn, hoặc một tiếng ho. Rất chậm chạp, do quá yếu và người cứng đờ, gã xoay nghiên mình sang mé kia. Gã không trông thấy gì gần kề, nhưng gã kiên nhẫn chờ. Lại thấy tiếng khịt và ho, và in bóng giữa hai tảng đá lởm chởm cách đó không đầy sáu mét, gã nhận ra cái đầu xám của một con sói. Hai cái tai nhọn không dựng hoắt lên như gã thường thấy ở những con sói khác, đôi mắt mờ và vằn tia máu, cái đầu như gục xuống rũ rượi và tuyệt vọng. Con vật chớp mắt lia lịa dưới nắng. Nó có vẻ ốm. Khi gã nhìn, nó lại khịt và ho.
Chí ít điều này cũng là thực tế, gã nghĩ và quay người sang mé kia để có thể thấy được sự thực của cái thế giới ban nãy bị tấm ảnh che phủ. Nhưng biển vẫn lấp lánh đằng xa và con tàu nhìn rõ mồn một. Rút cục, nó có phải là thực tại không? Gã nhắm mắt một hồi lâu suy nghĩ, thế rồi vỡ lẽ ra. Gã đã hướng về phía đông bắc, tách xa khỏi đường phân thuỷ sông Đi-zơ và đi vào thung lũng Mỏ Đồng. Cái con sông rộng và lờ đờ này là sông Mỏ Đồng. Vùng biển lấp lánh kia là Bắc Băng Dương. Con tàu kia là một tàu đánh cá voi từ cửa sông Mêchkengi lạc về hướng đông, viễn đông, và nó nằm bỏ neo trong vịnh Đăng Quang. Gã nhớ lại bản đồ của công ty Vịnh Hat-sơn mà gã đã xem cách đây đã lâu, và gã thấy mọi sự trở nên rõ ràng, hợp lý.
Gã ngồi dậy và tập trung chú ý vào những công việc trước mắt. Những dải mền bọc chân đã mòn xơ ra và đôi chân gã chỉ còn là những cục thịt trầy trụa không ra hình thù gì. Cái chăn cuối cùng của gã đã đi tong. Cả súng lẫn dao đều đã mất. Gã đã đánh mất cái mũ ở đâu đó, cùng với bó diêm dắt ở vành trong, nhưng số diêm trước ngực vẫn nguyên vẹn và khô ráo trong cái túi đựng thuốc lá sợi, bọc bằng giấy dầu. Gã nhìn đồng hồ. Nó chỉ mười một giờ và vẫn đang chạy. Hiển nhiên là gã vẫn lên giây đều.
Gã bình tĩnh và tự chủ. Tuy cực kỳ yếu sức, nhưng gã không cảm thấy đau đớn gì cả. Gã không đói. Ý nghĩ về thức ăn thậm chí cũng chẳng thú vị gì đối với gã và mọi điều gã làm đều do lý trí đơn thuần. Gã xé ống quần đến tận đầu gối để buộc chân. Không biết làm sao mà gã vẫn giữ được cái xô thiếc. Gã sẽ uống một chút nước nóng trước khi bắt đầu làm cái mà gã thấy trước sẽ là một chặng hành trình ghê gớm để tới con tàu.
Gã cử động chậm chạp. Run rẩy như bị chứng liệt. Khi bắt đầu thu thập rêu khô lại, gã không nhấc nổi chân được nữa. Gã thử đi thử lại rồi đành bò quanh bằng tay và đầu gối vậy. Một lần gã bò đến gần con sói ốm. Con vật miễn cưỡng lê ra khỏi đường đi của gã, liếm những chỗ nứt nẻ trên mình bằng một cái lưỡi hầu như không còn đủ sức để uốn nữa. Gã nhận thấy lưỡi nó không có cái màu đỏ lành mạnh thông thường. Nó nâu nâu vàng ệch và như phủ một lớp nhầy ram ráp và gần như khô.
Sau khi uống một ca nước nóng, gã thấy mình có thể đứng dậy và thậm chí có thể đi với mức một người sắp chết có thể đi. Cứ khoảng một phút, gã lại phải nghỉ. Bước chân gã khật khưỡng, y hệt như bước chân của con sói theo sau gã. Và đêm ấy, khi bóng tối xoá mờ vùng biển lấp lánh, gã biết mình mới chỉ tiến gần thêm nó được độ hơn bốn dặm, không hơn.
Suốt đêm, gã nghe thấy tiếng ho của con sói ốm, và thỉnh thoảng, tiếng quác quác của bầy tuần lộc non. Xung quanh gã đều có sự sống, sự sống cường tráng, rất sinh động và tốt lành, và gã biết con sói ốm bám theo con người ốm với hy vọng là con người sẽ chết trước. Sáng dậy, mở mắt ra, gã thấy nó đứng lom khom, đuôi cụp giữa hai chân như một con chó khốn khổ, thiểu não. Nó run cầm cập trong làn gió sớm lạnh giá và nhe răng cười buồn nản khi con người nói với nó bằng một giọng không hơn gì một tiếng thì thầm khàn khàn.
Mặt trời lên rực rỡ và suốt buổi sáng, con người chập chững vưà đi vừa ngã về phía con tàu trên biển lấp lánh. Thời tiết thật tuyệt. Đó là cỡ thu muộn ngắn ngủi ở vùng vĩ độ cao. Nó có thể kéo dài một tuần. Mai kia, nó có thể qua đi.
Đến chiều, gã bắt gặp một vệt đường. Đó là dấu vết của một người khác. Không đi mà bò bốn chân. Gã nghĩ đó có thể là Bil, song chỉ nghĩ một cách đờ đẫn, không chút quan tâm. Gã chẳng tò mò muốn tìm hiểu gì. Thực tế, cảm giác và xúc động đã từ bỏ gã. Gã không còn biết đau. Dạ dày và thần kinh gã đã ngủ rồi. Tuy nhiên, sự sống trong gã vẫn thúc gã dấn tới. Gã thì rất mệt, nhưng nó lại không chịu chết. Chính vì nó không chịu chết mà gã vẫn cứ ăn trái cây đầm lầy và cá tuế, uống nước nóng và thận trọng canh chừng con sói ốm.
Gã đi theo dấu vết của người kia, anh chàng bò lê ấy, và chẳng mấy chốc đến chỗ tận cùng của nó: một chút xương mới lóc hết thịt, quanh đó lớp rêu sũng nước in hằn vết chân của nhiều con sói. Gã trông thấy một cái túi da nai bè bè, hệt như túi của gã, bị xé toạc ra bằng răng nhọn. Gã nhấc nó lên, tuy nó hầu như quá nặng đối vời những ngón tay yếu ớt của gã. Bil đã mang nó đến phút cuối cùng. Ha ha! Gã sẽ cười vào mũi Bil. Gã sẽ sống sót và sẽ mang cái túi đến con tàu trên biển lấp lánh kia. Tiếng cười của gã khàn khàn và ghê rợn như tiếng quạ kêu, và con sói ốm cũng cất tiếng tru sầu thảm hoà theo. Con người bỗng nhiên ngừng bặt. Làm sao gã có thể cười vào mũi Bil nếu như cái này là Bil, đám xương trắng hồng và sạch bong này là Bil?
Gã quay đi. Ồ, Bil đã bỏ rơi gã, nhưng gã sẽ không lấy số vàng này, cũng chẳng mút xương Bil làm gì. Tuy nhiên, nếu là trường hợp ngược lại, ắt Bil sẽ chẳng tha, gã vừa chệnh choạng bước tiếp vừa nghĩ vậy.
Gã tới một vũng nước. Cúi xuống tìm cá tuế, gã bỗng giật đầu lại đằng sau như bị ong châm. Gã đã trông thấy mặt mình phản chiếu trong đó. Nó gớm ghiếc đến nỗi khua được sự nhạy cảm trong gã thức dậy đủ lâu để thấy bàng hoàng. Có ba con cá tuế ở trong vũng, vũng quá rộng không tát cạn được, và sau mấy lần lấy cái xô thiếc vục bắt không được, gã bỏ cuộc. Gã sợ vì quá yếu sức, có thể ngã tòm xuống và chết đuối. Chính vì lý do ấy mà gã không dám cưỡi lên một trong những khúc gỗ dạt vào những hố cát ven bờ sông để buông trôi theo dòng nước.
Hôm ấy, gã đã giảm được ba dặm khoảng cách giữa gã và con tàu. Hôm sau được hai dặm, vì bây giờ gã cũng bò, như Bil đã từng bò. Và đến hết ngày thứ năm, con tàu vẫn cách độ bảy dặm thì gã thậm chí mỗi ngày không vượt nổi một dặm. Cữ thu muộn vẫn còn, và gã vẫn tiếp tục bò rồi lại ngất xỉu, loanh quanh luẩn quẩn hoài, và con sói ốm vẫn ho và khụt khịt sau gót gã. Đầu gối gã đã trầy cả thịt như bàn chân gã, và mặc dầu gã đã cởi áo sơ mi làm đệm lót cho cho đầu gối, gã vẫn để lại đằng sau một vệt đỏ trên rêu và đá. Một lần, ngoái nhìn lại, gã thấy con sói thèm thuông liếm vệt máu của gã, và gã hình dung đậm nét cái kết thúc của mình có thể sẽ như thế nào ... trừ phi gã xơi tái được con sói. Thế rồi bắt đầu một tấn bi kịch để tồn tại, khốc liệt chưa từng thấy: một con người ốm phải bò lết, một con sói ốm phải tập tà tập tễnh, hai sinh vật kéo lê thân xác hấp hối qua cảnh hoang sơ, và bên nọ rình cướp sự sống của bên kia.
Giá nó là một con sói khoẻ mạnh, thì hẳn con người cũng chả xem vấn đề hệ trọng đến thế đâu, nhưng nghĩ đến việc phải làm mồi cho dạ dày của cái vật ghê tởm và gần như chết rồi này, gã chẳng ưng chút nào. Gã vốn khó tính. Đầu óc gã lại bắt đầu lang bang và bị những huyễn tượng ám ảnh, trong khi những giây phút sáng suốt trở nên mỗi lúc một hiếm và ngắn hơn.
Một lần, gã tỉnh dậy khỏi một cơn ngất nhờ một tiếng khụt khịt sát bên tai. Con sói khập khiễng nhảy lùi lại, mất thăng bằng và ngã nhào trong cơn suy kiệt. Điều đó thật kỳ lạ, nhưng gã không thấy buồn cười. Thậm chí gã cũng không thấy sợ. Gã đã vượt quá xa những phản ứng đó. Nhưng lúc ấy, trí óc gã sáng suốt, và gã nằm suy tính. Con tàu chỉ còn cách không quá bốn dặm. Gã có thể trông thấy nó rõ ràng khi gã dụi lớp sương mờ khỏi mắt, và gã trông thấy cánh buồm trắng của một con thuyền nhỏ rẽ nước trên biển lấp lánh. Nhưng gã không bao giờ có thể bò nốt bốn dặm ấy. Gã biết vậy. Tuy nhiên rất bình tĩnh trong nhận thức, gã biết mình không thể bò nổi nửa dặm. Và mặc dù thế, gã vẫn muốn sống. Thật là vô lý nếu gã phải chết sau khi chịu đựng tất cả ngần ấy thứ. Số mệnh đòi hỏi gã quá nhiều. Và đến lúc sắp chết, gã từ chối không chịu chết. Có lẽ đó là điều cực kỳ điên rồ, những ngày trong móng vuốt của cái chết, gã lại thách thức cái chết và khước từ không chịu chết.
Gã nhắm mắt lại với sự tĩnh tâm một cách thận trọng. Gã cố vượt lên sự suy nhược như một lớp sóng trào dâng, bập bềnh xô vào mọi ngóc ngách trong người gã. Nó rất giống biển, cái sự suy nhược giết người ấy, nó cứ dâng lên hoài và từng tí một nhấn chìm ý thức gã. Đôi lúc, gã gần như bị chìm nghỉm, loạng quạng vung tay đập chân bơi qua quên lãng. Và một lần nữa, do một phép màu nào đó của tâm hồn, gã lại tìm thấy một mảnh ý chí và rẽ sóng lao vụt đi mạnh hơn.
Không động đậy, gã nằm ngửa, và gã có thể nghe thấy tiếng hít vào thở ra khò khè của con sói ốm mỗi lúc một sát lại gần hơn. Nó tiến lại gần, gần nữa, qua một quãng thời gian tưởng như bất tận và gã không nhúc nhích. Nó đã kề bên tai gã. Cái lưỡi khô sần sùi có vào má gã như giấy ráp. Hai tay gã phóng ra, hay chí ít là gã muốn phóng tay ra. Các ngón tay quắp lại như móng vuốt, nhưng thộp vào quãng không. Sự nhanh nhẹn và chính xác đòi hỏi sức khoẻ, mà gã thì không có sức khoẻ đó.
Sự kiên trì của con sói thật ghê gớm. Sự kiên trì của con người cũng ghê gớm không kém. trong nửa ngày liền, gã nằm im không cựa quậy, đấu tranh để khỏi thiếp đi, chờ con vật định ăn thịt gã. Mà gã cũng muốn ăn thịt nó. Đôi khi, biển-suy-nhược dâng trào trong gã và gã mơ những giấc mơ dài, nhưng suốt thời gian đó, tỉnh hay mơ, gã vẫn chờ tiếng thở khò khè và cái lưỡi thô liếm láp.
Gã không nghe thấy tiếng thở, và truồi dần từ một cơn mơ nào đó đến cảm giác thấy chiếc lưỡi kia lia dọc bàn tay. Gã chờ. Những chiếc nanh ấn khe khẽ, rồi mạnh hơn; con sói đang huy động hết sức tàn trong một cố gắng để cắm ngập răng vào miếng mồi nó đã chờ đợi bao lâu. Nhưng con người đã chờ sẵn từ lâu và bàn tay nát bươm nắm lấy hàm nó. Trong khi con sói vật lộn một cách yếu ớt và bàn tay bóp lại một cách yếu ớt, thì bàn tay kia từ từ trườn qua thành một gọng kìm. Năm phút sau, cả trọng lượng của con người đè lên trên con sói. Hai bàn tay không đủ sức để bóp nghẹt con sói nhưng mặt con người áp sát vào họng con sói và mồm con người đầy những lông. Hết nửa giờ, con người nhận thấy một dòng âm ấm chảy vào họng mình. Cái đó chẳng lấy gì làm thú vị. Nó như chì nóng chảy đọng vào dạ dày gã, và gã được tọng vào hoàn toàn chỉ do ý chí của gã mà thôi. Sau đó con người lăn kềnh ra, nằm ngửa lên và ngủ . . .
. . . Có một số thành viên của đoàn thám hiểm khoa học trên chiếc tàu đánh cá voi Bedfod. Từ trên boong, họ nhận thấy một vật kỳ lạ trên bờ. Vật ấy di chuyển xuôi bãi biển về phía mặt nước. Họ không thể xác định đó là loại gì. Và, vốn là những nhà khoa học, họ trèo vào chiếc xuồng bên sườn tàu, đáp vào bờ để xem cho rõ. Và họ thấy một cái gì còn sống nhưng khó mà có thể gọi là một con người. Nó loà lẫm, không ý thức. Nó oằn oại trên mặt đất như một con sâu kỳ quái. Phần lớn những cố gắng của nó đều vô hiệu. nhưng nó bền bỉ, nó vặn mình, quằn quại và mỗi giờ có lẽ tiến lên được năm sáu mét.
Ba tuần sau, người đàn ông nọ nằm trong một chiếc giường trên tàu đánh cá voi Bedfod, và nước mắt ròng ròng trên đôi má hốc hác, gã kể lại lai lịch mình là ai và đã trải qua những nông nỗi gì. Gã cũng nói lõm ba lõm bõm về mẹ gã, về miền nam Califonia đầy nắng và một ngôi nhà giữa những lùm cam và những khóm hoa.
Ít ngày sau, gã ngồi cùng bàn ăn với những nhà khoa học và các sĩ quan trên tàu. Gã hau háu nhìn cảnh đồ ăn ê hề, bồi hồi theo dõi những thức ăn ấy biến vào miệng những người khác. Cứ mỗi miếng mất đi, trong mắt gã lại hiện lên một vẻ tiếc nuối sâu sắc. Tâm thần gã hoàn toàn lành mạnh, tuy nhiên gã căm ghét họ vào giờ ăn. Gã bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi là lương thực không còn tồn tại lâu dài. Gã hỏi đầu bếp, hầu phòng và thuyền trưởng về lương thực dự trữ. Họ trấn an gã không biết bao nhiêu lần, nhưng gã không thể tin họ, và gã khôn khéo nhòm ngó quanh chỗ hầm kho để thấy tận mắt.
Người ta nhận thấy gã béo ra. Mỗi ngày gã một to xù. Các nhà khoa học lắc đầu là hợp lý. Họ hạn chế gã trong những bữa ăn, nhưng vòng bụng gã vẫn tăng và gã trương phình ra kỳ lạ dưới chiếc áo sơ mi.
Đám thuỷ thủ tủm tỉm cười. Họ biết. Và khi các nhà khoa học cắt người theo dõi gã, họ cũng biết. Họ thấy gã thông thạo đi ra phía trước, sau khi điểm tâm, và lại gần một thuỷ thủ, chìa tay ra như một kẻ hành khất. Tay thuỷ thủ nhe răng cười và đưa cho gã một miếng bích quy. Gã bo bo nắm chặt lấy, nhìn ngắm như một anh hà tiện ngắm vàng, rồi nhét vào ngực áo. Các tay thuỷ thủ khác vừa cười vừa cho như vậy.
Các nhà khoa học vốn kín đáo. Họ để mặc gã. Nhưng họ bí mật xem xét giường của gã. Giường được lót bằng bánh quy khô, đệm được nhồi bằng bánh quy khô, mọi xó xỉnh ngóc ngách đều lèn đầy bánh quy khô. Tuy nhiên, gã không loạn trí. Gã lo đề phòng một cơn đói khác có thể xảy ra, có thể thôi. Rồi gã sẽ qua, các nhà khoa học nói thế. Và quả nhiên, gã qua khỏi thật, trước khi cây neo của tàu Bedfod gieo ùm xuống vịnh San Francisco.
➖➖➖
Love of Life
by Jack London
"This out of all will remain -
They have lived and have tossed:
So much of the game will be gain,
Though the gold of the dice has been lost."
THEY limped painfully down the bank, and once the foremost of the two men staggered among the rough-strewn rocks. They were tired and weak, and their faces had the drawn expression of patience which comes of hardship long endured. They were heavily burdened with blanket packs which were strapped to their shoulders. Head- straps, passing across the forehead, helped support these packs. Each man carried a rifle. They walked in a stooped posture, the shoulders well forward, the head still farther forward, the eyes bent upon the ground.
"I wish we had just about two of them cartridges that's layin' in that cache of ourn," said the second man.
His voice was utterly and drearily expressionless. He spoke without enthusiasm; and the first man, limping into the milky stream that foamed over the rocks, vouchsafed no reply.
The other man followed at his heels. They did not remove their foot-gear, though the water was icy cold - so cold that their ankles ached and their feet went numb. In places the water dashed against their knees, and both men staggered for footing.
The man who followed slipped on a smooth boulder, nearly fell, but recovered himself with a violent effort, at the same time uttering a sharp exclamation of pain. He seemed faint and dizzy and put out his free hand while he reeled, as though seeking support against the air. When he had steadied himself he stepped forward, but reeled again and nearly fell. Then he stood still and looked at the other man, who had never turned his head.
The man stood still for fully a minute, as though debating with himself. Then he called out:
"I say, Bill, I've sprained my ankle."
Bill staggered on through the milky water. He did not look around. The man watched him go, and though his face was expressionless as ever, his eyes were like the eyes of a wounded deer.
The other man limped up the farther bank and continued straight on without looking back. The man in the stream watched him. His lips trembled a little, so that the rough thatch of brown hair which covered them was visibly agitated. His tongue even strayed out to moisten them.
"Bill!" he cried out.
It was the pleading cry of a strong man in distress, but Bill's head did not turn. The man watched him go, limping grotesquely and lurching forward with stammering gait up the slow slope toward the soft sky-line of the low-lying hill. He watched him go till he passed over the crest and disappeared. Then he turned his gaze and slowly took in the circle of the world that remained to him now that Bill was gone.
Near the horizon the sun was smouldering dimly, almost obscured by formless mists and vapors, which gave an impression of mass and density without outline or tangibility. The man pulled out his watch, the while resting his weight on one leg. It was four o'clock, and as the season was near the last of July or first of August, - he did not know the precise date within a week or two, - he knew that the sun roughly marked the northwest. He looked to the south and knew that somewhere beyond those bleak hills lay the Great Bear Lake; also, he knew that in that direction the Arctic Circle cut its forbidding way across the Canadian Barrens. This stream in which he stood was a feeder to the Coppermine River, which in turn flowed north and emptied into Coronation Gulf and the Arctic Ocean. He had never been there, but he had seen it, once, on a Hudson Bay Company chart.
Again his gaze completed the circle of the world about him. It was not a heartening spectacle. Everywhere was soft sky-line. The hills were all low-lying. There were no trees, no shrubs, no grasses - naught but a tremendous and terrible desolation that sent fear swiftly dawning into his eyes.
"Bill!" he whispered, once and twice; "Bill!"
He cowered in the midst of the milky water, as though the vastness were pressing in upon him with overwhelming force, brutally crushing him with its complacent awfulness. He began to shake as with an ague-fit, till the gun fell from his hand with a splash. This served to rouse him. He fought with his fear and pulled himself together, groping in the water and recovering the weapon. He hitched his pack farther over on his left shoulder, so as to take a portion of its weight from off the injured ankle. Then he proceeded, slowly and carefully, wincing with pain, to the bank.
He did not stop. With a desperation that was madness, unmindful of the pain, he hurried up the slope to the crest of the hill over which his comrade had disappeared - more grotesque and comical by far than that limping, jerking comrade. But at the crest he saw a shallow valley, empty of life. He fought with his fear again, overcame it, hitched the pack still farther over on his left shoulder, and lurched on down the slope.
The bottom of the valley was soggy with water, which the thick moss held, spongelike, close to the surface. This water squirted out from under his feet at every step, and each time he lifted a foot the action culminated in a sucking sound as the wet moss reluctantly released its grip. He picked his way from muskeg to muskeg, and followed the other man's footsteps along and across the rocky ledges which thrust like islets through the sea of moss.
Though alone, he was not lost. Farther on he knew he would come to where dead spruce and fir, very small and weazened, bordered the shore of a little lake, the TITCHIN-NICHILIE, in the tongue of the country, the "land of little sticks." And into that lake flowed a small stream, the water of which was not milky. There was rush- grass on that stream - this he remembered well - but no timber, and he would follow it till its first trickle ceased at a divide. He would cross this divide to the first trickle of another stream, flowing to the west, which he would follow until it emptied into the river Dease, and here he would find a cache under an upturned canoe and piled over with many rocks. And in this cache would be ammunition for his empty gun, fish-hooks and lines, a small net - all the utilities for the killing and snaring of food. Also, he would find flour, - not much, - a piece of bacon, and some beans.
Bill would be waiting for him there, and they would paddle away south down the Dease to the Great Bear Lake. And south across the lake they would go, ever south, till they gained the Mackenzie. And south, still south, they would go, while the winter raced vainly after them, and the ice formed in the eddies, and the days grew chill and crisp, south to some warm Hudson Bay Company post, where timber grew tall and generous and there was grub without end.
These were the thoughts of the man as he strove onward. But hard as he strove with his body, he strove equally hard with his mind, trying to think that Bill had not deserted him, that Bill would surely wait for him at the cache. He was compelled to think this thought, or else there would not be any use to strive, and he would have lain down and died. And as the dim ball of the sun sank slowly into the northwest he covered every inch - and many times - of his and Bill's flight south before the downcoming winter. And he conned the grub of the cache and the grub of the Hudson Bay Company post over and over again. He had not eaten for two days; for a far longer time he had not had all he wanted to eat. Often he stooped and picked pale muskeg berries, put them into his mouth, and chewed and swallowed them. A muskeg berry is a bit of seed enclosed in a bit of water. In the mouth the water melts away and the seed chews sharp and bitter. The man knew there was no nourishment in the berries, but he chewed them patiently with a hope greater than knowledge and defying experience.
At nine o'clock he stubbed his toe on a rocky ledge, and from sheer weariness and weakness staggered and fell. He lay for some time, without movement, on his side. Then he slipped out of the pack- straps and clumsily dragged himself into a sitting posture. It was not yet dark, and in the lingering twilight he groped about among the rocks for shreds of dry moss. When he had gathered a heap he built a fire, - a smouldering, smudgy fire, - and put a tin pot of water on to boil.
He unwrapped his pack and the first thing he did was to count his matches. There were sixty-seven. He counted them three times to make sure. He divided them into several portions, wrapping them in oil paper, disposing of one bunch in his empty tobacco pouch, of another bunch in the inside band of his battered hat, of a third bunch under his shirt on the chest. This accomplished, a panic came upon him, and he unwrapped them all and counted them again. There were still sixty-seven.
He dried his wet foot-gear by the fire. The moccasins were in soggy shreds. The blanket socks were worn through in places, and his feet were raw and bleeding. His ankle was throbbing, and he gave it an examination. It had swollen to the size of his knee. He tore a long strip from one of his two blankets and bound the ankle tightly. He tore other strips and bound them about his feet to serve for both moccasins and socks. Then he drank the pot of water, steaming hot, wound his watch, and crawled between his blankets.
He slept like a dead man. The brief darkness around midnight came and went. The sun arose in the northeast - at least the day dawned in that quarter, for the sun was hidden by gray clouds.
At six o'clock he awoke, quietly lying on his back. He gazed straight up into the gray sky and knew that he was hungry. As he rolled over on his elbow he was startled by a loud snort, and saw a bull caribou regarding him with alert curiosity. The animal was not mere than fifty feet away, and instantly into the man's mind leaped the vision and the savor of a caribou steak sizzling and frying over a fire. Mechanically he reached for the empty gun, drew a bead, and pulled the trigger. The bull snorted and leaped away, his hoofs rattling and clattering as he fled across the ledges.
The man cursed and flung the empty gun from him. He groaned aloud as he started to drag himself to his feet. It was a slow and arduous task.
His joints were like rusty hinges. They worked harshly in their sockets, with much friction, and each bending or unbending was accomplished only through a sheer exertion of will. When he finally gained his feet, another minute or so was consumed in straightening up, so that he could stand erect as a man should stand.
He crawled up a small knoll and surveyed the prospect. There were no trees, no bushes, nothing but a gray sea of moss scarcely diversified by gray rocks, gray lakelets, and gray streamlets. The sky was gray. There was no sun nor hint of sun. He had no idea of north, and he had forgotten the way he had come to this spot the night before. But he was not lost. He knew that. Soon he would come to the land of the little sticks. He felt that it lay off to the left somewhere, not far - possibly just over the next low hill.
He went back to put his pack into shape for travelling. He assured himself of the existence of his three separate parcels of matches, though he did not stop to count them. But he did linger, debating, over a squat moose-hide sack. It was not large. He could hide it under his two hands. He knew that it weighed fifteen pounds, - as much as all the rest of the pack, - and it worried him. He finally set it to one side and proceeded to roll the pack. He paused to gaze at the squat moose-hide sack. He picked it up hastily with a defiant glance about him, as though the desolation were trying to rob him of it; and when he rose to his feet to stagger on into the day, it was included in the pack on his back.
He bore away to the left, stopping now and again to eat muskeg berries. His ankle had stiffened, his limp was more pronounced, but the pain of it was as nothing compared with the pain of his stomach. The hunger pangs were sharp. They gnawed and gnawed until he could not keep his mind steady on the course he must pursue to gain the land of little sticks. The muskeg berries did not allay this gnawing, while they made his tongue and the roof of his mouth sore with their irritating bite.
He came upon a valley where rock ptarmigan rose on whirring wings from the ledges and muskegs. Ker - ker - ker was the cry they made. He threw stones at them, but could not hit them. He placed his pack on the ground and stalked them as a cat stalks a sparrow. The sharp rocks cut through his pants' legs till his knees left a trail of blood; but the hurt was lost in the hurt of his hunger. He squirmed over the wet moss, saturating his clothes and chilling his body; but he was not aware of it, so great was his fever for food. And always the ptarmigan rose, whirring, before him, till their ker - ker - ker became a mock to him, and he cursed them and cried aloud at them with their own cry.
Once he crawled upon one that must have been asleep. He did not see it till it shot up in his face from its rocky nook. He made a clutch as startled as was the rise of the ptarmigan, and there remained in his hand three tail-feathers. As he watched its flight he hated it, as though it had done him some terrible wrong. Then he returned and shouldered his pack.
As the day wore along he came into valleys or swales where game was more plentiful. A band of caribou passed by, twenty and odd animals, tantalizingly within rifle range. He felt a wild desire to run after them, a certitude that he could run them down. A black fox came toward him, carrying a ptarmigan in his mouth. The man shouted. It was a fearful cry, but the fox, leaping away in fright, did not drop the ptarmigan.
Late in the afternoon he followed a stream, milky with lime, which ran through sparse patches of rush-grass. Grasping these rushes firmly near the root, he pulled up what resembled a young onion- sprout no larger than a shingle-nail. It was tender, and his teeth sank into it with a crunch that promised deliciously of food. But its fibers were tough. It was composed of stringy filaments saturated with water, like the berries, and devoid of nourishment. He threw off his pack and went into the rush-grass on hands and knees, crunching and munching, like some bovine creature.
He was very weary and often wished to rest - to lie down and sleep; but he was continually driven on - not so much by his desire to gain the land of little sticks as by his hunger. He searched little ponds for frogs and dug up the earth with his nails for worms, though he knew in spite that neither frogs nor worms existed so far north.
He looked into every pool of water vainly, until, as the long twilight came on, he discovered a solitary fish, the size of a minnow, in such a pool. He plunged his arm in up to the shoulder, but it eluded him. He reached for it with both hands and stirred up the milky mud at the bottom. In his excitement he fell in, wetting himself to the waist. Then the water was too muddy to admit of his seeing the fish, and he was compelled to wait until the sediment had settled.
The pursuit was renewed, till the water was again muddied. But he could not wait. He unstrapped the tin bucket and began to bale the pool. He baled wildly at first, splashing himself and flinging the water so short a distance that it ran back into the pool. He worked more carefully, striving to be cool, though his heart was pounding against his chest and his hands were trembling. At the end of half an hour the pool was nearly dry. Not a cupful of water remained. And there was no fish. He found a hidden crevice among the stones through which it had escaped to the adjoining and larger pool - a pool which he could not empty in a night and a day. Had he known of the crevice, he could have closed it with a rock at the beginning and the fish would have been his.
Thus he thought, and crumpled up and sank down upon the wet earth. At first he cried softly to himself, then he cried loudly to the pitiless desolation that ringed him around; and for a long time after he was shaken by great dry sobs.
He built a fire and warmed himself by drinking quarts of hot water, and made camp on a rocky ledge in the same fashion he had the night before. The last thing he did was to see that his matches were dry and to wind his watch. The blankets were wet and clammy. His ankle pulsed with pain. But he knew only that he was hungry, and through his restless sleep he dreamed of feasts and banquets and of food served and spread in all imaginable ways.
He awoke chilled and sick. There was no sun. The gray of earth and sky had become deeper, more profound. A raw wind was blowing, and the first flurries of snow were whitening the hilltops. The air about him thickened and grew white while he made a fire and boiled more water. It was wet snow, half rain, and the flakes were large and soggy. At first they melted as soon as they came in contact with the earth, but ever more fell, covering the ground, putting out the fire, spoiling his supply of moss-fuel.
This was a signal for him to strap on his pack and stumble onward, he knew not where. He was not concerned with the land of little sticks, nor with Bill and the cache under the upturned canoe by the river Dease. He was mastered by the verb "to eat." He was hunger- mad. He took no heed of the course he pursued, so long as that course led him through the swale bottoms. He felt his way through the wet snow to the watery muskeg berries, and went by feel as he pulled up the rush-grass by the roots. But it was tasteless stuff and did not satisfy. He found a weed that tasted sour and he ate all he could find of it, which was not much, for it was a creeping growth, easily hidden under the several inches of snow.
He had no fire that night, nor hot water, and crawled under his blanket to sleep the broken hunger-sleep. The snow turned into a cold rain. He awakened many times to feel it falling on his upturned face. Day came - a gray day and no sun. It had ceased raining. The keenness of his hunger had departed. Sensibility, as far as concerned the yearning for food, had been exhausted. There was a dull, heavy ache in his stomach, but it did not bother him so much. He was more rational, and once more he was chiefly interested in the land of little sticks and the cache by the river Dease.
He ripped the remnant of one of his blankets into strips and bound his bleeding feet. Also, he recinched the injured ankle and prepared himself for a day of travel. When he came to his pack, he paused long over the squat moose-hide sack, but in the end it went with him.
The snow had melted under the rain, and only the hilltops showed white. The sun came out, and he succeeded in locating the points of the compass, though he knew now that he was lost. Perhaps, in his previous days' wanderings, he had edged away too far to the left. He now bore off to the right to counteract the possible deviation from his true course.
Though the hunger pangs were no longer so exquisite, he realized that he was weak. He was compelled to pause for frequent rests, when he attacked the muskeg berries and rush-grass patches. His tongue felt dry and large, as though covered with a fine hairy growth, and it tasted bitter in his mouth. His heart gave him a great deal of trouble. When he had travelled a few minutes it would begin a remorseless thump, thump, thump, and then leap up and away in a painful flutter of beats that choked him and made him go faint and dizzy.
In the middle of the day he found two minnows in a large pool. It was impossible to bale it, but he was calmer now and managed to catch them in his tin bucket. They were no longer than his little finger, but he was not particularly hungry. The dull ache in his stomach had been growing duller and fainter. It seemed almost that his stomach was dozing. He ate the fish raw, masticating with painstaking care, for the eating was an act of pure reason. While he had no desire to eat, he knew that he must eat to live.
In the evening he caught three more minnows, eating two and saving the third for breakfast. The sun had dried stray shreds of moss, and he was able to warm himself with hot water. He had not covered more than ten miles that day; and the next day, travelling whenever his heart permitted him, he covered no more than five miles. But his stomach did not give him the slightest uneasiness. It had gone to sleep. He was in a strange country, too, and the caribou were growing more plentiful, also the wolves. Often their yelps drifted across the desolation, and once he saw three of them slinking away before his path.
Another night; and in the morning, being more rational, he untied the leather string that fastened the squat moose-hide sack. From its open mouth poured a yellow stream of coarse gold-dust and nuggets. He roughly divided the gold in halves, caching one half on a prominent ledge, wrapped in a piece of blanket, and returning the other half to the sack. He also began to use strips of the one remaining blanket for his feet. He still clung to his gun, for there were cartridges in that cache by the river Dease.
This was a day of fog, and this day hunger awoke in him again. He was very weak and was afflicted with a giddiness which at times blinded him. It was no uncommon thing now for him to stumble and fall; and stumbling once, he fell squarely into a ptarmigan nest. There were four newly hatched chicks, a day old - little specks of pulsating life no more than a mouthful; and he ate them ravenously, thrusting them alive into his mouth and crunching them like egg- shells between his teeth. The mother ptarmigan beat about him with great outcry. He used his gun as a club with which to knock her over, but she dodged out of reach. He threw stones at her and with one chance shot broke a wing. Then she fluttered away, running, trailing the broken wing, with him in pursuit.
The little chicks had no more than whetted his appetite. He hopped and bobbed clumsily along on his injured ankle, throwing stones and screaming hoarsely at times; at other times hopping and bobbing silently along, picking himself up grimly and patiently when he fell, or rubbing his eyes with his hand when the giddiness threatened to overpower him.
The chase led him across swampy ground in the bottom of the valley, and he came upon footprints in the soggy moss. They were not his own - he could see that. They must be Bill's. But he could not stop, for the mother ptarmigan was running on. He would catch her first, then he would return and investigate.
He exhausted the mother ptarmigan; but he exhausted himself. She lay panting on her side. He lay panting on his side, a dozen feet away, unable to crawl to her. And as he recovered she recovered, fluttering out of reach as his hungry hand went out to her. The chase was resumed. Night settled down and she escaped. He stumbled from weakness and pitched head foremost on his face, cutting his cheek, his pack upon his back. He did not move for a long while; then he rolled over on his side, wound his watch, and lay there until morning.
Another day of fog. Half of his last blanket had gone into foot- wrappings. He failed to pick up Bill's trail. It did not matter. His hunger was driving him too compellingly - only - only he wondered if Bill, too, were lost. By midday the irk of his pack became too oppressive. Again he divided the gold, this time merely spilling half of it on the ground. In the afternoon he threw the rest of it away, there remaining to him only the half-blanket, the tin bucket, and the rifle.
An hallucination began to trouble him. He felt confident that one cartridge remained to him. It was in the chamber of the rifle and he had overlooked it. On the other hand, he knew all the time that the chamber was empty. But the hallucination persisted. He fought it off for hours, then threw his rifle open and was confronted with emptiness. The disappointment was as bitter as though he had really expected to find the cartridge.
He plodded on for half an hour, when the hallucination arose again. Again he fought it, and still it persisted, till for very relief he opened his rifle to unconvince himself. At times his mind wandered farther afield, and he plodded on, a mere automaton, strange conceits and whimsicalities gnawing at his brain like worms. But these excursions out of the real were of brief duration, for ever the pangs of the hunger-bite called him back. He was jerked back abruptly once from such an excursion by a sight that caused him nearly to faint. He reeled and swayed, doddering like a drunken man to keep from falling. Before him stood a horse. A horse! He could not believe his eyes. A thick mist was in them, intershot with sparkling points of light. He rubbed his eyes savagely to clear his vision, and beheld, not a horse, but a great brown bear. The animal was studying him with bellicose curiosity.
The man had brought his gun halfway to his shoulder before he realized. He lowered it and drew his hunting-knife from its beaded sheath at his hip. Before him was meat and life. He ran his thumb along the edge of his knife. It was sharp. The point was sharp. He would fling himself upon the bear and kill it. But his heart began its warning thump, thump, thump. Then followed the wild upward leap and tattoo of flutters, the pressing as of an iron band about his forehead, the creeping of the dizziness into his brain.
His desperate courage was evicted by a great surge of fear. In his weakness, what if the animal attacked him? He drew himself up to his most imposing stature, gripping the knife and staring hard at the bear. The bear advanced clumsily a couple of steps, reared up, and gave vent to a tentative growl. If the man ran, he would run after him; but the man did not run. He was animated now with the courage of fear. He, too, growled, savagely, terribly, voicing the fear that is to life germane and that lies twisted about life's deepest roots.
The bear edged away to one side, growling menacingly, himself appalled by this mysterious creature that appeared upright and unafraid. But the man did not move. He stood like a statue till the danger was past, when he yielded to a fit of trembling and sank down into the wet moss.
He pulled himself together and went on, afraid now in a new way. It was not the fear that he should die passively from lack of food, but that he should be destroyed violently before starvation had exhausted the last particle of the endeavor in him that made toward surviving. There were the wolves. Back and forth across the desolation drifted their howls, weaving the very air into a fabric of menace that was so tangible that he found himself, arms in the air, pressing it back from him as it might be the walls of a wind- blown tent.
Now and again the wolves, in packs of two and three, crossed his path. But they sheered clear of him. They were not in sufficient numbers, and besides they were hunting the caribou, which did not battle, while this strange creature that walked erect might scratch and bite.
In the late afternoon he came upon scattered bones where the wolves had made a kill. The debris had been a caribou calf an hour before, squawking and running and very much alive. He contemplated the bones, clean-picked and polished, pink with the cell-life in them which had not yet died. Could it possibly be that he might be that ere the day was done! Such was life, eh? A vain and fleeting thing. It was only life that pained. There was no hurt in death. To die was to sleep. It meant cessation, rest. Then why was he not content to die?
But he did not moralize long. He was squatting in the moss, a bone in his mouth, sucking at the shreds of life that still dyed it faintly pink. The sweet meaty taste, thin and elusive almost as a memory, maddened him. He closed his jaws on the bones and crunched. Sometimes it was the bone that broke, sometimes his teeth. Then he crushed the bones between rocks, pounded them to a pulp, and swallowed them. He pounded his fingers, too, in his haste, and yet found a moment in which to feel surprise at the fact that his fingers did not hurt much when caught under the descending rock.
Came frightful days of snow and rain. He did not know when he made camp, when he broke camp. He travelled in the night as much as in the day. He rested wherever he fell, crawled on whenever the dying life in him flickered up and burned less dimly. He, as a man, no longer strove. It was the life in him, unwilling to die, that drove him on. He did not suffer. His nerves had become blunted, numb, while his mind was filled with weird visions and delicious dreams.
But ever he sucked and chewed on the crushed bones of the caribou calf, the least remnants of which he had gathered up and carried with him. He crossed no more hills or divides, but automatically followed a large stream which flowed through a wide and shallow valley. He did not see this stream nor this valley. He saw nothing save visions. Soul and body walked or crawled side by side, yet apart, so slender was the thread that bound them.
He awoke in his right mind, lying on his back on a rocky ledge. The sun was shining bright and warm. Afar off he heard the squawking of caribou calves. He was aware of vague memories of rain and wind and snow, but whether he had been beaten by the storm for two days or two weeks he did not know.
For some time he lay without movement, the genial sunshine pouring upon him and saturating his miserable body with its warmth. A fine day, he thought. Perhaps he could manage to locate himself. By a painful effort he rolled over on his side. Below him flowed a wide and sluggish river. Its unfamiliarity puzzled him. Slowly he followed it with his eyes, winding in wide sweeps among the bleak, bare hills, bleaker and barer and lower-lying than any hills he had yet encountered. Slowly, deliberately, without excitement or more than the most casual interest, he followed the course of the strange stream toward the sky-line and saw it emptying into a bright and shining sea. He was still unexcited. Most unusual, he thought, a vision or a mirage - more likely a vision, a trick of his disordered mind. He was confirmed in this by sight of a ship lying at anchor in the midst of the shining sea. He closed his eyes for a while, then opened them. Strange how the vision persisted! Yet not strange. He knew there were no seas or ships in the heart of the barren lands, just as he had known there was no cartridge in the empty rifle.
He heard a snuffle behind him - a half-choking gasp or cough. Very slowly, because of his exceeding weakness and stiffness, he rolled over on his other side. He could see nothing near at hand, but he waited patiently. Again came the snuffle and cough, and outlined between two jagged rocks not a score of feet away he made out the gray head of a wolf. The sharp ears were not pricked so sharply as he had seen them on other wolves; the eyes were bleared and bloodshot, the head seemed to droop limply and forlornly. The animal blinked continually in the sunshine. It seemed sick. As he looked it snuffled and coughed again.
This, at least, was real, he thought, and turned on the other side so that he might see the reality of the world which had been veiled from him before by the vision. But the sea still shone in the distance and the ship was plainly discernible. Was it reality, after all? He closed his eyes for a long while and thought, and then it came to him. He had been making north by east, away from the Dease Divide and into the Coppermine Valley. This wide and sluggish river was the Coppermine. That shining sea was the Arctic Ocean. That ship was a whaler, strayed east, far east, from the mouth of the Mackenzie, and it was lying at anchor in Coronation Gulf. He remembered the Hudson Bay Company chart he had seen long ago, and it was all clear and reasonable to him.
He sat up and turned his attention to immediate affairs. He had worn through the blanket-wrappings, and his feet were shapeless lumps of raw meat. His last blanket was gone. Rifle and knife were both missing. He had lost his hat somewhere, with the bunch of matches in the band, but the matches against his chest were safe and dry inside the tobacco pouch and oil paper. He looked at his watch. It marked eleven o'clock and was still running. Evidently he had kept it wound.
He was calm and collected. Though extremely weak, he had no sensation of pain. He was not hungry. The thought of food was not even pleasant to him, and whatever he did was done by his reason alone. He ripped off his pants' legs to the knees and bound them about his feet. Somehow he had succeeded in retaining the tin bucket. He would have some hot water before he began what he foresaw was to be a terrible journey to the ship.
His movements were slow. He shook as with a palsy. When he started to collect dry moss, he found he could not rise to his feet. He tried again and again, then contented himself with crawling about on hands and knees. Once he crawled near to the sick wolf. The animal dragged itself reluctantly out of his way, licking its chops with a tongue which seemed hardly to have the strength to curl. The man noticed that the tongue was not the customary healthy red. It was a yellowish brown and seemed coated with a rough and half-dry mucus.
After he had drunk a quart of hot water the man found he was able to stand, and even to walk as well as a dying man might be supposed to walk. Every minute or so he was compelled to rest. His steps were feeble and uncertain, just as the wolf's that trailed him were feeble and uncertain; and that night, when the shining sea was blotted out by blackness, he knew he was nearer to it by no more than four miles.
Throughout the night he heard the cough of the sick wolf, and now and then the squawking of the caribou calves. There was life all around him, but it was strong life, very much alive and well, and he knew the sick wolf clung to the sick man's trail in the hope that the man would die first. In the morning, on opening his eyes, he beheld it regarding him with a wistful and hungry stare. It stood crouched, with tail between its legs, like a miserable and woe-begone dog. It shivered in the chill morning wind, and grinned dispiritedly when the man spoke to it in a voice that achieved no more than a hoarse whisper.
The sun rose brightly, and all morning the man tottered and fell toward the ship on the shining sea. The weather was perfect. It was the brief Indian Summer of the high latitudes. It might last a week. To-morrow or next day it might he gone.
In the afternoon the man came upon a trail. It was of another man, who did not walk, but who dragged himself on all fours. The man thought it might be Bill, but he thought in a dull, uninterested way. He had no curiosity. In fact, sensation and emotion had left him. He was no longer susceptible to pain. Stomach and nerves had gone to sleep. Yet the life that was in him drove him on. He was very weary, but it refused to die. It was because it refused to die that he still ate muskeg berries and minnows, drank his hot water, and kept a wary eye on the sick wolf.
He followed the trail of the other man who dragged himself along, and soon came to the end of it - a few fresh-picked bones where the soggy moss was marked by the foot-pads of many wolves. He saw a squat moose-hide sack, mate to his own, which had been torn by sharp teeth. He picked it up, though its weight was almost too much for his feeble fingers. Bill had carried it to the last. Ha! ha! He would have the laugh on Bill. He would survive and carry it to the ship in the shining sea. His mirth was hoarse and ghastly, like a raven's croak, and the sick wolf joined him, howling lugubriously. The man ceased suddenly. How could he have the laugh on Bill if that were Bill; if those bones, so pinky-white and clean, were Bill?
He turned away. Well, Bill had deserted him; but he would not take the gold, nor would he suck Bill's bones. Bill would have, though, had it been the other way around, he mused as he staggered on.
He came to a pool of water. Stooping over in quest of minnows, he jerked his head back as though he had been stung. He had caught sight of his reflected face. So horrible was it that sensibility awoke long enough to be shocked. There were three minnows in the pool, which was too large to drain; and after several ineffectual attempts to catch them in the tin bucket he forbore. He was afraid, because of his great weakness, that he might fall in and drown. It was for this reason that he did not trust himself to the river astride one of the many drift-logs which lined its sand- spits.
That day he decreased the distance between him and the ship by three miles; the next day by two - for he was crawling now as Bill had crawled; and the end of the fifth day found the ship still seven miles away and him unable to make even a mile a day. Still the Indian Summer held on, and he continued to crawl and faint, turn and turn about; and ever the sick wolf coughed and wheezed at his heels. His knees had become raw meat like his feet, and though he padded them with the shirt from his back it was a red track he left behind him on the moss and stones. Once, glancing back, he saw the wolf licking hungrily his bleeding trail, and he saw sharply what his own end might be - unless - unless he could get the wolf. Then began as grim a tragedy of existence as was ever played - a sick man that crawled, a sick wolf that limped, two creatures dragging their dying carcasses across the desolation and hunting each other's lives.
Had it been a well wolf, it would not have mattered so much to the man; but the thought of going to feed the maw of that loathsome and all but dead thing was repugnant to him. He was finicky. His mind had begun to wander again, and to be perplexed by hallucinations, while his lucid intervals grew rarer and shorter.
He was awakened once from a faint by a wheeze close in his ear. The wolf leaped lamely back, losing its footing and falling in its weakness. It was ludicrous, but he was not amused. Nor was he even afraid. He was too far gone for that. But his mind was for the moment clear, and he lay and considered. The ship was no more than four miles away. He could see it quite distinctly when he rubbed the mists out of his eyes, and he could see the white sail of a small boat cutting the water of the shining sea. But he could never crawl those four miles. He knew that, and was very calm in the knowledge. He knew that he could not crawl half a mile. And yet he wanted to live. It was unreasonable that he should die after all he had undergone. Fate asked too much of him. And, dying, he declined to die. It was stark madness, perhaps, but in the very grip of Death he defied Death and refused to die.
He closed his eyes and composed himself with infinite precaution. He steeled himself to keep above the suffocating languor that lapped like a rising tide through all the wells of his being. It was very like a sea, this deadly languor, that rose and rose and drowned his consciousness bit by bit. Sometimes he was all but submerged, swimming through oblivion with a faltering stroke; and again, by some strange alchemy of soul, he would find another shred of will and strike out more strongly.
Without movement he lay on his back, and he could hear, slowly drawing near and nearer, the wheezing intake and output of the sick wolf's breath. It drew closer, ever closer, through an infinitude of time, and he did not move. It was at his ear. The harsh dry tongue grated like sandpaper against his cheek. His hands shot out - or at least he willed them to shoot out. The fingers were curved like talons, but they closed on empty air. Swiftness and certitude require strength, and the man had not this strength.
The patience of the wolf was terrible. The man's patience was no less terrible. For half a day he lay motionless, fighting off unconsciousness and waiting for the thing that was to feed upon him and upon which he wished to feed. Sometimes the languid sea rose over him and he dreamed long dreams; but ever through it all, waking and dreaming, he waited for the wheezing breath and the harsh caress of the tongue.
He did not hear the breath, and he slipped slowly from some dream to the feel of the tongue along his hand. He waited. The fangs pressed softly; the pressure increased; the wolf was exerting its last strength in an effort to sink teeth in the food for which it had waited so long. But the man had waited long, and the lacerated hand closed on the jaw. Slowly, while the wolf struggled feebly and the hand clutched feebly, the other hand crept across to a grip. Five minutes later the whole weight of the man's body was on top of the wolf. The hands had not sufficient strength to choke the wolf, but the face of the man was pressed close to the throat of the wolf and the mouth of the man was full of hair. At the end of half an hour the man was aware of a warm trickle in his throat. It was not pleasant. It was like molten lead being forced into his stomach, and it was forced by his will alone. Later the man rolled over on his back and slept.
There were some members of a scientific expedition on the whale- ship Bedford. From the deck they remarked a strange object on the shore. It was moving down the beach toward the water. They were unable to classify it, and, being scientific men, they climbed into the whale-boat alongside and went ashore to see. And they saw something that was alive but which could hardly be called a man. It was blind, unconscious. It squirmed along the ground like some monstrous worm. Most of its efforts were ineffectual, but it was persistent, and it writhed and twisted and went ahead perhaps a score of feet an hour.
Three weeks afterward the man lay in a bunk on the whale-ship Bedford, and with tears streaming down his wasted cheeks told who he was and what he had undergone. He also babbled incoherently of his mother, of sunny Southern California, and a home among the orange groves and flowers.
The days were not many after that when he sat at table with the scientific men and ship's officers. He gloated over the spectacle of so much food, watching it anxiously as it went into the mouths of others. With the disappearance of each mouthful an expression of deep regret came into his eyes. He was quite sane, yet he hated those men at mealtime. He was haunted by a fear that the food would not last. He inquired of the cook, the cabin-boy, the captain, concerning the food stores. They reassured him countless times; but he could not believe them, and pried cunningly about the lazarette to see with his own eyes.
It was noticed that the man was getting fat. He grew stouter with each day. The scientific men shook their heads and theorized. They limited the man at his meals, but still his girth increased and he swelled prodigiously under his shirt.
The sailors grinned. They knew. And when the scientific men set a watch on the man, they knew too. They saw him slouch for'ard after breakfast, and, like a mendicant, with outstretched palm, accost a sailor. The sailor grinned and passed him a fragment of sea biscuit. He clutched it avariciously, looked at it as a miser looks at gold, and thrust it into his shirt bosom. Similar were the donations from other grinning sailors.
The scientific men were discreet. They let him alone. But they privily examined his bunk. It was lined with hardtack; the mattress was stuffed with hardtack; every nook and cranny was filled with hardtack. Yet he was sane. He was taking precautions against another possible famine - that was all. He would recover from it, the scientific men said; and he did, ere the Bedford's anchor rumbled down in San Francisco Bay.
➖ ➖ ➖