Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 271 đăng ngày 2024-12-21
***
Tiếng chim hót trong bụi mận gai (3.2)
Tác giả: Colleen McCullough
Dịch giả: Trung Dũng
từ bản chuyển ngữ tiếng Pháp “Les oiseaux se cachent pour mourir” (Những con chim ẩn mình chờ chết)
Tiếng Anh:
The Thorn Birds by Colleen McCullough

Colleen McCullough

-:-


1929 - 1932

PADDY

3.2

Năm 1930, Drogheda cũng trải qua cơn khủng hoảng. Nạn thất nghiệp đang hoành hành khắc nước Úc. Giá thực phẩm rất thấp nên Paddy mua trữ đầy nhà kho. Bất cứ ai bị khó khăn Paddy đều chia sẻ từng miếng cơm manh áo. Những kẻ lang thang không nhà, thất nghiệp lũ lượt kéo nhau đến Drogheda. Rồi họ lại tiếp tục lang thang. Có một số sống sót, một số khác chết bờ chết bụi vì đói.

Trong tình hình như thế, Stuart phải trở lại lo việc nhà, luôn thủ cây súng kế bên. Các tay chăn nuôi giỏi rất dễ mướn. Paddy có tất cả chín người độc thân phụ việc, họ ở một căn nhà cũ trước đây vẫn dành riêng cho các đàn ông.

Mùa đông năm đó khi thì giông bão dữ dội, khi thì khô ráo, khi thì ẩm ướt; tiếp đó sang mùa xuân và mùa hè mưa nhiều đến đỗi cỏ ở Drogheda mọc cao chưa từng thấy, rậm rạp và xanh tươi.

Jims và Patsy học hàm thụ, ngồi trước bàn ở nhà bếp nói chuyện với nhau không dứt về cuộc sống nội trú ở trường Riverview tại Sydney.

Rồi thời tiết khô ráo lại trở về, cỏ cao quá đầu gối trở nên khô khốc, dễ gẫy, từ xa nhìn trắng bạc. Không ai đoán được khi nào lại có mưa, nhưng ít ai quan tâm đến chuyện đó, dân Drogheda quen sống chịu đựng với những bất thường và khắc nghiệt của trời đất.

Mùa đông năm 1932, những cơn giông bão kèm theo những đợt lạnh buốt xương, nhưng cỏ vẫn còn um tùm và xanh do đó tránh được những cơn bụi tốc lên. Ruồi cũng ít hơn mọi năm... Và một ngày tháng tám Paddy đi thăm một bãi chăn xa. Một cơn giông ập tới. Ông bước xuống đất, cột ngựa thật kỹ vào một thân cây rồi ngồi dưới tán của cây wilga chờ cho trời sáng tỏ. Năm con chó theo Paddy run sợ, nằm sát vào nhau bên chủ, còn các con cừu mà Paddy định dời qua một bãi chăn khác thì tản ra từng nhóm nhỏ hoảng sợ nhảy lung tung. Trận giông thật khủng khiếp chứa đựng sự cuồng nộ tột độ của trời đất. Đột ngột trung tâm của cơn gió lốc chuyển đến ngay trên đầu Paddy. Ông bịt cả hai tai, nhắm mắt và cầu nguyện.

Không xa lắm nơi ông ngồi núp dưới những cành lá thấp của cây wilga có một đống củi khô xung quanh cỏ mọc rất cao. Giữa đống củi khô ấy có một cây khuynh diệp khẳng khiu, chỉ còn lại thân trơ trụi cao hơn 12 mét chĩa thẳng lên những đám mây đen như mực đang vần vũ.

Một ánh lửa xanh chớp lên như xé toạc hai mí mắt đã nhắm của Paddy khiến cho ông tự nhiên phải bật dậy. Liền đó một tiếng nổ long trời hất ông ngã lăn xuống đất như một con rối. Mặt phủ đầy bụi nhưng ông vẫn kịp thấy chùm ánh chớp tạo ra một cảnh sắc chưa từng thấy. Dọc theo thân cây chết đứng sừng sững như một ngọn giáo, tỏa ra những vầng sáng xanh và đỏ rực làm chóa mắt. Rồi tiếp đó trước khi Paddy ý thức được chuyện gì đã xảy ra thì lửa đã cháy bùng lên. Giọt nước cuối cùng đã bốc hơi từ lâu trên đống củi chết, cỏ mọc cao và khô ran như giấy. Như một thách thức của đất đối với trời, thân cây khổng lồ biến thành một cột lửa cháy thật cao, vượt cả chiều cao của cây rất xa. Không mấy chốc các cành chết và các gốc cây gần đó cũng bốc cháy. Dưới cơn gió xoáy, vòng lửa lan ra thật nhanh, càng lúc càng rộng. Paddy không kịp tháo dây thả ngựa ra.

Cây wilga khô cằn cũng cháy, chất nhựa bên trong làm nổ thân cây. Đâu đâu Paddy cũng thấy lửa, khắp nơi trước mắt ông dựng lên những bức tường đỏ rực. Cây cối biến thành những bó đuốc không lồ, còn cỏ dưới chân ông như những con thú dữ vừa bắt vừa gầm lên. Ông nghe tiếng hí thảm thiết của con ngựa, tim ông nhói đau. Ông không thể nào cứ để cho con vật đáng thương bị cột bất lực chờ chết. Một con chó rống lên, tiếng rống ấy biến thành tiếng kêu hấp hối gần hệt như tiếng người. Bỗng chốc, con vật vừ đâu vọt ra, tưởng như nhảy múa, đúng là một cây đuốc sống. Không bao lâu nó ngã lăn xuống cỏ đang cháy, yên lặng. Những tiếng rống của mấy con chó khác vang dội lên, chúng tìm cách thoát thân trong tuyệt vọng; lửa bắt nhanh giữa cơn gió giận dữ, nhanh hơn bất cứ sinh vật nào có chân và có cánh. Đang tự hỏi trong khoảnh khắc mình nên chọn phương án nào tốt nhất để cứu con ngựa thì một ánh lửa vụt đến như sao xẹt ngang đầu Paddy, cháy xém tóc ông. Nhìn xuống ông thấy một con vẹt to tướng bị thui sống dưới chân.

Bỗng chốc, Paddy hiểu ra rằng thế là hết. Không còn cách nào thoát ra khỏi cái địa ngục này, cả ông và con ngựa. Giữa lúc ý nghĩ ấy đến trong đầu ông thì một cây khô gần đấy, cháy rực lên, ngọn lửa phát ra đủ hướng, chất nhựa bên trong nổ bùng. Da tay của Paddy nhúm lại, đen sì, màu tóc sáng chói của ông như phai nhợt đi dưới ánh lửa rực sáng hơn gấp bội. Một cái chết như thế không thể nào tả xiết. Quần áo cháy bừng bừng, Paddy giẫy giụa giữa lò thiêu sống. Và mỗi tiếng hét lên thảm thiết đều chỉ gọi một cái tên: tên vợ của ông, Fiona.

° ° °

Tất cả những người khác đều kịp về Drogheda trước khi cơn bão đến, họ bỏ ngựa ở ngoài sân và hối hả hoặc chạy vào ngôi nhà lớn hoặc vào căn nhà dành cho những người đàn ông độc thân.

Trong phòng khách được Fiona trang hoàng, đèn sáng rực. Anh em gia đình Cleary ngồi quanh lò sưởi lắng nghe tiếng gió gào thét. Không ai có ý định ra ngoài để chứng kiến cơn phẫn nộ của trời đất. Mùi củi khuynh diệp cháy thật dễ chịu. Bánh xăng-uých và bánh ngọt bày đầy trên chiếc bàn nhỏ ở đó có sẵn ấm trà. Tất cả đã giữ họ lại trong thứ không khí êm đềm. Cả gia đình không hề chờ đợi Paddy trở về vào lúc này.

Khoảng bốn giờ, các đám mây kéo về hướng tây, bất giác mọi người đều thấy dễ thở hơn. Thật ra chẳng ai có thể yên tâm được giữa lúc cơn bão khô đang hoành hành, dù mỗi nhà ở Drogheda đều có cột thu lôi. Jack và Bob đứng lên, lấy cớ ra ngoài để hít thở không khí, nhưng thật ra là để trút bỏ những lo âu vây hãm.

- Xem kìa! Bob đưa tay chỉ về hướng tây.

Sau những ngọn cây bao quanh bãi chăn chính, một màn khói vàng sậm thật dày phủ cả một góc chân trời và càng lúc càng lan rộng mà nhìn từ xa như những tấm biểu ngữ khổng lồ rách tơi tả vì gió.

- Trời ơi! Jack chỉ kịp kêu lên rồi chạy đến máy điện thoại.

- Cháy! Cháy! Jack hét lớn, trong khi những người khác sau phút bàng hoàng cũng ùa chạy ra ngoài. Jack tiếp tục hét: chạy dữ dội ở Drogheda!

Rồi Jack bỏ máy xuống. Anh không cần nói gì thêm với người trực tổng đài ở Gilly. Mặc dù gia đình Cleary từ khi đến đây chưa hề chứng kiến một vụ cháy nào nhưng ai cũng đều biết mình phải làm gì. Đám con trai chạy tìm ngựa, những người làm thuê nhanh chóng rời lán trại, trong khi ấy bà Smith mở cửa một trong những kho, phân phát ngay mấy chục chiếc bao tải bằng vải.

Cột khói càng ngày càng cao ở phía tây và gió lại thổi từ hướng này, đám cháy đe dọa tiến vào trung tâm vùng Drogheda. Fiona thay chiếc váy, lấy quần của Paddy mặc vào rồi theo Meggie chạy ra chuồng ngựa. Tất cả người trong gia đình này ai cũng biết sử dụng chiếc bao tải để dập lửa.

Giữa cơn giông bão lại đánh hơi mùi khói mấy con ngựa lồng lên không chịu để thắng yên dễ dàng.

Bob và mấy người làm thuê đi được năm phút. Fiona và Meggie phi nước đại dọc theo con suối rồi tiến thẳng về phía màn khói dày đặc đang cuồn cuộn bốc cao. Phía sau Tom và người làm vườn, vừa bơm đầy nước vào chiếc xe xitéc và nổ máy ngay. Trước một đám cháy rừng như thế này, việc tiếp nước như vậy chẳng thấm vào đâu; thật ra số nước này chỉ để giữ cho các bao vải luôn luôn ướt và cũng như để tưới lên người cho những ai có nhiệm vụ xông vào đàn áp lửa. Trên con đường về hướng tây, đi ngang qua dãy nhà ở mép ngoài nơi có khả năng bị cháy trước tiên, Tom bỗng nảy ra ý kiến xịt vòi rồng tưới ướt trước ba căn nhà này, trong đó có căn nhà của người quản lý.

Trong lúc Meggie phi ngựa bên cạnh Fiona, màn khói ở phía tây càng bừng lên dữ dội, một mùi cháy khét gay gắt. Bóng tối bắt đầu phủ trùm; các loại thú chạy tán loạn về hướng đông, băng qua khu đất kết thành từng đoàn dày đặc; nào là căngguru, heo rừng, cừu, đà điểu, gấu có túi và hàng ngàn thỏ. Meggie nói với mẹ “Bob đã mở các cổng” Lúc này hai mẹ con đang từ khu đất rào nuôi cừu mang tên Borehead đi đến khu đất Billa – Billa. Giống cừu thật đần độn. Khi chạm mặt vào hàng rào thì dù cho cách đó không bao xa có một cái cổng đã mở, chúng vẫn không biết làm sao chạy thoát ra được. Cánh đàn ông đến nơi thì đám cháy đã di chuyển đến 15 cây số, trải rộng theo chiều ngang và lan ra từng giây một. Trước cảnh tượng lửa cháy từ lùm cây này sang lùm cây khác, gió thổi mạnh bắt mồi khắp các đám cỏ mọc cao, cánh đàn ông như bị chết cứng trên ngựa, họ nhìn về hướng tây bất lực. Những con ngựa, tỏ ra hoảng sợ và họ không thể điều khiển được nữa. Đừng mong gì khoanh đám cháy lại ở mỗi chỗ này; cả một đội quân đông đảo cũng không mong làm được. Chỉ còn cách là trở về khu nhà ở và dốc hết sức mà bảo vệ khu này. Chiều rộng của đám cháy đang lan dần, khoảng bảy cây số. Nếu họ không thúc ngay mấy con ngựa mệt mỏi quay trở về thì không còn kịp thoát thân nữa. Tiếc thay những con cừu. Tiếc quá nhưng họ không thể làm gì để cứu chúng.

Nhiều xe hơi đậu gần nhà và trên đường từ Gilly đến, nhiều ánh đèn pha nối nhau chói sáng trong đêm. Khi Bob vừa vào tới sân nhà, thì một đám đông đang chờ sẵn anh ta.

- Tình hình thế nào Bob? Marin King hỏi.

Bob trả lời với vẻ thất vọng.

- Theo tôi, đám cháy quá lớn, khó mà dập tắt được. Chiều ngang đến bảy cây số và gió như thế này thì lửa bắt tới nhanh còn hơn cả ngựa phi nước đại. Tôi không biết chúng ta có thể cứu trang trại không, nhưng về phần Horry chắc chắn ông ấy phải chuẩn bị bảo vệ sản nghiệp vì lửa đã sắp đến đó. Tôi không nghĩ ra cách nào để có thể ngăn chặn.

Martin King được giao quyền chỉ huy ba trăm người chủ yếu để bảo vệ Drogheda. Ông là người chăn nuôi lâu năm nhất trong vùng và từng chiến đấu với các vụ cháy rừng năm mươi năm qua.

- Tôi có sáu chục ngàn mẫu ở Bugela - Ông ta nói. Vào năm 1905, tôi bị trắng tay, hết sạch cừu và cả cây cối trong trang trại. Mười lăm năm sau tôi mới gầy dựng lại được; có lúc tôi tưởng phải bó tay vì giá len chẳng là bao và cả thịt bò cũng thế.

Bên ngoài những trận cuồng phong vẫn ào ào thét, mùi cháy khét khắp nơi. Vào nửa đêm, phía tây vẫn đỏ rực một thứ ánh sáng của địa ngục, khói và tro từ trên cao phủ xuống khiến mọi người phải ho sặc sụa. Một lúc sau, mọi người nhìn thấy những ngọn lửa đầu tiên như những cái lưỡi khổng lồ nhảy múa uốn khúc. Sau màn khói khoảng 30 mét; rồi một tiếng gào thét ầm ĩ nổi lên không khác tiếng gào thét của một cầu trường đông nghẹt khán giả điên cuồng hò hét. Hàng cây bọc quanh khu đất rào nuôi cừu ở hướng tây bốc cháy và biến thành một bức tường lửa dày đặc, rực sáng.

Đứng trên hành lang của ngôi nhà lớn, hai mắt mở to kinh hãi; Meggie sửng sốt nhìn thấy rõ từng bóng người li ti in trên lửa, nhảy tới nhảy lui, tay chân cử động hỗn loạn.

Hai tiếng đồng hồ sau, cánh đàn ông đầu tiên quay về. Mệt nhừ, họ ngả nghiêng lục tìm bất cứ thứ gì có thể ăn được để lấy lại sức rồi trở về biển lửa tiếp tục chiến đấu. Phụ nữ ở nhà được huy động để lo việc tiếp tế, ăn uống, làm sao luôn có đầy đủ món ragu cừu, bánh mì, trà nóng, rượu Rhum và bia cho ba trăm người. Khi một vụ cháy lớn xảy ra, ai ai cũng có nhiệm vụ của mình.

Giữa hai đợt vào bếp lấy thức ăn tiếp tế cho cánh đàn ông Meggie quan sát đám cháy, lòng ngập tràn một thứ kính cẩn lạ lùng đối với sức mạnh vô hình trong đó lẫn lộn sự âu lo và kinh hãi. Điều ghê gớm đang diễn ra lại ẩn chứa cái đẹp hơn hẳn bất cứ kỳ quan nào đang có trên trái đất này, vì rằng cái đẹp đó thuộc về trời đất, thuộc về những thái dương thật xa xăm đến nỗi ánh sáng của nó đến đây đã giá lạnh. Đó là cái đẹp từ thượng đế và từ quỷ mà ra. Bây giờ trận biển lửa ấy nổi lên màu đen, màu cam, màu đỏ, màu vàng và màu trắng. Một thân cây thật to đen sì hiện rõ lớp vỏ ánh lên màu cam rực lửa, than hồng vừa tách ra khỏi thân bay chập chờn như những bóng ma tinh quái. Thật thế, một cảnh tượng vĩ đại giữa đêm đen. Meggie sẽ nhớ mãi suốt đời.

Trung tâm sống còn của Drogheda chỉ cách ranh giới phía đông của trang trại năm cây số, nơi gần Gilly nhất. Beel Beel tiếp nối liền với trang trại và xa hơn nữa về phía đông là Narrengang. Khi trận cuồng phong ào ào với tốc độ tám mươi cây số giờ, thì cả vùng đều hiểu rằng, ngoại trừ một cơn mưa to ập xuống đúng lúc, không có cách nào tránh được lửa tiếp tục cháy trong nhiều tuần, biến hàng trăm cây số đất đai màu mở trở thành sa mạc. Giữa lúc nguy ngập như thế thì nhờ Tom mà nhà cửa gần con suối vẫn còn nguyên. Ông ta như người bị quỷ ám, cứ mang xe bồn đi đổ đầy nước, rồi tưới ào ào vào tường nhà, rồi lại đi lấy nước và lại phun liên tục. Nhưng khi cơn gió nổi lên dữ dội, Tom đành phải tháo lui đầu hàng, nước mắt ràn rụa. Nhà cửa ở đó không thể cứu được nữa rồi.

- Đáng lý ra ông bạn nên quỳ gối xuống và tạ ơn Chúa, tốc độ gió phía trước đám cháy đã không gia tăng - Martin King phân tích - Nếu không, tất cả nhà cửa ở trang trại này đều cháy sạch và cả chúng ta cũng thành tro bụi. Cầu Chúa cho những người ở Beel Beel được thoát chết.

Fiona trao cho Martin King một ly rượu rhum thật lớn. Không còn là một thanh niên nữa nhưng ông ta vẫn đủ sức chiến đấu đến phút cuối cùng khi cần thiết, ông ta đã chỉ huy nhiều cuộc chữa cháy một cách thành thạo.

- Thật là vớ vẩn - Fiona nói - vào cái lúc mà tôi tưởng rằng tất cả sẽ mất hết thì những suy nghĩ kỳ cục nhất lại xuất hiện trong đầu. Tôi không hề nghĩ đến cái chết, cũng không nghĩ đến con cái hay ngôi nhà nguy nga đẹp đẽ này sẽ bị thiêu hủy. Tôi hoàn toàn không thể nghĩ đến cái gì khác hơn là cái giỏ may vá của tôi, cái áo len mà tôi đang đan, cái hộp đựng nút mà tôi để dành nhiều năm, nhớ đến cái khuôn bánh hình trái tim mà Frank đã tự tay làm lâu rồi. Làm sao tôi có thể tiếp tục sống nếu thiếu tất cả những món ấy? Tất cả những thứ nhỏ nhặt đều không thể tìm mua ở tiệm.

- Đó là những suy nghĩ đã đến trong đầu của hầu hết phụ nữ - Martin King tán đồng - Tôi còn nhớ vụ cháy năm 1905, trong khi tôi vỡ phổi để lo ngăn chặn lửa thì vợ tôi hoảng hốt chạy vào nhà để lo cứu... cái công trình dở dang của bà, đó là một mẫu thêu còn nằm trên bàn căng. Khi cất xong căn nhà mới, vợ tôi hoàn thành liền mẫu thêu đó, một trong những mẫu thêu để ngợi ca kỷ niệm của ngôi nhà. Ngôi nhà - ngôi nhà thân yêu bà hiểu ý của tôi muốn nói chứ. Thôi, tôi phải đi đây. Gareth Davie ở Narrengang có lẽ cần chúng tôi tiếp tay và nếu tôi không lầm thì chẳng bao lâu nữa Angus ở Hunish cũng sẽ rơi vào một tình thế tương tư.

Fiona tái mặt:

- Ồ, Martin! Chẳng lẽ lửa lại lan xa đến thế?

- Chúng tôi vừa hay tin Booroo và Bourke đã bị đe dọa bà Fiona ạ.

Ba ngày liền sau đó, lửa tiếp tục lan về hướng đông trên chiều ngang cứ mở rộng ra. Nhưng rồi đột ngột một cơn mưa thật lớn trút xuống như thác, liên tiếp gần bốn ngày và dập tắt đi những ngọn lửa cuối cùng. Nhưng bấy giờ đám cháy đã lan ra một trăm sáu chục cây số, để lại đằng sau một vùng đất rất rộng đen sì chiều ngang 30 cây số, từ trung tâm Drogheda cho đến ranh giới cuối cùng của thị trấn Gillanbone là Rudna Hunish.

Cho đến khi mưa trút xuống, không ai chờ đợi sẽ được tin tức của Paddy vì rằng mọi người nghĩ Paddy đang an toàn ở đâu đó bên kia biển lửa. Ai cũng nghĩ ông mất liên lạc với gia đình vì cái nóng vẫn còn thiêu đốt và cây cối vẫn tiếp tục cháy âm ỉ. Nếu đám cháy không làm hư hỏng đường dây điện thoại, thì có lẽ sẽ gọi được về nhà. Chắc là Paddy đã phi ngựa về hướng tây và tìm chỗ ẩn trú ở Bugela.

Nhưng trong sáu giờ liền mưa đổ xuống, vẫn không có tin tức, bấy giờ cả gia đình có phần âu lo. Rồi luôn trong bốn ngày sau đó, họ vẫn nói với nhau là không có gì phải băn khoăn. Paddy không thể về nhà trong thời tiết này và có lẽ ông ta quyết định ở lại đó chờ cho đến khi nào có thể về thẳng Drogheda chứ không phải đến chỗ của Martin King.

- Đáng lý giờ này ba phải về rồi, Bob bồn chồn nói. Anh đi tới đi lui trong phòng khách dưới những cặp mắt đầy âu lo.

Cái oái ăm là mưa đã mang lại một không gian mát mẻ đột ngột và trong lò sưởi ánh lửa lại bập bùng.

- Bây giờ anh tính thế nào hở Bob? - Jack hỏi.

- Theo anh, đã đến lúc chúng ta chia nhau đi tìm ba. Biết đâu ba bị thương hoặc đi bộ và phải băng qua một đoạn đường dài để trở về nhà. Cũng có thể, con ngựa của ba quá sợ hãi và hất ba ngã nhào, thế là ba phải nằm đâu đó, không đi được. Ba chỉ mang đủ lương thực ăn trong một hoặc hai ngày mà thôi, tuy nhiên anh không nghĩ rằng ba bị chết đói. Nhưng bây giờ chúng ta không có cách nào để báo động cho mọi người biết, anh sẽ không kêu gọi những người ở Narrengang tiếp tay, nhưng nếu từ đây đến tối không tìm ra ba, anh sẽ đến trang trại Dominic và ngay sáng mai thì tất cả những người dân trong vùng sẽ cùng chúng ta đi tìm ba. Trời ơi, phải chi đường dây điện thoại được phục hồi ngay.

Fiona run lên, mắt đỏ ngầu như đang trong cơn sốt không khác một con vật đang bị săn đuổi.

- Tôi đi mặc quần dài vào ngay, bà nói. Tôi không thể nào ở nhà chờ được.

- Mẹ ơi, mẹ nên ở nhà! Bob van xin.

- Nếu ba con bị thương, ba có thể nằm tại đâu đó, Bob ạ. Có gì bảo đảm ba con không bị thương nặng. Con đã cho tất cả anh em công nhân đi Narrengang để tiếp tay ở đó rồi, chúng ta đâu còn bao nhiêu người để đi tìm ba con. Mẹ sẽ đi với Meggie như thế Meggie và mẹ sẽ đủ sức đối phó với mọi bất trắc. Còn nếu Meggie đi một mình thì nó lại cần thêm một người khác đi với nó, như thế lại mất bớt người.

Bob đành chiều theo ý mẹ.

- Thôi được, thưa mẹ. Mẹ có thể cỡi con ngựa thiến của Meggie. Mọi người nên mang súng đạn đầy đủ.

Trên lưng ngựa, họ băng qua con suối và đi sâu vào vùng đất điêu tàn. Không còn lại một dấu vết nào của màu xanh hay cả màu xám của đất, không còn một thứ gì cả trên khoảng bao la của đất đai cháy thành tro, đen sì và ẩm ướt. Lạ lùng thay, đến giờ này sau bốn ngày mưa liên tục mà khói vẫn còn bốc. Mỗi một chiếc lá trên cây đều biến thành một mảnh khô cháy co rúm lại và cứ nơi nào trước kia có cỏ thi người ta thấy rải rác những đống nhỏ đen thui, đó là những con cừu bị chết cháy. Thỉnh thoảng chợt thấy những đống to hơn, đó là bò hay heo rừng. Trên gò má từng người, nước mắt trộn lẫn với nước mưa.

Bob và Meggie đi đầu, tiếp đó là Jack và Hughie, Fiona và Stuart đi phía sau. Thỉnh thoảng mấy con ngựa hí vang, khịt mũi vì đối đầu thêm một cảnh tượng hãi hùng, nhưng Fiona và Meggie thì thản nhiên vì đầu óc chỉ nghĩ đến Paddy. Mặt đấy lầy lội khiến họ tiến rất chậm và khó khăn nhưng rất may cỏ cháy lớp lớp dưới chân làm thành một tấm thảm bằng sợi có chỗ cho chân ngựa bám vào. Đi được một đoạn, họ lại cứ nghĩ Paddy đã xuất hiện ở đàng xa nhưng thời gian cứ trôi qua mà chẳng thấy Paddy đâu cả.

Tim họ nhói lên khi nhận ra đám cháy đã lan rộng nhiều hơn là họ nghĩ, đến tận đất nuôi cừu ở Wilga. Có lẽ những đám mây trong cơn giông vừa qua đã che khuất khói cho đến khi ngọn lửa đến gần một khoảng cách nào đó thì từ Drogheda mới thấy được. Những ranh giới của đám cháy làm cho tất cả bàng hoàng. Một phía là đường chân trời nổi rõ lên màu đen sì như một thứ hắc in bóng loáng, còn bên kia là một màu xanh và màu hung quen thuộc, buồn tẻ dưới cơn mưa. Bob dừng ngựa lại nói với Fiona.

- Bắt đầu từ đây, chúng ta sẽ chia nhau đi tìm ba. Con sẽ đi về hướng tây, đó là hướng có khả năng nhất để tìm ra ba, con được trang bị đầy đủ để đối phó mọi bất trắc. Tất cả chúng ta đều đem đủ đạn chứ. Rất tốt. Bất cứ ai phát hiện được một vết tích gì, cứ bắn lên trời ba phát súng, còn ai nghe được thì chỉ trả lời bằng một phát rồi chờ. Ai đã bắn ba phát thì cứ tiếp tục bắn như thế sau năm phút, còn những ai nghe thì đáp lại một phát.

Bob noi tiếp:

- Jack, em hãy đi xuống hướng nam, dọc theo đường cháy. Hughie, em đi hướng tây nam, còn anh hướng tây. Mẹ và Meggie cứ đi về hướng tây bắc. Stuart, em lần theo phía rìa đám cháy thẳng phía bắc. Và hãy nghe lời dặn này, phải tiến thật chậm. Mưa làm mắt chúng ta không nhìn rõ ở xa, cây cháy nằm ngã nghiêng rất nhiều. Hãy gọi nhau thường xuyên, có thể ba không thấy chúng ta nhưng nghe được tiếng gọi. Đừng có bắn súng nếu không phát hiện chuyện gì đặt biệt. Ba không có mang theo súng, do đó nếu ba nghe súng nổ mà không thể lên tiếng được thì sẽ rơi vào một tâm trạng rất hoang mang.

“Chúc tất cả may mắn. Chúa phù hộ chúng ta.”

Không khác những người hành hương chia tay nhau ở ngã tư cuối cùng, từng người mất hút dưới màn mưa, tiến sâu về hướng đã được phân công. Đi chưa đầy một cây số Stuart chú ý một lùm cây cháy đen ở gần đường ranh của đám cháy. Cậu ta chú đến một cây wilga thấp, đen sì và nhăn nheo như chùm tóc xoắn của một chú bé da đen, bên cạnh đó một thân cây cao to bị thiêu rụi còn đứng ở ngoài rìa tuyến lửa. Rồi Stuart lại phát hiện thêm dấu vết còn lại xác con ngựa của Paddy cháy bám và một gốc lớn của cây gôm. Hai con chó của Paddy chỉ còn là những đống đen thui, bốn cẳng chĩa thẳng lên trời, cứng đơ như bốn cây gậy. Cậu ta xuống ngựa, đôi giày bốt ngập bùn đến cổ chân, thế rồi cậu ta rút cây súng ra khỏi yên ngựa, hai môi mấp máy cầu nguyện, lần tìm đường đi giữa những vũng bùn trơn trợt. Nếu không tìm thấy những gì còn lại của con ngựa và hai con chó, Stuart vẫn có thể thầm hy vọng nạn nhân có thể là một kẻ lang thang nào đó. Nơi này nằm quá sâu giữa trung tam Drogheda, do đó cũng khó nghĩ đến nạn nhân là một người chăn bò hay chăn cừu đến từ Bugela. Xa một chút, Stuart phát hiện xác của ba con chó còn lại; Paddy đem theo năm con chó tất cả. Cậu ta biết sẽ không có xác con chó thứ sáu, và cậu ta đã đoán không sai.

Cách xác con ngựa không xa, khuất sau một thân cây nằm ngang là những phần còn lại của một xác người. Không thể nào lầm được. Ướt đẫm dưới cơn mưa, cái hình thù màu đen nằm ngửa, cong theo vòng cung, hai mông và hai tay chấm đất. Hay tay dang rộng ra, mấy ngón tay lộ xương vì thịt đã rã, co rút lại như đang bấu víu vào khoảng không. Hai chân cũng hơi dang ra, hơi co lại ở đầu gối, còn ở nơi mà trước kia là cái đầu thì chỉ còn hai hố mắt trống trơn!

Trong một lúc, ánh mắt trong và sáng quắc của Stuart hướng thẳng vào cha cậu. Stuart không thấy đó là thân xác đã bị thiêu rụi mà thấy cha mình vẫn nguyên vẹn như khi còn sống. Cậu ta chĩa súng lên trời và bắn, rồi lại nạp đạn và bắn phát thứ hai, rồi phát thứ ba. Có tiếng súng nổ vọng lại từ xa; thêm một tiếng súng khác xa hơn nghe văng vẳng. Lúc đó Stuart đoán ra rằng tiếng súng gần hơn hết có lẽ là của mẹ hay của Meggie. Cả hai đi về hướng tây bắc, còn cậu ta ở hướng bắc. Không chờ đúng năm phút đúng như Bob đã dặn, Stuart lại nạp đạn và chĩa súng hướng nam bóp cò. Lại nạp đạn, bắn phát thứ hai rồi thứ ba. Stuart đặt súng xuống đất nhón người lên nhìn về phía nam, đầu hơi nghiêng, ngóng nghe chờ đợi. Lần này có tiếng súng đáp lại của Bob từ phía tây, tiếng súng kế tiếp của Jack hoặc Hughie và tiếng thư ba của mẹ. Cậu ta thở ra nhẹ nhõm; Stuart không muốn những người đến trước tiên là mẹ và Meggie.

Mãi suy nghĩ Stuart không thấy con heo rừng thật lớn xuất hiện từ hướng bắc sau những thân cây cháy, dù cậu ta đã nhận ra cái mùi của nó trước vài giây. To gần bằng một con bò cái, cái khối thịt ấy rung rinh di chuyển trên bốn chân ngắn ngủn và thật khỏe; nó vừa đi đầu lủi xuống đất, mõm bới tìm cái gì đó trong đất đen và ẩm. Tiếng súng làm cho nó phải động đậy, thật sự con heo rừng cũng đang chịu đựng một số đau đớn kinh khủng, lớp lông đen thưa thớt một bên bị cháy làm lòi da thịt đỏ tươi. Cái mùi Stuart nghe được khi cậu ta đang còn nhìn về hướng nam đúng là mùi dễ chịu của da con heo đang quay trong lò. Đột ngột bị kéo ra khỏi trạng thái u buồn đeo bám, Stuart quay đầu lại và có cảm giác hình như đã đến đây một lần nào rồi; cái nơi đen sẫm và nhớp nhúa này như đã in sâu trong đầu Stuart từ ngày mở mắt chào đời.

Stuart nhìn xuống kiếm khẩu súng và nhớ ra súng chưa nạp đạn. Con heo rừng dừng lại, hai mắt đỏ ngầu như đang chịu đựng nỗi đau đớn dữ dội. Hai chiếc nanh dài màu vàng, nhọn hoắc hất lên cao một nửa vòng tròn. Con ngựa của Stuart hí vang vì ngửi thấy mùi thú dữ. Con heo rừng quay chiếc đầu to tướng về phía con ngựa rồi cúi xuống với ý định tấn công. Stuart hiểu rằng hy vọng duy nhất để cậu ta thoát thân là con heo rừng chú ý đến con ngựa. Stuart khom xuống lấy súng, một tay kéo nòng súng, còn tay kia cho vào túi áo vét để tìm viên đạn. Chung quanh mưa vẫn rơi làm át đi mọi tiếng động đó, nó đột ngột đổi hướng, lao thẳng vào Stuart. Con vật đã gầm chạm vào cậu ta thì tiếng súng nổ tuy trúng ngay ngực nó nhưng không làm giảm tốc độ lao vào người Stuart. Hai cái nhanh hất ngược lên, cày nát phần ở giữa hai chân của Stuart. Cậu ta ngã xuống, máu phun ra đầy quần áo và ướt cả đất.

Con heo rừng quay mòng mòng đau đớn vì trúng đạn, muốn tấn công đối thủ một lần nữa nhưng nó chệnh choạng sụm xuống. Cả cái khối thịt 600 kilô nằm lên người Stuart ép chặt đầu cậu ta xuống bùn đen. Trong khoảnh khắc, hai bàn tay của Stuart bấu xuống đất, thân người run rẩy, cố vùng lên trong tuyệt vọng.

Thế là Stuart nhận ra điều mình vẫn biết trước từ lâu, tại sao mình không bao giờ hy vọng, không bao giờ vạch ra một kế hoạch nào cho cuộc đời mà chỉ chờ đợi bằng cách đắm chìm vào cái thế giới sống động, cậu ta không còn thì giờ để thương hại cho số phận chờ đợi mình. Mẹ ơi, mẹ! Mẹ ơi! Con không thể ở lại với mẹ! Đó là ý nghĩ cuối cùng vào giây phút tim của cậu ta vỡ trong lòng ngực.

° ° °

- Tại sao Stuart lại không nổ súng nữa - Meggie hỏi mẹ.

Hai mẹ con đi ngựa về hướng đã nổ hai loạt súng nhưng không thể hối thúc con ngựa đi nhanh hơn trên bùn lầy; tim thắt lại vì âu lo.

- Có lẽ Stuart nghĩ tất cả chúng ta đều nghe rồi, Fiona trả lời Meggie.

Nói thế nhưng trong tận đáy lòng bà vẫn nhớ gương mặt của Stuart lúc chia tay nhau mỗi người đi một hướng, nhớ cái cách mà Stuart đã siết tay bà và nụ cười của Stuart khi nhìn bà.

- Chúng ta không còn cách bao xa nữa - bà ta nói vừa thúc con ngựa chạy nhanh hơn.

Nhưng Jack đã đến nơi trước, có cả Bob. Họ chặn không cho hai phụ nữ đến gần khi vượt qua phần đất còn nguyên vẹn đi đến vùng đám cháy.

- Mẹ đừng đi xa hơn nữa! Bob nói khi Fiona vừa đặt chân xuống đất.

Jack vội vàng chạy đến bên Meggie nắm lấy tay em gái mình.

Hai cặp mắt màu nâu đều nhìn đi chỗ khác, không phải không chịu đựng nổi sự kinh hãi và lo âu mà chính vì đã biết chắc chuyện gì đã xảy ra. Fiona và Meggie đã hiểu.

- Có phải ba không! - Fiona hỏi trong hơi thở.

- Thưa phải. Và cả Stuart nữa.

Không một người con nào có đủ can đảm để nhìn mặt mẹ lúc ấy.

- Stuart? Stuart? Chuyện gì xảy ra với Stuart? Trời ơi! Chuyện gì đã xảy rả Tại sao lại cả hai. Không thể nào như thế được. Không! Không!

- Ba bị kẹt giữa đám cháy. Ba đã chết. Còn Stuart có lẽ đã làm gì đó khiến cho con heo rừng tấn công nó. Nó đã bắn chết con vật nhưng con vật đã ngã đè lên Stuart khiến cho nó bị nghẹt thở, Stuart cũng đã chết rồi, thưa mẹ.

Meggie hét lên, vùng vẫy, cố vuột ra khỏi sự kìm giữa của Jack, nhưng Fiona thì đứng bất động trong vòng tay dơ bẩn, vấy máu của Bob. Bà như bức tượng đá với đôi mắt trống vắng.

- Quá sức chịu đựng - bà nói rồi quay qua nhìn Bob (nước mắt chảy trên mặt bà, nhỏ giọt xuống tóc bết dính vào cổ). Hãy để mẹ yên. Mẹ cần phải nhìn mặt ba con, Bob. Một người là chồng của mẹ, một người là con của mẹ. Con không thể cản ngăn mẹ. Con không có quyền.

Meggie đã dịu cơn xúc động và đứng yên trong vòng tay của Jack, đầu áp vào ngực anh. Fiona bắt đầu đi chậm lại, Bob đi bên cạnh đỡ mẹ, Meggie im lặng nhìn, không có một động tác nào tỏ ý đi theo. Hughie xuất hiện sau màn mưa vốn làm mờ nhạt cả người lẫn cảnh vật. Ra dấu bằng đầu Jack có ý bảo Hughie nhìn về hướng mẹ và Bob.

- Em hãy đi theo mẹ và anh Bob, và hãy ở lại bên cạnh hai người. Meggie và anh quay lại Drogheda để tìm phương tiện đưa ba và Stuart về (cậu ta buông Meggie và giúp em gái leo lên lưng ngựa). Đi Meggie. Trời bắt đầu tối. Chúng mình không thể để mọi người ở lại đây suốt đêm. Mẹ và các anh sẽ không rời khỏi nơi đây nếu chúng mình chưa trở lại.

Ở vùng bùn lầy này, không có một loại xe có bánh nào có thể vào được; cuối cùng Jack và ông già Tom đã nghĩ ra cách dùng một tấm tôn dợn sóng cột bằng dây xích vài hai con ngựa kéo xe. Ông già làm vườn dắt hai con ngựa, còn Jack đi trước soi đường bằng cây đèn bão thật lớn.

° ° °

Meggie ở lại nhà, ngồi trước ánh lửa lò sưởi, có bà Smith bên cạnh chăm sóc và cố thuyết phục cô ta ăn một chút gì dằn bụng. Trên gương mặt của bà quản gia, nước mắt ràn rụa bàng hoàng trước hung tin, còn cô gái im lặng, đau đớn. Sực việc quá sức tưởng tượng khiến Meggie không khóc được thành tiếng.

Có tiếng gõ cửa, Meggie đứng lên trong lòng thắc mắc không đoán ra được ai có thể băng qua vùng lầy lội đến đây giữa lúc này, cô cũng kinh ngạc trước sự loan truyền tin tức nhanh chóng từ trang trại này sang trang trại khác cách nhau rất xa.

Cha Ralph đang đứng ngoài hành lang, mặc quần áo cỡi ngựa, ướt đẫm và lấm đầy bùn.

- Tôi vào được không, bà Smith?

- Ồ, thưa cha! Bà Smith kêu lên rồi chạy tới ôm lấy cha Ralph trước sự ngơ ngác của vị linh mục... Làm sao cha lại hay tin được?

- Bà Cleary đã đánh điện tín cho tôi. Tôi đã được Tổng giám mục Di Contini Verchese cho phép. Tôi đi tìm máy bay đến đây, suýt nữa lật nhào vì khi đáp xuống đã chạm phải bùn. Nhờ đó tôi biết được mặt đất ra sao trước khi đặt chân xuống. Gilly xinh đẹp và thân thương làm sao! Tôi đã để hành lý ở nhà cha Watty, rất may được chủ khách sạn Imperial cho mượn một con ngựa. Ông ta tưởng tôi đã mất trí và đánh cá với tôi một chai rượu Johnnie Walker nếu tôi vượt qua được cả vùng bùn lầy lội này. Nhưng dù cho đám cháy có lớn tới đâu và gây thiệt hại lớn thế nào cũng chưa phải là tận thế - Ông mỉm cười nói, dịu dàng đặt bàn tay lên vai bà Smith - Tôi đã đến đây và cố hết sức coi có thể giúp được gì và tôi mong được bà cảm thông - Thôi bà đừng khóc nữa.

- Thế thì cha không hay biết gì hết, bà Smith thều thào trong nước mắt.

- Hay biết điều gì? Chuyện gì xảy ra?

- Ông Cleary và cậu Stuart đều chết.

Mặt cha Ralph tái đi, đưa tay đẩy nhẹ bà quản lý ra.

- Meggie hiện giờ ở đâu? Cha Ralph gần như hét lên.

- Trong phòng khách. Còn bà Cleary hiện đang ở ngoài bãi chăn với xác của hai người thân. Jack và Tom đã đi mang di hài của họ về. Trời ơi! Thưa cha có lúc bất kể đức tin ở trong lòng mình, con không thể không tự hỏi sao Chúa lại tàn nhẫn thế. Tại sao Chúa lại mang đi cả hai người?

Nhưng ngay lúc được biết Meggie đang ở đâu, cha Ralph vứt bỏ tấm vải đầu đi mưa rồi đi thẳng vào phòng khách, bước chân để lại những vết bùn.

- Meggie - Ông gọi lớn.

Ralph đến cạnh Meggie, quỳ gối xuống bên chiếc ghế bành, nắm lấy hai tay giá lạnh của Meggie đặt vào lòng bàn tay mình.

Meggie để người tụt xuống thấp dưới ghế, ngã trong vòng tay của cha Ralph, úp mặt vào chiếc sơ mi ướt đẫm và nhắm mắt lại. Cảm giác hạnh phúc tuyệt vời, Meggie mặc cho sự dau đớn và xót xa đang xâm chiếm, mơ ước giây phút này trở thành vĩnh cửu. Ralph đã đến, đó là bằng chứng của quyền lực mà cô vẫn giữ đối với Ralph. Meggie không hề lầm lẫn.

- Cha ướt từ trên xuống dưới, Meggie thân yêu của cha. Con cũng bị ướt hết cả bây giờ - Ông thì thầm, má áp vào mái tóc vàng nâu.

- Không hề gì. Cha đã đến là đủ rồi.

- Vâng, cha đã đến. Cha muốn được yên tâm rằng con không phải trải qua điều gì phiền muộn. Cha linh cảm rằng sự hiện diện của cha sẽ giúp ích cho con. Cha muốn đích thân tìm hiểu sự việc. Ôi, Meggie, ba của con và Stuart làm sao thế? Chuyện gì đã xảy ra?

- Ba bị kẹt trong đám cháy. Chính Stuart tìm ra ba nhưng lại bị một con heo rừng húc chết sau khi anh ấy bắn trúng nó. Jack và bác Tom đã đi đưa thi hài của ba và Stuart về.

Cha Ralph im lặng, không biết làm gì khác hơn là giữ Meggie trong vòng tay mình, ru nhẹ nhàng như ru một đứa bé cho đến khi hơi ấm của ngọn lửa trong lò sưởi làm khô áo và tóc của ông. Bấy giờ ông cảm nhận cái thân thể mà ông đang ôm chặt vào lòng mình hình như bớt căng thẳng, duỗi dần ra trong tư thế thoải mái. Cha Ralph lấy tay đỡ cằm và nâng đầu Meggie lên buộc cô ta phải nhìn mình và không suy nghĩ gì cả, ôm hôn Meggie. Đó chỉ là một sự thôi thúc không rõ cội nguồn, hoàn toàn không xuất phát từ dục vọng, chỉ là một cử chỉ bản năng, một dâng hiến để đáp lại điều mà ông đã đọc thấy trong ánh mắt màu nâu của Meggie. Có điều gì đó rất đặc biệt như lần thứ hai ban pháp thánh thể. Meggie luồn tay ra phía sau, bấu mạnh vầu tấm lưng gân guốc của cha Ralph, khiến cho ông giật nẩy và kêu lên vì đau.

- Sao thế? Meggie vừa hỏi vừa dang người ra một chút.

- Hình như cha bị xây xát ở sườn khi máy bay đáp xuống, bùn ngập đến thân máy bay, thật hết sức nguy hiểm. Cha không bị hất tung nhờ va vào lưng dựa của ghế trước.

- Cha để con xem nào.

Những ngón tay nhanh nhẹn và dứt khoát của Meggie tháo nút và cởi áo của cha Ralph ra. Dưới làn da sạm nắng và ướt, một vế đỏ bầm kéo dài từ sườn này đến sườn bên kia. Meggie lo âu.

- Trời ơi, Ralph! Cha đã đi ngựa từ Gilly đến đây với vết thương như thế này sao? Chắc là cha đau lắm? Cha cảm thấy thế nào? Có bị chóng mặt không? Cha có thể bị xuất huyết bên trong.

- Không đâu. Cha không thấy gì lạ trong người. Cha nói thật mà. Cha quá lo làm sao đến đây sớm để giúp con tránh bớt buồn khổ do đám cháy gây ra nên cha quên đi cái đau của mình. Nếu cha bị xuất huyết bên trong thì ắt cha biết. Không có đâu Meggie à.

Meggie cúi đầu xuống, môi chạm nhẹ lên vết bầm đồng thời hai bàn tay đặt lên ngực Ralph, lượt nhẹ từ dưới lên trên, dừng lại mơn trớn ở hai vai với sự cố tình khêu gợi khiến cho Ralph bàng hoàng. Vừa bị quyến rũ, vừa sợ hãi, bằng mọi giá cha Ralph muốn thoát khỏi sự mơn trớn, ông quay người hướng khác, đẩy đầu của Meggie ra xa nhưng cuối cùng chỉ để rơi trỏ vào vòng tay của Meggie, hai cánh tay ấy như những con rắn quấn chặt ý chí của cha Ralph, bóp chết mọi ý định kháng cự khi vừa mới chớm nở. Thế là quên cả đau đớn, quên cả Nhà thờ, quên luôn Chúa, Ralph tìm đôi môi của Meggie, sự háo hức làm cho đôi môi ấy hé mở, khát khao. Ralph ghì chặt Meggie vào lòng nhưng không làm sao xoa dịu được cơn rạo rực cứ dâng cao mãi. Meggie ngửa cổ ra, phơi trần hai bờ vai, da mát mịn; Ralph tưởng mình đã chìm nghỉm xuống, càng lúc càng sâu, nghẹt thở, bất lực.

Nhận thức về bản thân con người bình thường và tội lỗi của mình như đè nặng lên Ralph, một sức nặng có khả năng nghiền nát tâm hồn, làm vỡ tung những tình cảm bị ngăn chặn lâu ngày, cuốn phăng theo một ngọn triều không thể nào chống trả nổi. Ralph muốn được khóc; những gì còn lại của sự thèm muốn cạn đi dưới gánh nặng mà phận làm người đặt lên ông. Ông tháo gỡ hai tay của Meggie đang quấn chặt cái thân hình đáng thương hại của ông rồi ngồi xổm xuống, đầu cúi gục, tưởng như đã hết tâm trí nhìn ngắm hai bàn tay run rẩy của mình đặt trên đầu gối. Meggie ơi, em đã làm gì anh? Và em sẽ làm gì nữa nếu anh cứ để cho mọi chuyện xảy ra?

- Anh yêu em Meggie. Anh mãi mãi yêu em. Nhưng anh là linh mục, anh không thể... Anh không thể làm thế được chỉ vì như vậy mà thôi.

Meggie đứng phắt lên, sửa lại áo ngay ngắn, nhìn xuống cha Ralph, miêng cười gượng nhưng vẫn không che giấu được sự đau khổ. Ẩn trong đôi mắt là nỗi thất vọng.

- Ralph, thôi thế cũng được. Con đi xem bà Smith có chuẩn bị gì cho cha ăn không, rồi con sẽ mang đến cho cha dầu xoa bóp mà người ta dùng cho ngựa. Thứ này chữa các vết bầm thật tuyệt, nó sẽ làm cho cha hết đau nhức ngay, theo con nghĩ hiệu nghiệm hơn gấy mấy những nụ hôn.

- Điện thoại có dùng được không? Cuối cùng cha Ralph đã nói ra lời.

- Được. Một đường dây phụ đã được bắc trên các ngọn cây, mấy giờ qua ở đây đã liên lạc được với Gilly.

Dù sao, cha Ralph cũng cần ít phút để bình tâm và tự chủ sau khi Meggie rời khỏi phòng khách. Ông đến ngồi trước bàn viết của Fiona.

- Xin vui lòng cho tôi đường dây liên tỉnh. Đây là linh mục Ralph de Bricassart ở Drogheda. Ồ! Allô, Doreen đó à; vẫn trung thành với công việc ở bưu điện. À, tôi hiểu. Tôi rất vui khi nghe được tiếng nói của chị. Tôi không biết ai đang đảm trách tổng đài ở Sydney tôi chỉ nghe một giọng nói lãnh đạm và buồn tẻ. Tôi muốn liên lạc gấp với Đức Khâm mạng giáo hoàng ở Sydney. Số của Ngài là 20 - 23 - 24. Trong khi chờ Sydney trả lời chị Doreen cho tôi nói chuyện với Bugela nhé.

Ralph vừa báo tin cho Martin King thì Sydney gọi. Nhưng chỉ vài lời với Bugela là đủ rồi. Cả Gilly sẽ hay tin qua Martin King, kể cả nhiều người khác, trên đường dây này thường thích nghe lén điện thoại. Như thế tất cả những ai không ngại bùn lầy đều sẽ có mặt trong đám tang.

- Allô, có phải Đức cha đó không? Linh mục Ralph đây, hiện con ở Drogheda. Ồ! Allô Doreen đừng cúp máy nhé... Vâng, cảm ơn, con đã đến đây bình yên, nhưng máy bay thì bị ngập bùn đến thân. Có lẽ con phải trở về bằng tàu hỏa... trong bùn. Thưa Đức cha, bùn... con nói bùn lầy. Không thưa Đức cha, ở đây không thể đi đâu được nếu mưa to... Từ Gillanbone đến Drogheda, con phải đi bằng ngựa, đó là phương tiện di chuyển duy nhất có thể sử dụng trong tình hình thời tiết này... Do đó mà con gọi điện cho Đức cha. Con rất vui mừng đã đến đây. Con đã có linh tính trước... Vâng, thật khủng khiếp. Vượt xa những điều con lo sợ. Padraic Cleary và con trai của ông là Stuart đều chết. Người cha bị chết trong đám cháy, người con thì bị một con heo rừng đè. Một con heo rừng thưa Đức cha... Con nói một con heo rừng... Vâng, Đức cha nhận xét đúng, ở đây người ta nói một thứ tiếng Anh rất lạ. Con xin phép Đức cha cho con được ở lại để dự đám tang và con cam đoan với Đức cha con sẽ lo lắng đầy đủ cho người vợ đáng thương và các con của bà. Vâng, thưa Đức cha, cảm ơn Đức cha. Con sẽ trở về Sydney ngay khi mọi việc xong xuôi.

Dĩ nhiên cô nhân viên tổng đài cũng nghe được Ralph yêu cầu được nói chuyện với Bugela. Ông trao đổi với Martin King trong ít phút và quyết định lễ mai táng sẽ được tổ chức vào ngày mốt.

Meggie quay trở lại với chai dầu xoa bóp trên tay nhưng không tỏ ý tự mình sẽ chăm sóc cho cha Ralph. Im lặng trao chai dầu cho ông, Meggie vắn tắt cho cha Ralph biết là khoảng một tiếng đồng hồ nữa, buổi ăn nóng sẽ được bà Smith dọn trong phòng ăn nhỏ, như thế cha Ralph có dư thời giờ để tắm rửa. Cha buồn bã nhận ra rằng hình như Meggie đã coi như mình bị cha lừa gạt; nhưng ông không hiểu được tại sao cô lại phản ứng như thế, và căn cứ vào đâu để kết tội ông như vậy. Meggie vẫn biết ông là linh mục; vậy tại sao có sự giận dỗi này?

° ° °

Một buổi sáng tinh mơ ảm đạm, đoàn người đưa hai thi hài về đến bờ bên kia sông và dừng lại ở đó. Dù nước chưa tràn bờ, sông Gillan vẫn dâng cao và chảy xiết, sâu tới mười mét. Cha Ralph cho con ngựa hồng của mình lội qua bên kia bờ sông lầy lội để đón đoàn người. Ông choàng sẵn khăn lễ và mang theo đầy đủ những gì cần thiết của linh mục trong chiếc túi trên lưng ngựa. Trong lúc Fiona, Bob, Jack, Hughie và Tom đứng xung quanh, cha Ralph mở tấm vải quấn hai thi hài và chuẩn bị làm lễ xức dầu. Sau lần chứng kiến cái chết của bà Mary Carson thì không có một cái chết nào khác có thể làm cho linh mục Ralph ghê tởm. Cả hai thi hài đều đen, Paddy vì bị chết thiêu, còn Stuart bị nghẹt thở, Ralph ôm hôn hai thi hài với tình cảm và sự kính trọng.

Trên đoạn đường dài 20 cây số, tấm tôn chở thi hài bị xóc lên xóc xuống phía sau hai con ngựa kéo cày xới trong bùn, in sâu những luống dài có thể nhiều nằm sau vẫn còn thấy. Nó như vết sẹo mà vào những mùa xuân tới dù cỏ đã mọc đầy lên đó vẫn không che lấp được.

Dòng nước chảy xiết buộc đoàn người dừng lại bên kia bờ mặc dù chỉ còn hai cây số nữa đến nhà.

- Con có một ý kiến, Bob quay qua nói với cha Ralph - Ở đây chỉ có con ngựa của cha còn khỏe, cha có thể cho ngựa lội trở qua suối, về nhà và tìm những chiếc thùng rỗng hai trăm lít, cha nhớ đóng kín nắp lại không cho nước vào. Nếu cần có thể hàn. Chúng ta cần khoảng mười, mười hai cái thùng là đủ. Cha cho cột lại và mang qua bờ bên này. Chúng ta sẽ dùng những thùng đó để chở tấm tôn và đẩy nó trở qua bờ như một cái bè.

Cha Ralph tán đồng mà không cần đặt câu hỏi nào khác, ông cũng không có ý kiến nào hay hơn. Dominic Ó Rourke cùng hai con trai tiếp tay cha Ralph thực hiện ý kiến của Bob, rồi chính cha Ralph và Dominic Ó Rourke kéo những chiếc thùng qua con suối.

Không có một cành hoa nào trên hai quan tài, và cũng không có một cành hoa nào trong những chiếc bình ở nhà nguyện của Drogheda. Những đóa hoa sống sót qua cơn nóng khủng khiếp của đám cháy đều bị vùi dập dưới cơn mưa, cánh của nó tan tác trong bùn như những con bướm bị mắc bẫy. Còn mọi người thì mệt mỏi, quá mệt mỏi. Những ai đã vượt qua một cuộc hành trình dài bằng ngựa trên con đường lầy lội để đến đây nghiêng mình lần cuối chào vĩnh biệt Paddy đều mệt mỏi; những ai đã mang các thi hài về cũng mệt mỏi; đàn ông và đàn bà lo việc bếp núc và rửa dọn cũng mệt mỏi. Cha Ralph mệt đến đỗi tưởng như mình đi đứng trong giấc mơ, mắt ông đờ đẫn nhìn lần lượt gương mặt căng thẳng và tuyệt vọng của Fiona, gương mặt đau khổ và giận dữ của Meggie và nỗi đau xót của anh em Bob, Jack và Hughie lâu nay vốn thương yêu gắn bó với nhau.

Làm lễ xong, các khách từ xa lại lên ngựa ra đi, lưng rạp xuống được che bằng những tấm vải đầu; có người chỉ bàn với nhau về viễn ảnh phá sản có thể xảy đến, những người khác cảm ơn Chúa đã cứu họ thoát chết và tránh được đám cháy. Cha Ralph gom lại đồ đạc của mình, biết rất rõ là phải đi ngay trước khi không còn khả năng rứt ra khỏi nơi này.

Ông tìm gặp Fiona đang ngồi trước bàn viết, lặng im mắt nhìn hai bàn tay.

- Bà Fiona có khỏe không? Cha Ralph hỏi rồi buông mình xuống chiếc ghế bành gần đó.

Bà quay lại nhìn cha Ralph, tan nát và chết cứng trong lòng khiến cha phải sợ và không dám nhìn thẳng.

- Vâng thưa cha, rồi đâu sẽ vào đó. Con phải lo việc sổ sách của trang trại và năm đứa con còn lại... sáu chứ kể cả Frank. Nhưng đúng là chúng ta không trông đợi gì ở Frank phải không cha? Con không thể nào nói ra hết sự biết ơn về những gì cha đã giúp trong chuyện này. Thật là một an ủi lớn cho con khi biết rằng cha đã theo dõi và lo lắng cho Frank, nhờ thế mà số phận của nó đỡ khổ phần nào. Trời ơi, con muốn gặp Frank quá, dù chỉ một lần thôi cha ạ.

Như một lửa hải đăng, cha Ralph nghĩ thầm. Fiona như một ngọn hải đăng chiếu ra những tia sáng khổ đau mỗi khi đầu óc của bà bị xúc động tột độ và dữ dội nhất.

- Bà Fiona, có một việc mà tôi muốn bà phải suy nghĩ.

- Vâng, chuyện gì thế thưa cha?

Rồi bà lại đi trong sự trống rỗng.

- Bà có nghe tôi nói không? Cha Ralph lo lắng hỏi lớn tiếng, lòng ông lo sợ hơn bao giờ hết.

Một lúc lâu, linh mục tưởng rằng bà đã thu mình lại đến mức giọng nói cứng rắn của ông cũng không làm bà sực tỉnh. Nhưng một lần nữa ngọn hải đăng lại phát ra một tia sáng, rồi đôi môi mấp máy:

- Tội nghiệp Paddy của tôi! Tội nghiệp Stuart của tôi! Tội nghiệp Frank của tôi! Bà nói như rên rỉ.

Rồi bà lại bình tĩnh, nép mình sau cái bề ngoài cứng rắn tưởng như không có điều gì có thể lay chuyển nổi.

Đôi mắt bà đảo quanh căn phòng mà không nhìn ra bất cứ thứ gì.

- Vâng, thưa cha, con đang nghe đây, bà nói.

- Này, Fiona, còn cô con gái của bà nữa chứ? Bà quên rằng bà có một đứa con gái sao?

Đôi mắt nâu nhìn lên về hướng cha Ralph một lúc, gần như thương hại.

- Làm sao một người đàn bà lại có thể quên con gái của mình? Nhưng một đứa con gái là gì? Chỉ là sự nhắc nhở của một niềm đau chịu đựng lâu dài, một hình bóng trẻ trung hơn của chính mình, sẽ lặp lại tất cả những hành động mà mình đã trải qua, rồi cũng sẽ khóc những giọt nước mắt mà mình đã khóc. Không thưa cha, con đã cố quên đi rằng con có một đứa con gái. Nếu con nhớ đến nó thì con sẽ coi nó cũng như một trong những đứa con trai của con. Người mẹ thường nhớ đến những đứa con trai.

- Bà đã khóc lần nào chưa, bà Fiona? Tôi chỉ thấy bà khóc chỉ mỗi một lần.

- Cha sẽ không bao giờ thấy như thế nữa, thưa cha. Nước mắt trong con đã cạn (toàn thân bà run lên) cha có biết không, cách đây hai ngày, con đã nhận ra rằng con yêu Paddy biết chừng nào, nhưng cũng như mọi chuyện trong đời con, nó đến quá muộn màng. Quá muộn cho anh ấy, quá muộn cho con. Cha có biết không, con rất muốn được ôm anh ấy trong đôi tay nói với anh ấy rằng “em yêu anh”. Trời ơi! Con mong rằng không một ai sẽ phải chịu đựng nỗi đau đớn như thế này.

Cha Ralph quay mặt nơi khác để khỏi nhìn thấy vẻ đau thương ấy và để Fiona có thời gian lấy lại bình tĩnh, còn ông thì có thể hiểu sâu hơn một con người bí ẩn.

- Không, ông nói, không người nào có thể trải qua và cảm nhận được nỗi đau của bà, mỗi người có một nỗi đau riêng.

Fiona nhếch miệng cười buồn bã.

- Vâng, đó cũng là một an ủi, phải không thưa cha? Nỗi đau đớn không phải là điều nên ước ao nhưng dù sao nỗi đau đớn ấy cũng là của riêng con.

- Tôi mong bà hứa với tôi một điều, bà Fiona.

- Con sẽ nghe lời cha.

- Bà hãy chăm sóc Meggie. Đừng quên điều đó. Hãy buộc Meggie tham dự các buổi khiêu vũ trong vùng; gặp gỡ các chàng trai trẻ, thúc đẩy Meggie nghĩ đến chuyện lấy chồng, xây dựng riêng một tổ ấm. Tôi nhận thấy tất cả những thanh niên con của các trại chủ quanh vùng này đến đây dự đám tang đều say đắm nhìn Meggie. Nên tạo thêm cơ hội cho Meggie gặp các thanh niên ấy trong một hoàn cảnh ít nặng nề hơn.

- Xin theo ý cha.

Linh mục Ralph thở dài rồi bước ra, một mình Fiona vẫn ngồi yên nhìn hai bàn tay gầy guộc và trắng xanh nhưng hình như bà chẳng thấy gì cả.

Meggie tiễn cha Ralph ra đến chuồng ngựa, nơi đây con ngựa thiến của ông chủ khách sạn Imperial cho mượn đang ăn cỏ khô với lúa mạch. Cha Ralph quẳng chiếc yên cũ lên lưng con vật và cúi xuống siết chặt lại đai bụng ngựa, trong khi Meggie đứng dựa vào một bao cỏ khô theo dõi cha.

- Cha nhìn xem, con vừa tìm được cái gì nè, vừa nói Meggie vừa trao cho Ralph một bông hồng màu tro nhạt đúng lúc cha Ralph thẳng đứng lên. Đây là bông hồng duy nhất con đã tìm thấy trong một bụi cây, dưới những hồ chứa nước sau nhà. Nó đã sống sót qua cơn nóng của đám cháy và đượcche chở không bị vùi dập dưới cơn mưa. Con đã hái hoa này tặng cha, hãy giữ như một kỷ niệm về con.

Ông cầm lấy bông hồng vừa hé nở tay run run thiếu tự tin và nhìn cành hoa.

- Meggie, ta không cần vật kỷ niệm của con, bây giờ và mãi mãi về sau này. Ta mang trong ta con người trọn vẹn của con, chính con thừa biết điều đó. Ta không thể giấu giếm tình cảm ấy được, phải không Meggie?

- Nhưng đôi khi cũng cần có một thực tế kỷ niệm để có thể sờ mó nó - Meggie quyết bảo vệ ý kiến của mình. Người ta có thể nhìn ngắm và nhớ lại những gì có thể quên đi nếu kỷ niệm đó không ở trước mặt. Con van cha, hãy cầm lấy...

- Meggie hãy gọi ta bằng tên, Ralph - Ông nói.

Ông cúi xuống mở chiếc vali nhỏ, trong đó đựng các thứ cần thiết để làm lễ và lấy ra cuốn kinh thánh có bìa khảm xà cừ đắt tiền, một vật sở hữu của ông. Thân sinh đã mất của Ralph đã tặng cho ông cuốn sách này ngày ông được thụ phong linh mục cách đây mười ba năm. Ông mở cuốn kinh thánh, nơi được đánh dấu bằng một rubăng màu trắng rộng khổ, lật qua vài trang, đặt chiếc bông hồng trong đó và đóng sách lại.

- Có phải Meggie muốn ta để lại cho con một kỷ niệm phải không? Đúng như thế chứ?

- Vâng.

- Ta sẽ không để lại cho Meggie điều gì cả. Ta muốn Meggie hãy nhìn quanh và chọn cho mình một chàng trai nhân hậu, đàng hoàng, để sau này trở thành chồng của con, rồi sinh con cái, điều mà Meggie rất tha thiết. Meggie sinh ra để làm mẹ, chẳng phải đó là mơ ước của con sao? Ta không thể từ bỏ Nhà thờ vì ta đã không thể yêu con như một người chồng, vì ta đã... Meggie có hiểu ta không? Quên ta đi, Meggie ạ!

- Thế cha không hôn con trước khi cha giã từ sao?

Thay cho câu trả lời, Ralph leo lên ngựa đi thẳng ra cửa trước khi đặt lên đầu chiếc nón phớt cũ kỹ mà người chủ ngựa cũng đã cho mượn. Trong một thoáng, đôi mắt xanh của Ralph loé sáng lên; dưới cơn mưa, con ngựa bước trầy trật trên con đường bùn lầy dẫn đến Gilly. Meggie không biết làm gì hơn là nhìn theo nhưng vẫn đứng đó trong bóng tối của chuồng ngựa ẩm ướt. Mùi phân ngựa và cỏ khô làm Meggie nhớ lại cái nhà kho ở Tân Tây Lan và Frank.

° ° °

Ba mươi tiếng đồng hồ sau khi rời Drogheda, cha Ralph đã có mặt trong phòng của Đức Khâm mạng. Ông đi ngang qua căn phòng rộng lớn, đến hôn chiếc nhẫn người cha linh hồn của mình, rồi buông mình xuống ghế bành một cách mệt mỏi. Chỉ khi cảm thấy đôi mắt đẹp và thông suốt đang nhìn thẳng vào mình, cha Ralph mới nhận ra cách ăn mặc không bình thường của ông, và hiểu ra tại sao có nhiều người đã nhìn mình chăm chăm từ khi ông mới bước xuống nhà ga Trung tâm. Bỏ quên chiếc vali gởi ở nhà xứ Gilly, cha Ralph nhảy lên tàu hỏa chuyến tốc hành chỉ trước giờ chạy hai phút. Ông đã trải qua một ngàn cây số trên toa tàu lạnh giá mà chỉ mặc một chiếc áo sơ mi, quần cỡi ngựa và giày bốt, tất cả ướt đẫm mà không hay biết. Cha Ralph nhìn lại quần áo của mình, cười buồn rồi nhìn về hướng Tổng giám mục.

- Xin Đức cha tha lỗi. Có quá nhiều biến cố xảy ra đến nỗi con quên mất cách ăn mặc dị hợm của mình.

- Con khỏi phải xin lỗi, Ralph (khác hơn người tiền nhiệm, ông thích gọi thư ký riêng của mình bằng tên). Trông con có vẻ rất lãng mạng, đỏm dáng nữa là khác, dù con có vẻ mệt mỏi. Tuy nhiên, như thế có phần nào thế tục hơn phải không?

- Về phương diện tục thế, con hoàn toàn đồng ý. Nhưng về phương diện lãng mạng và đỏm dáng, thưa Đức cha, có lẽ vì Đức cha chưa bao giờ thấy cách ăn mặc thông thường của con ở Gillanbone.

- Ralph rất thân mến của ta, dù cho con nảy ra ý định dùng bao đựng than để làm quần áo mặc, con cũng sẽ không mất đi chút nào vẻ lãng mạng và đỏm dáng! Bộ quần áo cỡi ngựa rất hợp với con, đúng là rất hợp. Cũng như với chiếc áo dòng, con đừng bận tâm để chứng minh rằng con không thấy bộ quần áo đó hợp với con hơn là bộ đồ vét đen. Con có một dáng đi rất lạ và đặc biết thu hút. Con giữ được một thân hình cường tráng. Cha tin rằng con sẽ giữ được như thế mãi mãi. Cha cũng nghĩ rằng, khi cha được gọi về La Mã, cha sẽ mang con theo. Cha rất tò mò xem coi con sẽ gây ấn tượng ra sao với các giáo sĩ người Ý bụng to và chân ngắn ngủn. Đúng là một con mèo thon thả đẹp giữa những con bồ câu mập và ngơ ngác.

La Mã! Cha Ralph giật nẩy người.

- Chuyện xảy ra có đau đớn không, Ralph? Tổng giám mục vừa hỏi vừa đưa bàn tay đeo nhẫn vuốt ve chiếc lưng mượt mà của con mèo Abyssinian dang nằm kêu gừ gừ trên đầu gối của ông.

- Khủng khiếp lắm thưa Đức cha.

- Con dành rất nhiều tình cảm cho gia đình đó?

- Thưa vâng.

- Con có yêu thương mọi người trong gia đình ấy như nhau hay với một số người, con yêu nhiều hơn những người khác?

Nhưng cha Ralph cũng quỷ quyệt không kém bề trên của mình. Thời gian phục vụ khá lâu dưới quyền ông đủ để cho cha Ralph hiểu thấu cách suy nghĩ của Tổng giám mục. Cha Ralph phá vỡ cái bẫy giăng ra bằng một thái độ thẳng thắn giả tạo, nhưng đủ sức làm tiêu tan mọi nghi ngờ ở Tổng giám mục. Đầu óc tinh tế và lắt léo ấy lại không nghĩ ra rằng một sự thẳng thắn bề ngoài nó dối trá gấp mấy lần so với sự chối quanh né tránh.

- Con yêu thương mọi thành viên trong gia đình đó nhưng như Đức cha đã nói, với một số người, con có yêu thương nhiều hơn. Chẳng hạn Meggie, cô con gái mà con yêu thương nhất. Con luôn cảm thấy có trách nhiệm riêng với cô con gái vì gia đình gồm toàn con trai và quên đi sự có mặt của đứa con gái.

- Cô gái Meggie đó bao nhiêu tuổi?

- Con không biết chính xác. Ồ! Có lẽ khoảng hai mươi tuổi, hình như thế. Nhưng con có yêu cầu bà mẹ hứa sẽ bớt đi công việc sổ sách kế toán để con gái của bà có điều kiện tham dự vào những cuộc khiêu vũ trong vùng, có cơ hội gặp nhiều chàng trai cùng lứa tuổi. Nếu không cuộc đời cô ta sẽ hỏng mất vì bị giam hãm ở Drogheda như thế quả là tai hại.

Cha Ralph chỉ nói toàn sự thật. Với sự tinh ý nhạy bén đặc biết, Tổng giám mục nhận ra ngay, mặc dù ông chỉ hơn người thư ký riêng của mình ba tuổi. Con đường công danh của ông ở tòa thánh không phải chịu những thăng trầm như linh mục Ralph, nhưng dưới nhiều góc cạnh, ông cảm thấy mình già hơn gấp bội người dưới quyền. Cha Ralph sẽ không bao giờ già như thế. Vatican đã hủy hoại quá sớm sức sống ở người mà tòa thánh đã chiếm hữu, còn Ralph thì vẫn còn tràn trề sinh lực.

Bớt đi phần nào sự cảnh giác, Tổng giám mục vẫn tiếp tục quan sát người thư ký riêng của mình và trở lại cuộc chơi hấp dẫn để bằng mọi cách tìm cho ra chính xác động cơ ở Ralph là gì. Lúc đầu, Tổng giám mục tin chắc rằng ở con người này có sự yếu đuối về xác thịt, bằng cách này hay cách khác. Cái đẹp lạ lùng ở gương mặt, kể cả thân hình chắc chắn gợi lên biết bao thèm muốn, đến đỗi cha Ralph không thể nào không biết đến. Nhưng với thời gian, Đức cha dã thấy ra rằng cảm tưởng ban đầu của mình chỉ đúng một nửa: đúng là cha Ralph cũng cảm nhận được sức quyến rũ của mình nhưng điều đó gắn liền với sự hồn nhiên không thể chối cãi. Dù ngọn lửa đang cháy bỏng trong con người cha Ralph là gì đi nữa, thì điều chắc chắn, đó không phải là vấn đề xác thịt. Tổng giám mục đã sắp xếp cho linh mục Ralph gần gũi với những người đồng tình luyến ái cao tay, biết cách thu hút những ai có chút khuynh hướng đồi bại này nhưng kết cuộc chẳng có kết quả nào. Ngài cũng theo dõi linh mục Ralph khi ông ở bên cạnh những người phụ nữ đẹp nhất nước nhưng cũng chẳng có kết quả. Một thoáng chú ý cũng không có, sự thèm muốn trong ánh mắt cũng không dù cho ông không hay biết mình được chú ý. Vâng, Tổng giám mục cũng có lúc dùng những người dưới tay để theo dõi và báo cáo lại một cách trung thực.

Thế là Đức cha bắt đầu tin rằng chỗ yếu của linh mục Ralph nằm trong sự tự kiêu mình là linh mục và trong chính tham vọng của ông, đó là hai mặt của một nhân cách mà thật ra không xa lạ đối với Đức cha vì chính trong bản thân ngài cũng tìm thấy những mặt ấy. Nhà thờ không thiếu địa vị dành cho những kẻ tham vọng và cũng như những định chế có tầm cỡ, nó luôn luôn dựa vào những con người trung kiên và tham vọng như thế để trường tồn. Dư luận ngoài đời đồn rằng linh mục Ralph đã sang đoạt tài sản mà gia đình Cleary đáng lẽ được thừa kế; mỉa mai thay đó lại là gia đình mà linh mục nói với mọi người rằng mình yêu thương. Cứ cho đó là sự thật thì càng phải sử dụng linh mục Ralph. Đôi mắt xanh đẹp tuyệt ấy đã sáng lên làm sao khi nghe nhắc tới La Mã! Có lẽ đã đến lúc thử một bước đi chiến lược mới. Tổng giám mục làm ra vẻ lơ đễnh đi một nước cờ trong cuộc đối thoại với linh mục Ralph, nhưng thật ra dưới đôi mi nửa khép nửa mở, ông vẫn quan sát rất chăm chú:

- Cha đã nhận được tin tức từ Vatican trong khi con đi vắng, Ralph ạ. Tổng giám mục vừa nói vừa đặt nhẹ con mèo qua một bên. Sheba bé nhỏ của ta, con ích kỷ quá. Con làm cho hai chân ta tê cứng.

- Chuyện gì thế thưa Đức cha? Linh mục Ralph ngả người vào ghế bành để nhìn rõ hơn Tổng giám mục, đồng thời ông cố giữ cho hai mí mắt không sụp xuống vì quá mệt mỏi sau một cuộc hành trình dài.

- Vâng, con có thể đi ngủ nhưng trước đó con cần nghe những tin tức này đã. Cách đây không lâu, cha có gởi một mật thư riêng cho Đức Thánh cha và ngay sáng hôm nay, cha đã nhận được trả lời của Ngài qua người đại diện là Đức Hồng Y Monteverdi, một người bạn của cha. Cha vẫn tự hỏi phải chăng Monteverdi thuộc dòng dõi nhà soạn nhạc thời Phục Hưng. Không hiểu sao, cha cứ quên mãi không hỏi điều đó khi gặp Ngài. Ồ! Sheba, tại sao con cứ đưa vuốt ra mỗi khi con cảm thấy ưa thích?

- Con đang nghe đây thưa Đức cha. Con chưa buồn ngủ đâu, cha Ralph cười nói. Đức cha yêu mèo là điều không có gì ngạc nhiên. Đức cha không khác con mèo, thích kéo dài sự vui sướng khi vờn con mồi. Sheba xinh đẹp hãy lại đây, đừng theo con người ác độc ấy, hãy lại đây với ta.

Con mèo cái lập tức rời khỏi bộ áo tím của Tổng giám mục và nhảy lên đùi linh mục, nó nằm rạp người xuống, đuôi ngoe nguẩy, vừa hít mạnh để đánh hơi, có vẻ như thích mùi ngựa và mùi bùn trên người của linh mục Ralph.

Đôi mắt xanh lanh lợi của cha Ralph nhìn thẳng vào mắt Tổng giám mục; hai mí mắt nửa nhắm nửa mở, cả hai đều rất tỉnh táo.

- Làm thế nào mà cha lập được thành tích như thế? Tổng giám mục hỏi. Sheba chẳng bao giờ tuân theo lời của bất cứ ai, thế mà nó chạy ngay lại cha như thể được mời ăn trứng cá caviar hay một thứ cao lương mỹ vị nào đó. Đồ bội bạc!

- Con vẫn chờ nghe Đức cha nói tiếp.

- Có phải bực bội vì bị chờ đợi nên con đã trả thù bằng cách đoạt con mèo cái của chảa? Thôi, con đã thắng cuộc, xin thua. Mà này, có bao giờ con nếm mùi thất bại chưa? Một câu hỏi thú vị đấy, Ralph thân mến. Còn bây giờ cha xin có lời chúc mừng. Kể từ nay con phải đội mũ lễ, mặc áo choàng lễ và người ta phải gọi con bằng Đức cha, giám mục De Bricassart.

Tổng giám mục thích thú nhìn đôi mắt của Ralph mở ra thật lớn. Lần đầu tiên, linh mục Ralph không tìm cách giả vờ hay che giấu những tình cảm thật của mình. Ông ta rạng rỡ lên một cách tự nhiên.

➖➖➖



Phần tiếng Anh

The Thorn Birds by Colleen McCullough

---

THREE

1929-1932 Paddy

3.2

But it was 1930, and Drogheda knew all about the Depression. Men were out of work all over Australia. Those who could stopped paying rent and tying themselves down to the futility of looking for work when there was none. Left to fend alone, wives and children lived in humpies on municipal land and queued for the dole; fathers and husbands had gone tramping. A man stowed his few essentials inside his blanket, tied it with thongs and slung it across his back before setting out on the track, hoping at least for handouts of food from the stations he crossed, if not employment. Humping a bluey through the Outback beat sleeping in the Sydney Domain.

The price of food was low, and Paddy stocked the Drogheda pantries and storehouses to overflowing. A man could always be sure of having his tuckerbag filled when he arrived on Drogheda. The strange thing was that the parade of drifters constantly changed; once full of a good hot meal and loaded with provisions for the track, they made no attempt to remain, but wandered on in search of only they knew what. Not every place was as hospitable or generous as Drogheda by any means, which only added to the puzzle of why men on the track seemed not to want to stay. Perhaps the weariness and the purposelessness of having no home, no place to go, made them continue to drift. Most managed to live, some died and if found were buried before the crows and pigs picked their bones clean. The Outback was a huge place, and lonely.

But Stuart was permanently in residence again, and the shotgun was never far from the cookhouse door. Good stockmen were easy to come by, and Paddy had nine single men on his books in the old jackaroo barracks, so Stuart could be spared from the paddocks. Fee stopped keeping cash lying about, and had Stuart make a camouflaged cupboard for the safe behind the chapel altar. Few of the swaggies were bad men. Bad men preferred to stay in the cities and the big country towns, for life on the track was too pure, too lonely and scant of pickings for bad men. Yet no one blamed Paddy for not wanting to take chances with his women; Drogheda was a very famous name, and might conceivably attract what few undesirables there were on the track. That winter brought bad storms, some dry, some wet, and the following spring and summer brought rain so heavy that Drogheda grass grew lusher and longer than ever.

Jims and Patsy were plowing through their correspondence lessons at Mrs. Smith's kitchen table, and chattered now of what it would be like when it was time to go to Riverview, their boarding school. But Mrs. Smith would grow so sharp and sour at such talk that they learned not to speak of leaving Drogheda when she was within hearing distance.

The dry weather came back; the thigh-high grass dried out completely and baked to a silver crisp in a rainless summer. Inured by ten years of the black-soil plains to the hey-ho, up we go, hey- ho, down we go oscillations of drought and flood, the men shrugged and went about each day as if it were the only one that could ever matter. This was true; the main business was essentially to survive between one good year and the next, whenever it might be. No one could predict the rain. There was a man in Brisbane called Inigo Jones who wasn't bad at long-range weather predictions, using a novel concept of sun spot activity, but out on the black-soil plains no one put much credence in what he had to say. Let Sydney and Melbourne brides petition him for forecasts; the black-soil plainsmen would stick with that old sensation in their bones. In the winter of 1932 the dry storms came back, along with bitter cold, but the lush grass kept dust to a minimum and the flies weren't as numerous as usual. No consolation to the freshly shorn sheep, which shivered miserably. Mrs. Dominic O'Rourke, who lived in a wooden house of no particular distinction, adored to entertain visitors from Sydney; one of the highlights of her tour program was paying a call at Drogheda homestead, to show her visitors that even out on the black-soil plains some people lived graciously. And the subject would always turn to those skinny, drowned-ratlooking sheep, left to face the winter minus the five-and six-inch-long fleeces they would have grown by the time summer heat arrived. But, as Paddy said gravely to one such visitor, it made for better wool. The wool was the thing, not the sheep. Not long after he made that statement a letter appeared in the Sydney Morning Herald, demanding prompt parliamentary legislation to end what it called “grazier cruelty.” Poor Mrs. O'Rourke was horrified, but Paddy laughed until his sides ached.

“Just as well the silly bloke never saw a shearer rip up a sheep's belly and sew it with a baling needle,” he comforted the embarrassed Mrs. O'Rourke. “It's not worth getting upset about, Mrs. Dominic. Down in the city they don't know how the other half lives, and they can afford the luxury of doting on their animals as if they were children. Out here it's different. You'll never see man, woman or child in need of help go ignored out here, yet in the city those same people who dote on their pets will completely ignore a cry of help from a human being.”

Fee looked up. “He's right, Mrs. Dominic,” she said. “We all have contempt for whatever there's too many of. Out here it's sheep, but in the city it's people.”

Only Paddy was far afield that day in August when the big storm broke. He got down from his horse, tied the animal securely to a tree and sat beneath a wilga to wait it out. Shivering in fear, his five dogs huddled together near him, while the sheep he had been intending to transfer to another paddock scattered into jumpy little groups trotting aimlessly in all directions. And it was a terrible storm, reserving the worst of its fury until the center of the maelstrom was directly overhead. Paddy stuffed his fingers in his ears, shut his eyes and prayed.

Not far from where he sat with the down-dropping wilga leaves clashing restlessly in the rising wind was a small collection of dead stumps and logs surrounded by tall grass. In the middle of the white, skeletal heap was one massive dead gum, its bare body soaring forty feet toward the night-black clouds, spindling at its top into a sharp, jagged point. A blossoming blue fire so bright it seared his eyes through their closed lids made Paddy jump to his feet, only to be thrown down like a toy in the heave of a huge explosion. He lifted his face from the earth to see the final glory of the lightning bolt playing shimmering halos of glaring blue and purple all up and down the dead spear of gum tree; then, so quickly he hardly had time to understand what was happening, everything caught fire. The last drop of moisture had long since evaporated from the tissues of that decayed cluster, and the grass everywhere was long and dry as paper. Like some defiant answer of the earth to the sky, the giant tree shot a pillar of flame far beyond its tip, the logs and stumps around it went up at the same moment, and in a circle from around the center great sheets of fire swept in the swirling wind, round and round and round. Paddy had not even time to reach his horse.

The parched wilga caught and the gum resin at its tender heart exploded outward. There were solid walls of fire in every direction Paddy looked; the trees were burning fiercely and the grass beneath his feet was roaring into flames. He could hear his horse screaming and his heart went out to it; he could not leave the poor beast to die tied up and helpless. A dog howled, its howl changing to a shriek of agony almost human. For a moment it flared and danced, a living torch, then subsided into the blazing grass. More howls as the other dogs, fleeing, were enveloped by the racing fire, faster in the gale than anything on foot or wing. A streaming meteor scorched his hair as he stood for a millisecond debating which way was the best to get to his horse; he looked down to see a great cockatoo roasting at his feet. Suddenly Paddy knew this was the end. There was no way out of the inferno for himself or his horse. Even as he thought it, a desiccated stringybark behind him shot flames in every direction; the gum in it exploding. The skin on Paddy's arm shriveled and blackened, the hair of his head dimmed at last by something brighter. To die so is indescribable; for fire works its way from outside to in. The last things that go, finally cooked to the point of nonfunction, are brain and heart. His clothes on fire, Paddy capered screaming and screaming through the holocaust. And every awful cry was his wife's name.

° ° °

All the other men made it back to Drogheda homestead ahead of the storm, turned their mounts into the stockyard and headed for either the big house or the jackaroo barracks. In Fee's brightly lit drawing room with a log fire roaring in the cream-and-pink marble fireplace the Cleary boys sat listening to the storm, not tempted these days to go outside and watch it. The beautiful pungent smell of burning eucalyptus wood in the grate and the heaped cakes and sandwiches on the afternoon tea trolley were too alluring. No one expected Paddy to make it in.

About four o'clock the clouds rolled away to the east, and everyone unconsciously breathed easier; somehow it was impossible to relax during a dry storm, even though every building on Drogheda was equipped with a lightning conductor. Jack and Bob got up and went outside to get a little fresh air, they said, but in reality to release pent breath. “Look!” said Bob, pointing westward.

Above the trees that ringed the Home Paddock round, a great bronze pall of smoke was growing, its margins torn to tattered streamers in the high wind. “God Jesus!” Jack cried, running inside to the telephone. “Fire, fire!” he shouted into the receiver, while those still inside the room turned to gape at him, then ran outside to see. “Fire on Drogheda, and a big one!” Then he hung up; it was all he needed to say to the Gilly switch and to those along the line who habitually picked up when the first tinkle came. Though there had not been a big fire in the Gilly district since the Clearys had come to Drogheda, everyone knew the routine. The boys scattered to get horses, and the stockmen were piling out of the jackaroo barracks, while Mrs. Smith unlocked one of the storehouses and doled out hessian bags by the dozen. The smoke was in the west and the wind was blowing from that direction, which meant the fire would be heading for the homestead. Fee took off her long skirt and put on a pair of Paddy's pants, then ran with Meggie for the stables; every pair of hands capable of holding a bag would be needed.

In the cookhouse Mrs. Smith stoked up the range firebox and the maids began bringing down huge pots from their ceiling hooks. “Just as well we killed a steer yesterday,” said the housekeeper. “Minnie, here's the key to the liquor storehouse. You and Cat fetch all the beer and rum we've got, then start making damper bread while I carry on with the stew. And hurry, hurry!”

The horses, unsettled by the storm, had smelled smoke and were hard to saddle; Fee and Meggie backed the two trampling, restive thoroughbreds outside the stable into the yard to tackle them better. As Meggie wrestled with the chestnut mare two swaggies came pounding down the track from the Gilly road.

“Fire, Missus, fire! Got a couple of spare horses? Give us a few bags.” “Down that way to the stockyards. Dear God, I hope none of you are caught out there!” said Meggie, who didn't know where her father was. The two men grabbed hessian bags and water bags from Mrs. Smith; Bob and the men had been gone five minutes. The two swaggies followed, and last to leave, Fee and Meggie rode at a gallop down to the creek, across it and away toward the smoke.

Behind them Tom, the garden rouseabout, finished filling the big water truck from the bore-drain pump, then started the engine. Not that any amount of water short of a downpour from the sky would help put out a fire this big, but he would be needed to keep the bags damp, and the people wielding them. As he shoved the truck down into bottom gear to grind up the far creek bank he looked back for a moment at the empty head stockman's house, the two vacant houses beyond it; there was the homestead's soft underbelly, the only place where flammable things came close enough to the trees on the far side of the creek to catch. Old Tom looked westward, shook his head in sudden decision, and managed to get the truck back across the creek and up the near bank in reverse. They'd never stop that fire out in the paddocks; they'd return. On top of the gully and just beside the head stockman's house, in which he had been camping, he attached the hose to the tank and began saturating the building, then passed beyond it to the two smaller dwellings, hosed them down. This was where he could help the most; keep those three homes so wet they'd never catch.

As Meggie rode beside Fee the ominous cloud in the west grew, and stronger and stronger on the wind came the smell of burning. It was growing dark; creatures fleeing from the west came thicker and thicker across the paddock, kangaroos and wild pigs, frightened sheep and cattle, emus and goannas, rabbits by the thousands. Bob was leaving the gates open, she noticed as she rode from Borehead into Billa-Billa; every paddock on Drogheda had a name. But sheep were so stupid they would blunder into a fence and stop three feet from an open gate, never see it. The fire had gone ten miles when they reached it, and it was spreading laterally as well, along a front expanding with every second. As the long dry grass and the high wind took it leaping from timber stand to timber stand they sat their frightened, jobbing horses and looked into the west helplessly. No use trying to stop it here; an army couldn't stop it here. They would have to go back to the homestead and defend that if they could. Already the front was five miles wide; if they didn't push their weary mounts they too would be caught, and passed. Too bad for the sheep, too bad. But it couldn't be helped.

Old Tom was still hosing the houses by the creek when they clattered through the thin blanket of water on the ford.

“Good bloke, Tom!” Bob shouted. “Keep it up until it gets too hot to stay, then get out in plenty of time, hear me? No rash heroism; you're more important than some bits of wood and glass.”

The homestead grounds were full of cars, and more headlights were bouncing and glaring down the road from Gilly; a large group of men stood waiting for them as Bob turned into the horse yards.

“How big is it, Bob?” Martin King asked.

“Too big to fight, I think,” said Bob despairingly. “I reckon it's about five miles wide and in this wind it's traveling almost as fast as a horse can gallop. I don't know if we can save the homestead, but I think Horry ought to get ready to defend his place. He's going to get it next, because I don't see how we can ever stop it. “Well, we're overdue for a big fire. The last big one was in 1919. I'll organize a party to go to Beel-Beel, but there are plenty of us and more coming. Gilly can put out close to five hundred men to fight a fire. Some of us will stay here to help. Thank God I'm west of Drogheda is all I can say.” Bob grinned. “You're a bloody comfort, Martin.”

Martin looked around. “Where's your father, Bob?” “West of the fire, like Bugela. He was out in Wilga mustering some ewes for the lambing, and Wilga's at least five miles west of where the fire started, I reckon.”

“No other men you're worried about?”

“Not today, thank heavens.”

In a way it was like being in a war, Meggie thought as she entered the house: a controlled speed, a concern for food and drink, the keeping up of one's strength and courage. And the threat of imminent disaster. As more men arrived they went to join those already in the Home Paddock, cutting down the few trees that had sprung up close to the creek bank, and clearing away any overlong grass on the perimeter. Meggie remembered thinking when she first arrived on Drogheda how much prettier the Home Paddock might have been, for compared to the wealth of timber all around it, it was bare and bleak. Now she understood why. The Home Paddock was nothing less than a gigantic circular firebreak.

Everyone talked of the fires Gilly had seen in its seventy-odd years of existence. Curiously enough, fires were never a major threat during prolonged drought, because there wasn't sufficient grass then to keep a fire going far. It was times like this, a year or two after heavy rain had made the grass grow so long and tinderlush, that Gilly saw its big fires, the ones which sometimes burned out of control for hundreds of miles. Martin King had taken charge of the three hundred men remaining to defend Drogheda. He was the senior grazier of the district, and had fought fires for fifty years. “I've got 150,000 acres on Bugela,” he said, “and in 1905 I lost every sheep and every tree on the place. It took me fifteen years to recover, and I thought for a while I wouldn't, because wool wasn't fetching much in those days, nor was beef.”

The wind was still howling, the smell of burning was everywhere. Night had fallen, but the western sky was lit to unholy brilliance and lowering smoke was beginning to make them cough. Not long afterward they saw the first flames, vast tongues leaping and writhing a hundred feet into the smoke, and a roaring came to their ears like a huge crowd overexcited at a football game. The trees on the western side of the timber ringing the Home Paddock caught and went up in a solid sheet of fire; as Meggie watched petrified from the homestead veranda she could see little pygmy silhouettes of men outlined against them, jumping and cavorting like anguished souls in Hell. “Meggie, will you get in here and stack those plates on the sideboard, girl! We're not at a picnic, you know!” came her mother's voice. She turned away reluctantly.

Two hours later the first relay of exhausted men staggered in to snatch food and drink, gather up their waning strength to go back and fight on. For this had the station women toiled, to make sure there was stew and damper bread, tea and rum and beer aplenty, even for three hundred men. In a fire, everyone did what he or she was best equipped to do, and that meant the women cooked to keep up the superior physical strength of the men. Case after case of liquor emptied and was replaced by new cases; black from soot and reeling with fatigue, the men stood to drink copiously and stuff huge chunks of damper into their mouths, gobble down a plateful of stew when it had cooled, gulp a last tumbler of rum, then out again to the fire.

In between trips to the cookhouse Meggie watched the fire, awed and terrified. In its way it had a beauty beyond the beauty of anything earthly, for it was a thing of the skies, of suns so far away their light came coldly, of God and the Devil. The front had galloped on eastward, they were completely surrounded now, and Meggie could pick out details the undefined holocaust of the front did not permit. Now there were black and orange and red and white and yellow; a tall tree in black silhouette rimmed with an orange crust that simmered and glowered; red embers floating and pirouetting like frolicsome phantoms in the air above; yellow pulsations from the exhausted hearts of burned-out trees; a shower of spinning crimson sparks as a gum exploded; sudden licks of orange-and-white flames from something that had resisted until now, and finally yielded its being to the fire. Oh, yes, it was beautiful in the night; she would carry the memory of it all her life. A sudden increase in the wind velocity sent all the women up the wistaria boughs onto the silver iron roof muffled in bags, for all the men were out in the Home Paddock. Armed with wet bags, their hands and knees scorched even through the bags they wore, they beat out embers on the frying roof, terrified the iron might give way under the coals, drop flaming pieces down into the wooden struts below. But the worst of the fire was ten miles eastward on Beel- Beel.

Drogheda homestead was only three miles from the eastern boundary of the property, it being closest to Gilly. Beel-Beel adjoined it, and beyond that farther east lay Narrengang. When the wind picked up from forty to sixty miles an hour the whole district knew nothing but rain could prevent the fire burning on for weeks, and laying waste to hundreds of square miles of prime land.

Through the worst of the blaze the houses by the creek had endured, with Tom like a man possessed filling his tank truck, hosing, filling again, hosing again. But the moment the wind increased the houses went up, and Tom retreated in the truck, weeping.

“You'd better get down on your knees and thank God the wind didn't pick up while the front was to the west of us,” said Martin King. “If it had, not only would the homestead have gone, but us as well. God Jesus, I hope they're all right on Beel-Beel!”

Fee handed him a big glass of neat rum; he was not a young man, but he had fought as long as it was needed, and directed operations with a master's touch.

“It's silly,” she said to him, “but when it looked as if it all might go I kept thinking of the most peculiar things. I didn't think of dying, or of the children, or of this beautiful house in ruins. All I could think of were my sewing basket, my half-done knitting, the box of odd buttons I'd been saving for years, my heart-shaped cake pans Frank made me years ago. How could I survive without them? All the little things, you know, the things which can't be replaced, or bought in a shop.”

“That's how most women think, as a matter of fact. Funny, isn't it, how the mind reacts? I remember in 1905 my wife running back into the house while I yelled after her like a madman, just to get a tambour with a bit of fancywork on it.” He grinned. “But we got out in time, though we lost the house. When I built the new place, the first thing she did was finish the fancywork. It was one of those old-fashioned samplers, you know the sort I mean. And it said “Home Sweet Home.”“ He put down the empty glass, shaking his head over the strangeness of women. “I must go. Gareth Davies is going to need us on Narrengang, and unless I miss my guess so will Angus on Rudna Hunish.” Fee whitened. “Oh, Martin! So far away?”

“The word's out, Fee. Booroo and Bourke are rallying.

For three days more the fire rampaged eastward on a front that kept widening and widening, then came a sudden heavy fall of rain that lasted for nearly four days, and quenched every last coal. But it had gone over a hundred miles and laid a charred, blackened path twenty miles wide from midway out across Drogheda to the boundary of the last property in the Gillanbone district eastward, Rudna Hunish. Until it began to rain no one expected to hear from Paddy, for they thought him safely on the far side of, the burned zone, cut off from them by heat in the ground and the still-flaring trees. Had the fire not brought the telephone line down, Bob thought they would have got a call from Martin King, for it was logical that Paddy would strike westward for shelter at Bugela homestead. But when the rain had been falling for six hours and there was still no sign of him, they began to worry. For almost four days they had been assuring themselves continually that there was no reason to be anxious, that of course he was just cut off, and had decided to wait until he could head for his own home rather than go to Bugela.

“He ought to be in by now,” said Bob, pacing up and down the drawing room while the others watched; the irony of it was that the rain had brought a dank chill into the air, and once more a bright fire burned in the marble hearth.

“What do you think, Bob?” Jack asked.

“I think it's high time we went looking for him. He might be hurt, or he might be on foot and facing a long walk home. His horse might have panicked and thrown him, he might be lying somewhere unable to walk. He had food for overnight, but nothing like enough for four days, though he won't have passed out from starvation yet. Best not to create a fuss just now, so I won't recall the men from Narrengang. But if we don't find him by nightfall I'll ride to Dominic's and we'll get the whole district out tomorrow. Lord, I wish those PMG blokes would get a move on with those phone lines!” Fee was trembling, her eyes feverish, almost savage.

“I'll put on a pair of trousers,” she said. “I can't bear to sit here waiting.”

“Mum, stay home!” Bob pleaded.

“If he's hurt it might be anywhere, Bob, and he might be in any sort of condition. You sent the stockmen to Narrengang, and that leaves us mighty short for a search party. If I go paired with Meggie the two of us will be strong enough together to cope with whatever we find, but if Meggie goes on her own she'll have to search with one of you, and that's wasting her, not to mention me.”

Bob gave in. “All right, then. You can have Meggie's gelding; you rode it to the fire. Everyone take a rifle, and plenty of shells.”

They rode off across the creek and into the heart of that blasted landscape. Not a green or a brown thing was left anywhere, just a vast expanse of soggy black coals, incredibly still steaming after hours of rain. Every leaf of every tree was frizzled to a curling limp string, and where the grass had been they could see little black bundles here and there, sheep caught in the fire, or an occasional bigger mound which had been a steer or a pig. Their tears mingled with the rain on their faces. Bob and Meggie headed the little procession, Jack and Hughie in the middle, Fee and Stuart bringing up the rear. For Fee and Stuart it was a peaceful progress; they drew comfort from being close together, not talking, each content in the company of the other. Sometimes the horses drew close or shied apart at the sight of some new horror, but it seemed not to affect the last pair of riders. The mud made the going slow and hard, but the charred, matted grass lay like a coir-rope rug on the soil to give the horses a foothold. And every few yards they expected to see Paddy appear over the far flat horizon, but time went on and he never did.

With sinking hearts they realized the fire had begun farther out than first imagined, in Wilga paddock. The storm clouds must have disguised the smoke until the fire had gone 'q a long way. The borderland was astonishing. One side of a clearly drawn line was just black, glistening tar, while the other side was the land as they had always known it, fawn and blue and drear in the rain, but alive. Bob stopped and drew back to talk to everyone.

“Well, here's where we start. I'm going due west from here; it's the most likely direction and I'm the strongest. Has everyone got plenty of ammunition? Good. If you find anything, three shots in the air, and those who hear must answer with one shot each. Then wait. Whoever fired the three shots will fire three more five minutes later, and keep on firing three shots every five minutes. Those who hear, one shot in answer. “Jack, you go south along the fire line. Hughie, you go southwest. I'm going west. Mum and Meggie, you go northwest. Stu, follow the fire line due north. And go slowly, everyone, please. The rain doesn't make it any easier to see far, and there's a lot of timber out here in places. Call often; he might not see you where he would hear you. But remember, no shots unless you find something, because he didn't have a gun with him and if he should hear a shot and be out of voice range to answer, it would be dreadful for him. “Good luck, and God bless.”

Like pilgrims at the final crossroads they straggled apart in the steady grey rain, getting farther and farther away from each other, smaller and smaller, until each disappeared along the appointed path. Stuart had gone a bare half mile when he noticed that a stand of burned timber drew very close to the fire's demarcation line. There was a little wilga as black and crinkled as a pickaninny's mop, and the remains of a great stump standing close to the charred boundary. What he saw was Paddy's horse, sprawled and fused into the trunk of a big gum, and two of Paddy's dogs, little black stiff things with all four limbs poking up like sticks. He got down from his horse, boots sinking ankle deep in mud, and took his rifle from its saddle scabbard. His lips moved, praying, as he picked his slippery way across the sticky coals. Had it not been for the horse and the dogs he might have hoped for a swaggie or some down-and equals out wayfarer caught, trapped. But Paddy was horsed and had five dogs with him; no one on the track rode a horse or had more than one. dog. This was too far inside Drogheda land to think of drovers, or stockmen from Bugela to the west. Farther away were three more incinerated dogs; five altogether, five dogs. He knew he would not find a sixth, nor did he.

And not far from the horse, hidden as he approached by a log, was what had been a man. There could be no mistake. Glistening and shiny in the rain, the black thing lay on its back, and its back was arched like a great bow so that it bent upward in the middle and did not touch the ground except at the buttocks and shoulders. The arms were flung apart and curved at the elbows as if beseeching heaven, the fingers with the flesh dropping off them to reveal charred bones were clawing and grasping at nothing. The legs were splayed apart also but flexed at the knees, and the blob of a head looked up sightless, eyeless at the sky.

For a moment Stuart's clear, all-seeing gaze rested on his father, and saw not the ruined shell but the man, as he had been in life. He pointed his rifle at the sky, fired a shot, reloaded, fired a second shot, reloaded, let off the third. Faintly in the distance he heard one answering report, then, farther off and very faintly, a second answer. It was then he remembered the closer shot would have- come from his mother and sister. They were northwest, he was north. Without waiting the stipulated five minutes, he put another shell in the rifle breech, pointed the gun due south, and fired. A pause to reload, the second shot, reload, the third shot. He put the weapon back on the ground and stood looking south, his head cocked, listening. This time the first answer was from the west, Bob's shot, the second from Jack or Hughie, and the third from his mother. He sighed in relief; he didn't want the women reaching him first.

Thus he didn't see the great wild pig emerge from the trees to the north; he smelled it. As big as a cow, its massive bulk rolled and quivered on short, powerful legs as it drove its head down, raking at the burned wet ground. The shots had disturbed it, and it was in pain. The sparse black hair on one side of its body was singed off and the skin was redly raw; what Stuart smelled as he stared into the south was the delectable odor of bubbled pork skin, just as it is on a roasted joint fresh from the oven and crisp all over the slashed outer husk. Surprised out of the curiously peaceful sorrow he always seemed to have known, his head turned, even as he thought to himself that he must have been here before, that this sodden black place had been etched into some part of his brain on the day of his birth. Stooping, he groped for the rifle, remembering it wasn't loaded. The boar stood perfectly still, its little reddened eyes mad with pain, the great yellow tusks sharp and curving upward in a half circle. Stuart's horse neighed, smelling the beast; the pig's massive head swung to watch it, then lowered for the charge. While its attention was on the horse Stuart saw his only chance, bent quickly for the rifle and snapped the breech open, his other hand in his jacket pocket for a shell. All around the rain was dropping down, muffling other sounds in its own unchanging patter. But the pig heard the bolt slide back, and at the last moment changed the direction of its charge from the horse to Stuart. It was almost upon him when he got one shot off straight into the beast's chest, without slowing it down. The tusks slewed up and sideways, and caught him in the groin. He fell, blood appearing like a faucet turned all the way on and saturating his clothes, spurting over the ground.

Turning awkwardly as it began to feel the bullet, the pig came back to gore him again, faltered, swayed, and tottered. The whole of that fifteen-hundred-pound bulk came down across him, and crushed his face into the tarry mud. For a moment his hands clawed at the ground on either side in a frantic, futile struggle to be free; this then was what he had always known, why he had never hoped or dreamed or planned, only sat and drunk of the living world so deeply there had not been time to grieve for his waiting fate. He thought: Mum, Mum! I can't stay with you, Mum!, even as his heart burst within him.

° ° °

“I wonder why Stu hasn't fired again?” Meggie asked her mother as they trotted toward the sound of those two first triple volleys, not able to go any faster in the mud, and desperately anxious. “I suppose he decided we'd heard,” Fee said. But in the back of her mind she was remembering Stuart's face as they parted in different directions on the search, the way his hand had gone out to clasp hers, the way he had smiled at her. “We can't be far away now,” she said, and pushed her mount into a clumsy, sliding canter.

But Jack had got there first, so had Bob, and they headed the women off as they came across the last of the living land toward the place where the bushfire had begun.

“Don't go in, Mum,” said Bob as she dismounted. Jack had gone to Meggie, and held her arms.

The two pairs of grey eyes turned, not so much in bewilderment or dread as in knowledge, as if they did not need to be told anything. “Paddy?” asked Fee in a voice not like her own. “Yes. And Stu.”

Neither of her sons could look at her.

“Stu? Stu! What do you mean, Stu? Oh, God, what is it, what's happened? Not both of them-no!”

“Daddy got caught in the fire; he's dead. Stu must have disturbed a boar, and it charged him. He shot it, but it fell on him as it was dying and smothered him. He's dead too, Mum.”

Meggie screamed and struggled, trying to break free of Jack's hands, but Fee stood between Bob's grimy, bloody ones as if turned to stone, her eyes as glassy as a gazing-ball. “It is too much,” she said at last, and looked up at Bob with the rain running down her face and her hair in straggling wisps around her neck like golden runnels. “Let me go to them, Bob. I am the wife of one and the mother of one. You can't keep me away-you have no right to keep me away. Let me go to them.”

Meggie had quietened, and stood within Jack's arms with her head on his shoulder. As Fee began to walk across the ruins with Bob's arm around her waist, Meggie looked after them, but she made no move to follow. Hughie appeared out of the dimming rain; Jack nodded toward his mother and Bob. “Go after them, Hughie, stay with them. Meggie and I are going back to Drogheda, to bring the dray.” He let Meggie go, and helped her onto the chestnut mare. “Come on, Meggie; it's nearly dark. We can't leave them out all night in this, and they won't go until we get back.”

It was impossible to put the dray or anything else wheeled upon the mud; in the end Jack and old Tom chained a sheet of corrugated iron behind two draft horses, Tom leading the team on a stock horse while Jack rode ahead with the biggest lamp Drogheda possessed.

° ° °

Meggie stayed at the homestead and sat in front of the drawing room fire while Mrs. Smith tried to persuade her to eat, tears running down her face to see the girl's still, silent shock, the way she did not weep. At the sound of the front door knocker she turned and went to answer it, wondering who on earth had managed to get through the mud, and as always astonished at the speed with which news traveled the lonely miles between the far-flung homesteads.

Father Ralph was standing on the veranda, wet and muddy, in riding clothes and oilskins.

“May I come in, Mrs. Smith?”

“Oh, Father, Father!” she cried, and threw herself into his astounded arms. “How did you know?”

“Mrs. Cleary telegrammed me, a manager-to-owner courtesy I appreciated very much. I got leave to come from Archbishop di Contini-Verchese. What a mouthful! Would you believe I have to say it a hundred times a day? I flew up. The plane bogged as it landed and pitched on its nose, so I knew what the ground was like before I so much as stepped on it. Dear, beautiful Gilly! I left my suitcase with Father Watty at the presbytery and cadged a horse from the Imperial publican, who thought I was crazy and bet me a bottle of Johnnie Walker Black Label I'd never get through the mud. Oh, Mrs. Smith, don't cry so! My dear, the world hasn't come to an end because of a fire, no matter how big and nasty it was!” he said, smiling and patting her heaving shoulders. “Here am I doing my best to make light of it, and you're just not doing your best to respond. Don't cry so, please.”

“Then you don't know,” she sobbed.

“What? Know what? What is it-what's happened?” “Mr. Cleary and Stuart are dead.”

His face drained of color; his hands pushed the housekeeper away. “Where's Meggie?” he barked.

“In the drawing room. Mrs. Cleary's still out in the paddock with the bodies. Jack and Tom have gone to bring them in. Oh, Father, sometimes in spite of my faith I can't help thinking God is too cruel! Why did He have to take both of them?”

But all Father Ralph had stayed to hear was where Meggie was; he had gone into the drawing room shedding his oilskins as he went, trailing muddy water behind him.

“Meggie!” he said, coming to her and kneeling at one side of her chair, taking her cold hands in his wet ones firmly.

She slipped from the chair and crawled into his arms, pillowed her head on his dripping shirt and closed her eyes, so happy in spite of her pain and grief that she never wanted the moment to end. He had come, it was a vindication of her power over him, she hadn't failed.

“I'm wet, darling Meggie; you'll get soaked,” he whispered, his cheek on her hair.

“It doesn't matter. You've come.”

“Yes, I've come. I wanted to be sure you were safe, I had a feeling I was needed, I had to see for myself. Oh, Meggie, your father and Stu! How did it happen?”

“Daddy was caught in the fire, and Stu found him. He was killed by a boar; it fell on him after he shot it. Jack and Tom have gone out to bring them in.” He said no more, but held her and rocked her as if she were a baby until the heat of the fire partially dried his shirt and hair and he felt some of the stiffness drain from her. Then he put his hand beneath her chin, tilted her head until she looked up at him, and without thinking kissed her. It was a confused impulse not rooted in desire, just something he instinctively offered when he saw what lay in the grey eyes. Something apart, a different kind of sacrament. Her arms slid up under his to meet across his back; he could not stop himself flinching, suppress the exclamation of pain. She drew back a little. “What's the matter?”

“I must have bruised my ribs when the plane came in. We bogged to the fuselage in good old Gilly mud, so it was a pretty rough landing. I wound up balanced on the back of the seat in front of me.”

“Here, let me see.”

Fingers steady, she unbuttoned the damp shirt and peeled it off his arms, pulled it free of his breeches. Under the surface of the smooth brown skin a purpling ugly patch extended from one side clear across to the other below the rib cage; her breath caught.

“Oh, Ralph! You rode all the way from Gilly with this? How it must have hurt! Do you feel all right? No faintness? You might have ruptured something inside!”

“No, I'm fine, and I didn't feel it, honestly. I was so anxious to get here,, make sure you were all right, that I suppose I simply eliminated it from my mind. If I was bleeding internally I'd have known about, it long before now, I expect. God, Meggie, don't!”

Her head had gone down, she was delicately touching her lips to the bruise, her palms sliding up his chest to his shoulders with a deliberate sensuousness that staggered him. Fascinated, terrified, meaning to free himself at any cost, he pulled her head away; but somehow all he succeeded in doing was having her back in his arms, a snake coiled tightly about his will, strangling it. Pain was forgotten, Church was forgotten, God was forgotten. He found her mouth, forced it open hungrily, wanting more and more of her, not able to hold her close enough to assuage the ghastly drive growing in him. She gave him her neck, bared her shoulders where the skin was cool, smoother and glossier than satin; it was like drowning, sinking deeper and deeper, gasping and helpless. Mortality pressed down on him, a great weight crushing his soul, liberating the bitter dark wine of his senses in a sudden flood. He wanted to weep; the last of his desire trickled away under the burden of his mortality, and he wrenched her arms from about his wretched body, sat back on his heels with his head sunken forward, seeming to become utterly absorbed in watching his hands tremble on his knees. Meggie, what have you done to me, what might you do to me if I let you? “Meggie, I love you, I always will. But I'm a priest, I can't.... I just can't!”

She got to her feet quickly, straightened her blouse, stood looking down at him and smiling a twisted smile which only threw the failed pain in her eyes into greater emphasis.

“It's all right, Ralph. I'll go and see if Mrs. Smith can get you something to eat, then I'll bring you the horse liniment. It's marvelous for bringing out a bruise; stops the soreness much better than kisses ever could, I daresay.”

“Is the phone working?” he managed to say.

“Yes. They strung a temporary line on the trees and reconnected us a couple of hours ago.”

But it was some minutes after she left him before he could compose himself sufficiently to seat himself at Fee's escritoire. “Give me trunks, please, switch. This is Father de Bricassart at Drogheda- Oh, hello, Doreen; still on the switch, I see. Nice to hear your voice, too. One never knows who switch is in Sydney; she's just a bored voice.

I want to put an urgent call through to His Grace the Archbishop Papal Legate in Sydney. His number is XX-2324. And while I'm waiting for Sydney, put me through to Bugela, Doreen.”

There was barely time to tell Martin King what had happened before Sydney was on the line, but one word to Bugela was enough. Gilly would know from him and the eavesdroppers on the party line, and those who wished to brave a ride through Gilly mud would be at the funerals.

“Your Grace? This is Father de Bricassart.... Yes, thank you, I arrived safely, but the plane's bogged to its fuselage in mud and I'll have to come back by train .... Mud, Your Grace, m-u-d mud. No, Your Grace, everything up here becomes impassable when it rains. I had to ride from Gillanbone to Drogheda on horseback; that's the only way one can even try in rain .... That's why I'm phoning,

Your Grace. It was as well I came. I suppose I must have had some sort of premonition . . . .yes, things are bad, very bad. Padraic Cleary and his son Stuart are dead, one burned to death in the fire, one smothered by a boar .... A b-o-a-r boar, Your Grace, a wild pig .... Yes, you're right, one does speak a slightly bizarre English up here.” All down the faint line he could hear gasps from the listeners, and grinned in spite of himself. One couldn't yell into the phone that everybody must get off the line-it was the sole entertainment of a mass nature Gilly had to offer its contact-hungry citizens-but if they would only get off the line His Grace might stand a better chance of hearing. “With your permission, Your Grace, I'll remain to conduct the funerals and make sure the widow and her surviving children are all right.... Yes, your Grace, thank you. I'll return to Sydney as soon as I can.”

Switch was listening, too; he clicked the lever and spoke again immediately. “Doreen, put me back to Bugela, please.” He talked to Martin King for a few minutes, and decided since it was August and wintercold to delay the funerals until the day after this coming day. Many people would want to attend in spite of the mud and be prepared to ride to get there, but it was slow and arduous work.

Meggie came back with the horse liniment, but made no offer to rub it on, just handed him the bottle silently. She informed him abruptly that Mrs. Smith was laying him a hot supper in the small dining room in an hour, so he would have time to bathe. He was uncomfortably aware that in some way Meggie thought he had failed her, but he didn't know why she should think so, or on what basis she had judged him. She knew what he was; why was she angry?

° ° °

In grey dawnlight the little cavalcade escorting the bodies reached the creek, and stopped. Though the water was still contained within its banks, the Gillan had become a river in full spate, running fast and thirty feet deep. Father Ralph swam his chestnut mare across to meet them, stole around his neck and the instruments of his calling in a saddlebag. While Fee, Bob, Jack, Hughie and Tom stood around, he stripped the canvas off the bodies and prepared to anoint them. After Mary Carson nothing could sicken him; yet he found nothing repugnant about Paddy and Stu. They were both black after their fashion, Paddy from the fire and Stu from suffocation, but the priest kissed them with love and respect.

For fifteen miles the rough sheet of iron had jarred and bounced over the ground behind the team of draft horses, scarring the mud with deep gouges which would still be visible years later, even in the grass of other seasons. But it seemed they could go no farther; the swirling creek would keep them on its far side, with Drogheda only a mile away. They stood staring at the tops of the ghost gums, clearly visible even in the rain.

“I have an idea,” said Bob, turning to Father Ralph. “Father, you're the only one on a fresh horse; it will have to be you. Ours will only swim the creek oncethey've got no more in them after the mud and the cold. Go back and find some empty forty-four-gallon drums, and seal their lids shut so they can't possibly leak or slip off. Solder them if necessary. We'll need twelve of them, ten if you can't find more. Tie them together and bring them back across the creek. We'll lash them under the iron and float it across like a barge.”

Father Ralph did as he was told without question; it was a better idea than any he had to offer. Dominic O'Rourke of Dibban-Dibban had ridden in with two of his sons; he was a neighbor and not far away as distances went. When Father Ralph explained what had to be done they set about it quickly, scouring the sheds for empty drums, tipping chaff and oats out of drums empty of petrol but in use for storage, searching for lids, soldering the lids to the drums if they were rustfree and looked likely to withstand the battering they would get in the water. The rain was still falling, falling. It wouldn't stop for another two days.

“Dominic, I hate to ask it of you, but when these people come in they're going to be half dead. We'll have to hold the funerals tomorrow, and even if the Gilly undertaker could make the coffins in time, we'd never get them out through the mud. Can any of you have a go at making a couple of coffins? I only need one man to swim the creek with me.”

The O'Rourke sons nodded; they didn't want to see what the fire had done to Paddy or the boar to Stuart.

“We'll do it, Dad,” said Liam.

Dragging the drums behind their horses, Father Ralph and Dominic O'Rourke rode down to the creek and swam it.

“There's one thing, Father!” shouted Dominic. “We don't have to dig graves in this bloody mud! I used to think old Mary was putting on the dog a bit too much when she put a marble vault in her backyard for Michael, but right at this minute if she was here, I'd kiss her!”

“Too right!” yelled Father Ralph.

They lashed the drums under the sheet of iron, six on either side, tied the canvas shroud down firmly, and swam the exhausted draft horses across on the rope which would finally tow the raft. Dominic and Tom sat astride the great beasts, and at the top of the Drogheda- side bank paused, looking back, while those still marooned hooked up the makeshift barge, pushed it to the bank and shoved it in. The draft horses began walking, Tom and Dominic cooeeing shrilly as the raft began to float. It bobbed and wallowed badly, but it stayed afloat long enough to be hauled out safely; rather than waste time dismantling the pontoons, the two impromptu postilions urged their mounts up the track toward the big house, the sheet of iron sliding along on its drums better than it had without them.

There was a ramp up to great doors at the baling end of the shearing shed, so they put the raft and its burden in the huge empty building amid the reeks of tar, sweat, lanolin and dung. Muffled in oilskins, Minnie and Cat had come down from the big house to take first vigil, and knelt one on either side of the iron bier, rosary beads clicking, voices rising and falling in cadences too well known to need the effort of memory.

The house was filling up. Duncan Gordon had arrived from Each-Uisge, Gareth Davies from Narrengang, Horry Hopeton from Beel-Beel, Eden Carmichael from Barcoola. Old Angus MacQueen had flagged down one of the ambling local goods trains and ridden with the engine driver to Gilly, where he borrowed a horse from Harry Gough and rode out with him. He had covered over two hundred miles of mud, one way or another. “I'm wiped out, Father,” Horry said to the priest later as the seven of them sat in the small dining room eating steak-and-kidney pie. “The fire went through me from one end to the other and left hardly a sheep alive or a tree green. Lucky the last few years have been good is all I can say. I can afford to restock, and if this rain keeps up the grass will come back real quick. But heaven help us from another disaster during the next ten years, Father, because I won't have anything put aside to meet it. “Well, you're smaller than me, Horry,” Gareth Davies said, cutting into Mrs. Smith's meltingly light flaky pastry with evident enjoyment. Nothing in the line of disasters could depress a black- soil plainsman's appetite for long; he needed his food to meet them. “I reckon I lost about half of my acreage, and maybe twothirds of my sheep, worse luck. Father, we need your prayers.”

“Aye,” said old Angus. “I wasna sae hard hit as wee Horry and Garry, Father, but bad enough for a” that. I lost sixty thoosand of ma acres, and half ma wee sheep. “Tis times like this, Father, make me wish I hadna left Skye as a young laddie.”

Father Ralph smiled. “It's a passing wish, Angus, you know that. You left Skye for the same reason I left Clunamara. It was too small for you.” “Aye, nae Boot. The heather, doesna make sic a bonnie blaze as the gums, eh, Father?”

It would be a strange funeral, thought Father Ralph as he looked around; the only women would be Drogheda women, for all the visiting mourners were men. He had taken a huge dose of laudanum to Fee after Mrs. Smith had stripped her, dried her and put her into the big bed she had shared with Paddy, and when she refused to drink it, weeping hysterically, he had held her nose and tipped it ruthlessly down her throat. Funny, he hadn't thought of Fee breaking down. It had worked quickly, for she hadn't eaten in twenty-four hours. Knowing she was sound asleep, he rested easier. Meggie he kept tabs on; she was out in the cookhouse at the moment helping Mrs. Smith prepare food. The boys were all in bed, so exhausted they could hardly manage to peel off their wet things before collapsing. When Minnie and Cat concluded their stint of the vigil custom demanded because the bodies lay in a deserted, unblessed place, Gareth Davies and his son Enoch were taking over; the others allotted hour-long spans among themselves as they talked and ate.

None of the young men had joined their elders in the dining room. They were all in the cookhouse ostensibly helping Mrs. Smith, but in reality so they could look at Meggie. When he realized this fact Father Ralph was both annoyed and relieved. Well, it was out of their ranks she must choose her husband, as she inevitably would. Enoch Davies was twenty-nine, a “black Welshman,” which meant he was black-haired and very dark-eyed, a handsome man; Liam O'Rourke was twenty-six, sandy-haired and blue-eyed, like his twenty-five-year-old brother Rory; Connor Carmichael was the spit of his sister, older at thirty-two, and very good-looking indeed, if a little arrogant; the pick of the bunch in Father Ralph's estimation was old Angus's grandson Alastair, the closest to Meggie in age at twenty-four and a sweet young man, with his grandfather's beautiful blue. Scots eyes and hair already gray, a family trait. Let her fall in love with one of them, marry him, have the children she wanted so badly. Oh, God, my God, if You will do that for me, I'll gladly bear the pain of loving her, gladly ....

No flowers smothered these coffins, and the vases all around the chapel were empty. What blossoms had survived the terrible heat of the fiery air two nights ago had succumbed to the rain, and laid themselves down against the mud like ruined butterflies. Not even a stalk of bottle brush, or an early rose. And everyone was tired, so tired. Those who had ridden the long miles in the mud to show their liking for Paddy were tired, those who had brought the bodies in were tired, those who had slaved to cook and clean were tired, Father Ralph was so tired he felt as if he moved in a dream, eyes sliding away from Fee's pinched, hopeless face, Meggie's expression of mingled sorrow and anger, the collective grief of that collective cluster Bob, Jack and Hughie .... He gave no eulogy; Martin King spoke briefly and movingly on behalf of those assembled, and the priest went on into the Requiem immediately.

He had as a matter of course brought his chalice, his sacraments and a stole, for no priest stirred without them when he went offering comfort or aid, but he had no vestments with him, and the house possessed none. But old Angus had called in at the presbytery in Gilly on his way, and carried the black mourning garb of a Requiem Mass wrapped in an oilskin across his saddle. So he stood properly attired with the rain hissing against the windows, drumming on the iron roof two stories up.

Then out into it, the grieving rain, across the lawn all browned and scorched by heat, to the little white-railinged cemetery. This time there were pallbearers willing to shoulder the plain rectangular boxes, slipping and sliding in the mud, trying to see where they were going through the rain beating in their eyes. And the little bells on the Chinese cook's grave tinkled drably: Hee Sing, Hee Sing,

Hee Sing.

It got itself over and done with. The mourners departed on their horses, backs hunched inside their oilskins, some of them staring miserably at the prospect of ruin; others thanking God they had escaped death and the fire. And Father Ralph got his few things together, knowing he must go before he couldn't go.

He went to see Fee, where she sat at the escritoire staring mutely down at her hands.

“Fee, will you be all right?” he asked, sitting where he could see her. She turned toward him, so still and quenched within her soul that he was afraid, and closed his eyes.

“Yes, Father, I'll be all right. I have the books to keep, and five sons left-six if you count Frank, only I don't suppose we can count Frank, can we? Thank you for that, more than I can ever say. It's such a comfort to me knowing your people are watching out for him, making his life a little easier. Oh, if I could see him, just once!”

She was like a lighthouse, he thought; flashes of grief every time her mind came round to that pitch of emotion which was too great to be contained. A huge flare, and then a long period of nothing.

“Fee, I want you to think about something.”

“Yes, what?” She was dark again.

“Are you listening to me?” he asked sharply, worried and suddenly more frightened than before.

For a long moment he thought she had retreated so far into herself even the harshness of his voice hadn't penetrated, but up blazed the beacon again, and her lips parted. “My poor Paddy! My poor Stuart! My poor Frank!” she mourned, then got herself under that iron control once more, as if she was determined to elongate her periods of darkness until the light shone no more in her lifetime.

Her eyes roamed the room without seeming to recognize it. “Yes, Father, I'm listening,” she said.

“Fee, what about your daughter? Do you ever remember that you have a daughter?”

The grey eyes lifted to his face, dwelled on it almost pityingly.

“Does any woman? What's a daughter? Just a reminder of the pain, a younger version of oneself who will do all the things one has done, cry the same tears. No, Father. I try to forget I have a daughter-if I do think of her, it is as one of my sons. It's her sons a mother remembers.”

“Do you cry tears, Fee? I've only seen them once.”

“You'll never see them again, for I've finished with tears forever.” Her whole body quivered. “Do you know something, Father? Two days ago I discovered how much I love Paddy, but it was like all of my life too late. Too late for him, too late for me. If you knew how I wanted the chance to take him in my arms, tell him I loved him! Oh, God, I hope no other human being ever has to feel my pain!”

He turned away from that suddenly ravaged face, to give it time to don its calm, and himself time to cope with understanding the enigma who was Fee. He said, “No one else can ever feel your pain.”

One corner of her mouth lifted in a stern smile. “Yes. That's a comfort, isn't it? It may not be enviable, but my pain is mine.”

“Will you promise me something, Fee?”

“If you like.”

“Look after Meggie, don't forget her. Make her go to the local dances, let her meet a few young men, encourage her to think of marriage and a home of her own. I saw all the young men eyeing her today. Give her the opportunity to meet them again under happier circumstances than these.”

“Whatever you say, Father.”

Sighing, he left her to the contemplation of her thin white hands. Meggie walked with him to the stables, where the Imperial publican's bay gelding had been stuffing itself on hay and bran and dwelling in some sort of equine heaven for two days. He flung the publican's battered saddle on its back and bent to strap the surcingle and girth while Meggie leaned against a bale of straw and watched him.

“Father, look what I found,” she said as he finished and straightened. She held out her hand, in it one pale, pinkish-gray rose. “It's the only one. I found it on a bush under the tank stands, at the back. I suppose it didn't get the same heat in the fire, and it was sheltered from the rain. So I picked it for you. It's something to remember me by.”

He took the half-open bloom from her, his hand not quite steady, and stood looking down at it. “Meggie, I need no reminder of you, not now, not ever. I carry you within me, you know that. There's no way I could hide it from you, is there?”

“But sometimes there's a reality about a keepsake,” she insisted. “You can take it out and look at it, and remember when you see it all the things you might forget otherwise. Please take it, Father.”

“My name is Ralph,” he said. He opened his little sacrament case and took out the big missal which was his own property, bound in costly mother-of-pearl. His dead father had given it to him at his ordination, thirteen long years ago. The pages fell open at a great thick white ribbon; he turned over several more, laid the rose down, and shut the book upon it. “Do you want a keepsake from me, Meggie, is that it?” “Yes.”

“I won't give you one. I want you to forget me, I want you to look around your world and find some good kind man, marry him, have the babies you want so much. You're a born mother. You mustn't cling to me, it isn't right. I can never leave the Church, and I'm going to be completely honest with you, for your own sake. I don't want to leave the Church, because I don't love you the way a husband will, do you understand? Forget me, Meggie!” “Won't you kiss me goodbye?”

For answer he pulled himself up on the publican's bay and walked it to the door before putting on the publican's old felt hat. His blue eyes flashed a moment, then the horse moved out into the rain and slithered reluctantly up the track toward Gilly. She did not attempt to follow him, but stayed in the gloom of the damp stable, breathing in the smells of horse dung and hay; it reminded her of the barn in New Zealand, and of Frank.

° ° °

Thirty hours later Father Ralph walked into the Archbishop Papal Legate's chamber, crossed the room to kiss his master's ring, and flung himself wearily into a chair. It was only as he felt those lovely, omniscient eyes on him that he realized how peculiar he must look, why so many people had stared at him since he got off the train at Central. Without remembering the suitcase Father Watty Thomas was keeping for him at the presbytery, he had boarded the night mail with two minutes to spare and come six hundred miles in a cold train clad in shirt, breeches and boots, soaking wet, never noticing the chill. So he looked down at himself with a rueful smile, then across at the Archbishop.

“I'm sorry, Your Grace. So much has happened I didn't think how odd I must look.”

“Don't apologize, Ralph.” Unlike his predecessor, he preferred to call his secretary by his Christian name. “I think you look very romantic and dashing. Only a trifle too secular, don't you agree?”

“Very definitely on the secular bit, anyway. As to the romantic and dashing, Your Grace, it's just that you're not used to seeing what is customary garb in Gillanbone.”

“My dear Ralph, if you took it into your head to don sackcloth and ashes, you'd manage to make yourself seem romantic and dashing! The riding habit suits you, though, it really does. Almost as well as a soutane, and don't waste your breath telling me you aren't very well aware it becomes you more than a priest's black suit. You have a peculiar and a most attractive way of moving, and you have kept your fine, figure; I think perhaps you always will. I also think that when I am recalled to Rome I shall take you with me. It will afford me great amusement to watch your effect on our short, fat Italian prelates. The beautiful sleek cat among the plump startled pigeons.”

Rome! Father Ralph sat up in his chair.

“Was it very bad, my Ralph?” the Archbishop went on, smoothing his beringed milky hand rhythmically across the silky back of his purring Abyssinian cat. “Terrible, Your Grace.”

“These people, you have a great fondness for them.”

“Yes.”

“And do you love all of them equally, or do you love some of them more than others?”

But Father Ralph was at least as wily as his master, and he had been with him now long enough to know how his mind worked. So he parried the smooth question with deceptive honesty, a trick he had discovered lulled His Grace's suspicions at once. It never occurred to that subtle, devious mind that an outward display of frankness might be more mendacious than any evasion. “I do love all of them, but as you say, some more than others. It's the girl Meggie I love the most. I've always felt her my special responsibility, because the family is so son-oriented they forget she exists.” “How old is this Meggie?”

“I'm not sure exactly. Oh, somewhere around twenty, I imagine. But I made her mother promise to lift her head out of her ledgers long enough to make sure the girl got to a few dances, met a few young men. She's going to waste her life away stuck on Drogheda, which is a shame.”

He spoke nothing but the truth; the Archbishop's ineffably sensitive nose sniffed it out at once. Though he was only three years his secretary's senior, his career within the Church hadn't suffered the checks Ralph's had, and in many ways he felt immeasurably older than Ralph would ever be; the Vatican sapped one of some vital essence if one was exposed to it very early, and Ralph possessed that vital essence in abundance.

Relaxing his vigilance somewhat, he continued to watch his secretary and resumed his interesting game of working out precisely what made Father Ralph de Bricassart tick. At first he had been sure there would be a fleshly weakness, if not in one direction, in another. Those stunning good looks and the accompanying body must have made him the target of many desires, too much so to preserve innocence or unawareness. And as time went on he had found himself half right; the awareness was undoubtedly there, but with it he began to be convinced was a genuine innocence. So whatever Father Ralph burned for, it was not the flesh. He had thrown the priest together with skilled and quite irresistible homosexuals if one was a homosexual; no result. He had watched him with the most beautiful women in the land; no result. Not a flicker of interest or desire, even when he was not in the slightest aware he was under observation. For the Archbishop did not always do his own watching, and when he employed minions it was not through secretarial channels. He had begun to think Father Ralph's weaknesses were pride in being a priest, and ambition; both were facets of personality he understood, for he possessed them himself. The Church had places for ambitious men, as did all great and self- perpetuating institutions. Rumor had it that Father Ralph had cheated these Clearys he purported to love so much out of their rightful inheritance. If indeed he had, he was well worth hanging on to. And how those wonderful blue eyes had blazed when he mentioned Rome! Perhaps it was time he tried another gambit. He poked forward a conversational pawn lazily, but his eyes under hooded lids were very keen.

“I had news from the Vatican while you were away, Ralph,” he said, shifting the cat slightly. “My Sheba, you are selfish; you make my legs numb.”

“Oh?” Father Ralph was sinking down in his chair, and his eyes were having a hard time staying open.

“Yes, you may go to bed, but not before you have heard my news. A little while ago I sent a personal and private communication to the Holy Father, and an answer came back today from my friend Cardinal Monteverdi-I wonder if he is a descendant of the Renaissance musician? Why do I never remember to ask him when I see him? Oh, Sheba, must you insist upon digging in your claws when you are happy?”

“I'm listening, Your Grace, I haven't fallen asleep yet,” said Father Ralph, smiling. “No wonder you like cats so much. You're one yourself, playing with your prey for your own amusement.” He snapped his fingers. “Here, Sheba, leave him and come to me! He is unkind.”

The cat jumped down off the purple lap immediately, crossed the carpet and leaped delicately onto the priest's knees, stood waving its tail and sniffing the strange smells of horses and mud, entranced. Father Ralph's blue eyes smiled into the Archbishop's brown ones, both half closed, both absolutely alert.

“How do you do that?” demanded the Archbishop. “A cat will never go to anyone, but Sheba goes to you as if you gave her caviar and valerian. Ingrate animal.”

“I'm waiting, Your Grace.”

“And you punish me for it, taking my cat from me. All right, you have won, I yield. Do you ever lose? An interesting question. You are to be congratulated, my dear Ralph. In future you will wear the miter and the cope, and be addressed as My Lord, Bishop de Bricassart.”

That brought the eyes wide open! he noted with glee. For once Father Ralph didn't attempt to dissimulate, or conceal his true feelings. He just beamed.

➖➖➖