Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 36 đăng ngày 2020-06-20
***
Những người bạn cũ
Tác giả: Nguyễn Phước Bình

Lời tựa

Nhân Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (ngày 21 tháng 6 là ngày kỉ niệm ra đời của báo "Thanh niên" do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập 21 tháng 6 năm 1925), Tuần san “Tiểu thuyết chiều thứ Bảy” trân trọng gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất đến:

* Anh Nguyễn Quốc Khánh - Phó Tổng biên tập phụ trách báo “Đạiđoànkết” (tôi mô phỏng Logo của báo nhưng chưa được giống lắm – mời anh/chị tham khảo thêm trang điện tử của báo tại http://daidoanket.vn/ );

* Anh Đỗ Tấn Sỹ - Đồng chủ biên tờ “Giải Phóng” (1969 - in ronéo), Đồng chủ biên tờ “Về Nguồn” (1969?), Chủ biên tờ “Kết Hợp” (1973 – tờ báo chính thức đại diện cho tiếng nói của “Hội sinh viên và Việt kiều yêu nước tại Bỉ” - Hội được thành lập vào ngày 6&7/10/1973);

* Các anh/chị là nhà báo chính thức hoặc nhà báo “nghiệp dư” nhưng tôi chưa có hân hạnh được thưởng ngoạn các bài báo của anh/chị 😊.

~~~

Nhân ngày này, chúng ta lần giở lại vài mốc son của báo chí Việt Nam:

📰 Tờ báo quốc ngữ đầu tiên: Khai sinh sớm nhất trong làng báo Quốc ngữ Việt Nam được cho là “Gia Định báo”. Tờ báo tổng hợp này có khuôn khổ 25 x 32 cm, ra hàng tuần tại Sài Gòn và tồn tại suốt 44 năm sau khi phát hành số đầu vào ngày 15 tháng 4 năm 1865.

📰 Tờ báo quốc ngữ tư nhân đầu tiên: Nguyệt san “Thông loại khóa trình” (báo kiểu sách đọc thêm, giải trí mang mục đích giáo dục) do Trương Vĩnh Ký chủ trì, khuôn khổ 16 x 23,5 cm, phát hành hàng tháng tại Nam Kỳ trong những năm 1888-1889, được cho là tờ báo quốc ngữ tư nhân đầu tiên. Số báo số 1 ra vào tháng 5, 1888.

📰 Tờ báo phụ nữ đầu tiên: Báo “Nữ giới chung” (tiếng chuông của nữ giới) xuất bản vào thứ Sáu hàng tuần tại Sài Gòn bắt đầu năm 1918 là tờ báo đầu tiên chuyên về phụ nữ. Số báo đầu tiên ra mắt ngày 1 tháng 2 năm 1918. Lê Đức làm chủ nhiệm và Sương Nguyệt Anh, con gái của Nguyễn Đình Chiểu làm chủ bút.

📰 Tờ báo kinh tế đầu tiên: Báo “Nông cổ mín đàm” (nghĩa là ngồi uống trà bàn chuyện làm ruộng và đi buôn) khuôn khổ 20 x 30 cm, phát hành vào thứ Năm hàng tuần tại Sài Gòn, được nhiều người cho là tờ báo kinh tế đầu tiên với số 1 ra ngày 1 tháng 8 năm 1901.

📰 Nhà báo Việt Nam đầu tiênTrương Vĩnh Ký được cho là nhà báo Việt Nam đầu tiên, là một học giả lớn, thạo 26 ngoại ngữ, là tác giả của hơn 100 bộ sách, hàng nghìn bài viết, có chân trong nhiều hội khoa học quốc tế, cống hiến xuất sắc cho các chuyên ngành: văn hóa, ngôn ngữ, địa lý, nhân chủng học. Ông được cho là đã thành lập, làm tổng biên tập những tờ báo Quốc ngữ đầu tiên, đồng thời được đánh giá là cây bút chủ chốt của rất nhiều báo khác và được coi là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam.

📰 Nữ tổng biên tập đầu tiên: Được cho là Nguyễn Xuân Khuê, thường được biết qua bút danh Sương Nguyệt Anh, con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, quê ở Ba Tri-Bến Tre. Nhận lời mời của các đồng nghiệp, đầu năm 1918 bà lên Sài Gòn làm tổng biên tập tờ “Nữ giới chung” và phụ trách tờ báo này trong suốt thời gian tồn tại của nó.

📰 Trang quảng cáo trên báo sớm nhất: Khó thể biết chính xác mẩu quảng cáo đầu tiên xuất hiện khi nào trong lịch sử báo chí Việt Nam, nhưng trang quảng cáo sớm nhất được cho là đã xuất hiện vào đầu năm 1882. Số báo thứ nhất của năm 1882, “Gia Định báo” đã dành toàn bộ trang cuối để đăng quảng cáo cho Nhà thuốc Pharmacie Reynaud.

(Nguồn: Wikipedia)

* Tiếp theo, xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Những người bạn cũ” của anh Đỗ Tấn Sỹ với bút danh Nguyễn Phước Bình.

➖➖➖

 

 

Paris, một ngày mùa đông. Loay hoay trước tiệm Thanh Bình định mua sắm một ít thức ăn mang về cho các chị bạn, tôi bỗng ngẩn người khi gặp một đôi vợ chồng trẻ. Hai người cũng đứng khựng lại nhìn tôi, ngập ngừng nửa muốn bắt chuyện, nửa lại ngại ngùng. Giây phút bàng hoàng rồi cũng qua, nhường chỗ cho một niềm vui ồ ạt kéo đến khi chúng tôi thốt lên hầu như cùng một lúc:

- Nghĩa! Hạnh!... Qua hồi nào vậy?

- Tài! Tao dò hỏi tìm mày cả năm nay. May quá.

- Anh Tài! Trông anh chẳng khác xưa là mấy.

Trăm câu hỏi, trăm kỷ niệm dồn về khiến tôi choáng ngợp. Đứng ngoài lạnh và giữa chốn đông người không tiện, tôi rủ hai người bạn cũ vào quán cà phê gần đấy.

- Hai anh cứ vào trước đi. Hạnh mua sắm xong sẽ đến sau nhé. Chiều nay anh Tài lại ăn cơm với tụi này nhen!

Đại lộ Saint Germain chiều nay người qua kẻ lại không nhiều lắm. Quán nước bên đường cũng yên ắng, cho đôi bạn sau hơn mười năm xa cách kể chuyện tâm tình, bồi hồi nhớ lại những ngày xưa.

Ngày xưa, tôi với Nghĩa học chung trường Petrus. Bảy năm vui tươi của tuổi học trò gắn bó nhau bằng những vui buồn trong lớp học, bằng những buổi rảnh rỗi rủ nhau đi dạo phố, xem ciné, những ngày lễ đi chơi xa, về nhà các bạn ở tỉnh. Hai đứa như bóng với hình, thương nhau bằng một tình bạn thật thà, chia xẻ với nhau tất cả những hạnh phúc và những buồn đau trong gia đình, trong cuộc sống.

Duy chỉ có một lần trong suốt bảy năm trời, tôi với Nghĩa lại giấu với nhau những điều mình say mê, ấp ủ. Lần ấy vào một ngày tháng tư, trời trong, nắng dịu, chúng tôi rủ nhau về Cù lao Phố thăm một người bạn. Rời con lộ Sài Gòn - Biên Hòa sau khi qua cầu Gành, chợ Đồn, chúng tôi rẽ vào những con đường cát trắng chạy ngoằn ngoèo qua những vườn bưởi ven những hàng rào bông bụp men theo dòng sông Đồng Nai trong xanh chảy êm đềm qua những bến nước thấp thoáng bóng ai tắm giặt bên cầu.

Nhà Thạnh nằm bên dòng sông ấy. Quanh nhà trồng đủ loại cây trái: ổi, nhãn, lựu, quýt, mận v.v... Má của Thạnh vui đón chúng tôi, coi như con cháu trong nhà, không khách sáo.

- Bây đi sao không đội nón, giang nắng rủi sổ mũi, nhức đầu rồi báo hại.

Mắng xong, bà lại lật đật đi ra sau nhà sửa soạn nấu cơm vì trời cũng đã đứng bóng. Còn ba đứa tôi tha hồ leo trèo, đùa giỡn. Trong chốc lát, Thạnh đã đứng chót vót trên ngọn một cây vú sữa, tôi và Nghĩa ở dưới đón bắt trái chín màu tím sẫm nó quăng xuống. Mải miết la hét giành nhau, chúng tôi bỗng im bặt khi thấy bóng một cô gái vội vàng dắt xe qua sân rồi biến mất ra nhà sau.

Tôi và Nghĩa nháy mắt nhìn nhau, lâng lâng với hương vị một niềm vui nho nhỏ đang nhè nhẹ đến với chúng tôi trong những ngày cuối của tuổi thiếu niên trong trắng. Từ dưới bến sông, gió mát thổi lên mơn man lau khô mồ hôi trên những khuôn mặt học trò còn lấm tấm những nốt mụn chưa phai.

Bữa cơm trưa hôm ấy Nghĩa im lặng hơn bình thường, còn tôi thì lại cười nói nhiều hơn. Tánh Nghĩa vốn hay nhường nhịn, hay làm lành, tử tế đến người khó khăn nhất cũng phải thương. Anh chàng gỡ bánh tráng nhúng, gắp rau, khế, giẻ cá lóc nướng đặt lên và cuộn lại một cách kỹ lưỡng, gọn gàng. Tôi thì hấp tấp, vụng về thiếu điều má Thạnh gọi con gái trốn ở dưới bếp lên cuốn giùm. Còn Thạnh vốn hay lý sự cùn, hôm ấy bỗng nhiên thấy hai đứa tôi chẳng đứa nào cãi lại những lý thuyết của nó, kể cả khi nó khẳng định rằng tóc người chết có thể biến thành con lươn, lươn biến thành chồn, và chồn tu luyện lâu năm thì lại thành người.

Cơm nước xong, Thạnh rủ chúng tôi đi xuồng băng qua Cù lao Cỏ thăm vườn mía của người bà con bên ấy. Nghĩa không biết lội nên do dự không muốn đi. Nhưng khi biết rằng em gái của Thạnh sẽ là người chèo xuồng, nó chìu ngay ý chúng tôi, mặt đỏ lên, chẳng biết vì mắc cỡ hay vì cái nắng ban trưa.

- Mày nghĩ ngợi gì mà như mất hồn vậy? Tách cà phê nguội hết rồi kìa.

Tôi lại giấu Nghĩa những điều mình đang hồi tưởng:

- Không! Tao chỉ ngẫm chuyện đời, thấy cũng ngồ ngộ. Trời đất xui khiến thế nào mà bây giờ gặp lại nhau bên dòng sông Seine này!

Tôi chưa muốn hỏi Nghĩa chuyện ra đi của nó. Với lại tôi còn bận nhớ cho hết những chuyện vui của tuổi 18 đã đi vào trong quá khứ.

Cô gái chèo xuồng hôm ấy tuổi đâu vừa 17, dáng cao dong dỏng, màu da trắng và mái tóc đen dài kẹp gọn sau lưng. Đôi mắt sáng long lanh hay e thẹn nhìn xuống mái dầm khuấy nước, đôi môi hồng thoáng cười tinh nghịch, lúc xuồng đâm vào một lùm cây làm chúng tôi hoảng lên. Nắng ơi, cứ rơi chang chang lên sông nước nhé, cho má ai thêm hồng và mồ hôi thấm ướt những sợi tóc mai người tôi chớm yêu thương hôm ấy.

Những ngày sau đó, tôi và Nghĩa đều nhớ nhung, ray rứt, đều biết rõ lòng bạn mình và đều giấu với nhau điều ai cũng biết ấy.

Vì tự ái, chúng tôi không ai rủ về thăm Thạnh nữa. Nghĩa chép thơ, làm thơ, sống với người trong mộng. Tôi bồn chồn, rạo rực, tìm đủ mọi lý do với chính mình để có đủ can đảm đến thăm gia đình Thạnh lần thứ hai, rồi lần thứ ba và nhiều hơn thế nữa.

- Tài à, thằng Khang nó chết trận Đồng Xoài mày có hay không?

- Ờ, tao nghe em tao viết thư nói.

- Còn thằng Nguyên, nó vào khu năm 69, tao cũng không nghe tin nó mất hay còn.

- Vậy hả?

- Tội nghiệp thằng Tâm, ra làm sĩ quan chính trị, học tập tới giờ vẫn chưa về.

- Ờ, mà rồi gia đình nó có thăm nom gì được không?

- Cũng có chút đỉnh. Chú nó làm đâu tới thượng tá mày à.

- Ờ, vậy hả?

- Anh Thạnh học tập xong bây giờ làm ở Ty xây dựng Đồng Nai. Lương bảy chục. May mà còn có miếng vườn ở Cù lao nuôi thêm heo gà.

- Thời buổi này, được vậy cũng đỡ hả Nghĩa!

Tôi lại trở về với quá khứ nữa rồi. Mười mấy năm trước, Thạnh biết tôi và Nghĩa cùng yêu em nó. Nó thích tôi hơn vì không hạp tánh với Nghĩa chút nào, bởi Nghĩa tuy hiền nhưng hay bắt bẻ lại những lý sự cùn vu vơ, kỳ quặc của nó.

Mùa hè năm ấy, tôi thi đậu tú tài 2 hạng bình, còn Nghĩa và Thạnh thì rớt kỳ đầu. Rảnh rang tôi đến nhà Thạnh rất đều với cái cớ rất chính đáng là luyện bài thi trung học cho Hạnh. Tình cảm của chúng tôi qua đó lớn dần lên. Đến với Hạnh, dạy Hạnh, ngồi chờ Hạnh giải toán, tôi nghe tim mình thường rộn lên những cảm giác say sưa. Đàn gà trong vườn gọi nhau đi ăn oang oác, chim bìm bịp kêu nước lớn từ cánh đồng xa gọi về, tiếng trẻ em tắm mát, tiếng gió lùa qua những tàu lá dừa xào xạc bên hè. Gió lên nữa đi cho tôi thêm ngây ngất với niềm hạnh phúc được ngồi bên người yêu còn e ấp, chưa dám trao tay cho tôi nắm lấy.

Nhưng rồi, lại có một buổi chiều về, hai đứa rủ nhau đạp xe mãi đến tận bến đò An Hảo, nhìn ra Tân Mai, nơi cây cầu xa lộ Biên Hòa mới làm xong. Hạnh mua hai ly nước dừa, rồi ra ngồi bên bờ sông tâm sự với tôi lần cuối.

- Bao giờ anh đi?

- Anh đã có giấy rồi, chỉ còn chờ vé máy bay.

- Nước Bỉ có xa không anh?

- Xa lắm Hạnh à.

Rồi tôi âu yếm:

- Xa lắm, anh không thể nào đến thăm Hạnh thường được nữa đâu.

Hạnh lấy trong chiếc giỏ ny-lông ra hai chiếc khăn tay, trao cho tôi. Tôi đau đớn nhìn hai chữ T-H thêu chồng lên nhau, khăng khăng như một lời nguyện ước.

- Từ nay, Hạnh chỉ được coi anh như một người anh mà thôi Hạnh nhé!

Đến bây giờ, Hạnh mới mủi lòng khóc:

- Dạ! Mà anh cũng đừng bao giờ quên em!

- Hạnh ở lại cố học giỏi để sau này đi làm giúp má!

- Còn anh, bao giờ anh về lại?

- Anh cũng không biết nữa, nhưng chắc là lâu lắm.

- Anh có muốn Hạnh nhắn anh điều gì không?

Câu hỏi khá bất ngờ, tôi quay sang nhìn đăm đăm vào mắt Hạnh, khẽ gật đầu.

- Má nói ngày Hạnh còn nhỏ, ba Hạnh đã chia tay má ở bến đò này.

Rồi Hạnh chỉ tay bên kia sông, bùi ngùi xúc động:

- Mấy năm sau đó, ba bị Tây bắn chết ở Bình Đa.

Hạnh làm tôi ngạc nhiên thật sự. Tôi không ngờ nơi cô gái ấy chất chứa một điều ấm ức giấu rất kỹ trong lòng, cũng giống như nhiều đứa học trò Petrus chúng tôi.

- Hạnh mong ngày anh trở lại thăm bến đò này, anh sẽ là người tài giỏi và có ích cho quê hương mình.

Những ngày xa xứ, đọc báo chí nói về chiến tranh Việt Nam và những điều khó hiểu của nó, tôi thường liên tưởng đến lời nhắn nhủ của cô học trò trung học hiền lành trên bến đò An Hảo. Và tôi cũng nghĩ đúng rằng người Mỹ chỉ có thể thua trận mà thôi.

- Tao nghe đồn mày theo cách mạng hả Tài?

- Ờ, mà mày có lạ lắm không?

- Không! Dân Petrus đi theo Cụ Hồ cũng là chuyện thường. Tao thì tính tới tính lui hoài, trốn né hết bên này đến bên kia, tới ngày giải phóng mới thở phào.

Tôi chờ nghe Nghĩa tâm sự tiếp, nhưng Hạnh đến kia rồi.

Hạnh vẫn đẹp như thuở nào. Có điều nét thơ ngây đã mất, nhường chỗ cho vẻ rực rỡ pha chút kiêu kỳ của người đàn bà son rỗi.

Sau ngày tôi đi, Nghĩa đã được toại nguyện nhờ những lá thư nồng nàn và chân thật gởi đến cho Hạnh. Cô gái nào càng lớn lên cũng càng thực tế, chút tình thơ cho tôi ngày nào chẳng qua chỉ là kỷ niệm nho nhỏ, sớm phôi pha theo ngày tháng.

- Em không khát đâu. Em ngồi đây chờ anh lấy xe lại đón em với anh Tài. Về nhà vừa làm cơm vừa nói chuyện, vui hơn.

Nghĩa đi rồi, tôi nhìn Hạnh. Đôi mắt ấy vẫn đen như nhung, dễ làm say lòng người.

- Hạnh mua cá lóc, lát nữa bỏ four nướng ăn để nhớ ngày anh và anh Nghĩa đến nhà Hạnh lần đầu.

Cám ơn Hạnh còn nhớ ngày vui ấy! Nhưng sao tôi không còn nghe rung động chút nào trong lòng vậy?

Ở khoảng giữa cuộc đời, có những lúc mình chợt bắt gặp thêm một điều luyến tiếc. Tiếc sức khỏe của tuổi hai mươi, khi thường nghe mệt mỏi trong người. Tiếc vẻ thanh tú của gương mặt học trò, khi soi gương thấy mình phì ra. Tiếc một đôi lần gây buồn phiền cho bè bạn. Tiếc lòng không còn xao xuyến nữa với những thay đổi của thời tiết, nắng mưa. Tiếc những tình cảm trong trắng không bao giờ lặp lại...

Nhà của Nghĩa ở miền ngoại ô phía Nam Paris, trên tầng sau một HLM. Phòng khách trải thảm len, bộ salon mới, trên tường treo mấy tấm tranh sơn mài khổ lớn. Hạnh giành làm bếp một mình không cho chúng tôi phụ. Nghĩa rót cho tôi ly Dubonnet khai vị.

Trông dáng điệu thấy nó vẫn thương và quý tôi thật sự như thuở nào. Mùa đông trời tối sớm, Nghĩa vặn đèn chong dìu dịu ở góc phòng.

- Bên Bỉ có gì lạ không hả Tài?

- Cũng chẳng có gì lạ lắm. Độ một vài trăm cây số bờ biển cát, nước lạnh băng. Vài thành phố còn nhiều kiểu kiến trúc xưa trông cũng đẹp. Ngoài ra thì còn có khu rừng Ardennes, mùa hè lên chơi cũng đỡ buồn.

Không biết để an ủi tôi hay thật lòng, Nghĩa nói:

- Bên này thì cũng vậy thôi. Tao đã cùng Hạnh đi thăm khắp những nơi nổi tiếng ở Paris. Nói chung thăm một lần cũng đủ rồi. Bây giờ chẳng thấy gì lạ nữa. Nhiều khi tao nghĩ dù cho có ở đây suốt đời, mình vẫn chỉ là du khách. Bởi làm sao có thể hiểu được Paris, suy nghĩ với Paris, chia sẻ vui buồn với người Paris được?

- Ờ, tao cũng nghĩ như mày.

- Tài à! Cái năm mày đi, tao học lại đệ nhứt với một tâm sự buồn và một mặc cảm kỳ lạ. Trong những giờ học Toán tao cứ nghĩ đến trường Polytechnique mà xót xa, thấy hy vọng ấy chỉ có mày mới đạt được. Nhờ mày, tao cũng hay tìm đọc sách Pháp, Anh. Tao mơ được ngồi trên ghế đá vườn Lục Xâm Bảo có lá vàng rơi trên những bức tượng đẹp, tao ước ao được đi bộ dọc bờ sông Seine, xem những quầy bán sách cũ, tao mê miền Provence của Daudet có đàn cừu trên núi tuyết...

- Tao cũng vậy, ngày nghe cô Quế giảng: "Mưa đập vào cửa kính như để gọi tôi ra" tao cứ nôn nao muốn biết xứ người mơ mộng như thế nào...

Nghĩa thở dài:

- Bây giờ thì tao lại mơ những điều ngay trước có trong tay mà không biết quý.

- Chẳng hạn?

- Một cuộc đời bình dị, đi dạy học ở một tỉnh nào đó. Miễn đừng nhấp nhỏm tìm cách ra đi là mình có thể xây dựng một cuộc đời hạnh phúc. Tao chưa bao giờ tham gia chuyện chính trị nên chẳng phải lo gì. Mà thôi, muộn quá rồi phải không Tài?

Qua lần gặp gỡ đầu tiên ấy, tôi nghe ấm trong lòng tình xưa nghĩa cũ. Tôi cũng vui thấy Nghĩa và Hạnh sống hòa thuận với nhau. Hạnh phúc giữa hai người hẳn là tràn đầy.

Tôi trở lại thăm và từ giã hai vợ chồng Nghĩa buổi chiều hôm sau. Nghĩa đi vắng chưa về. Hạnh ở nhà một mình. Khác với hôm qua, hôm nay giản dị trong bộ bà ba và mái tóc buông xõa trên vai.

Hạnh tiếp tôi, vui lắm. Những hình ảnh, kỷ niệm xưa lại trở về trong tôi.

- Bác khỏe không Hạnh?

- Má già yếu đi nhiều rồi anh à.

Rồi Hạnh xa vắng:

- Hôm sắp đi, Hạnh chỉ kịp về thăm má có một buổi chiều. Má đau. Má bảo con gái lớn theo chồng má không cấm cản, nhưng riêng má thì không muốn mất con. Rồi má khóc, lấy trong rương đôi bông tai cẩm thạch cho em.

- Hạnh có kịp thăm bến đò An Hảo?

Hạnh ngước mắt nhìn tôi, nửa phần trách móc, nửa phần xa xôi.

- Không anh ạ. Nhưng Hạnh vẫn có ý ấy, chẳng hiểu vì sao nữa.

- ... Anh thấy, như hôm nay, Hạnh không khác xưa là mấy.

Hạnh bối rối, không đáp lời.

- Mai mốt anh sẽ về thăm má thay cho Hạnh và nói với má rằng Hạnh sẽ về thăm má.

- Thật sao anh?

- Đâu có khó gì Hạnh. Tùy ở mình thôi.

- Anh đừng đùa với Hạnh. Hạnh khổ tâm lắm khi ngoài thì cười vui mà lòng thì lặng ngắt. Ai cho Hạnh đổi một năm sống ở đây lấy một ngày sống với má Hạnh cũng chịu.

Từ hôm qua tới giờ tôi mới thấy Hạnh buồn và tư lự. Vầng trán khẽ chau, đôi tay đan nhau.

- Hạnh à! Xưa có một lần em đã đồng ý để anh coi em như một người em gái

- Dạ

- Anh vẫn nhớ mãi lời dặn của em hôm anh lên đường. Chúng ta chỉ có một quê hương, không thể chọn nơi khác được phải không em?

- Em hiểu anh muốn nói với em điều gì. Em hiểu anh có nhiều lý tưởng... Nhưng sao em vẫn thắc mắc điều này.

- Em cứ nói, anh nghe.

- Anh đừng giận. Em thấy có cái gì không ổn. Sao anh... sao anh chưa về sống với quê hương?

- ... Em hỏi đúng vào điều vẫn làm anh canh cánh. Vì sao ra đi, vì sao ở lại, vì sao chưa về?... Hai câu hỏi đầu tiên tương đối dễ trả lời. Còn vì sao chưa về thì quả thật là khó nói sao cho em hiểu. Nhưng thôi, anh nghĩ rằng mỗi người có một hoàn cảnh. Về hay ở, miễn trọn tình trọn nghĩa với quê hương là quý rồi.

- Một cách nói?

- Không đúng thế đâu Hạnh... Hay là anh nói thế này. Anh sẽ ở nán lại đây cho tới ngày em và Nghĩa và những người chung hoàn cảnh được về thăm lại nơi chôn nhau cắt rún, thăm mồ mả ông bà, chịu không?

Những lời tôi nói hơi có vẻ trách móc. Hạnh ôm mặt khóc và tôi hối hận khôn cùng. Mấy phút trôi qua

- Anh xin lỗi Hạnh. Đừng giận anh nữa.

- ... Chính em mới là người phải xin lỗi anh. Có lẽ em chưa hiểu được hết những gì anh nói, nhưng em tin ở tấm lòng của anh đối với quê hương xứ sở.

- Hạnh à.

- Dạ.

- Anh vẫn có thể coi em như một người em gái?

- Dạ.

Và tôi ra về

***

Trên xa lộ phủ đầy bóng đêm, tôi lại tự thắc mắc không biết những lời cuối của mình có thừa lắm không? Trong đời, vậy là vẫn còn những giây phút mình nói lên được những lời chứa chan tình cảm tưởng như đã cạn lòng. Và bây giờ, tôi lại tưởng tượng hình dáng e thẹn của một cô gái, con của Nghĩa và Hạnh, chèo xuồng chở bạn đi chơi trên sông nước quê hương một ngày mùa xuân trời trong nắng dịu.

Bruxelles, những ngày giáp tết

NGUYỄN PHƯỚC BÌNH

(Kết Hợp, Hội người VN tại Bỉ)

 

➖ ➖ ➖