Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 255 đăng ngày 2024-08-31
***
Nhà giả kim (3 - Hết)
Tác giả: Paulo Coelho
Dịch giả: Lê Chu Cầu
Bản tiếng Anh: The Alchemist
Translated by Clifford E. Landers

Paulo Coelho

-:-

 

PHẦN HAI (tiếp)

36🐫

“Tôi đem điềm của sa mạc đến đây”, cậu nói với người đứng canh cửa một cái lều trắng to tướng nằm chính giữa ốc đảo, “nên muốn thưa chuyện với các tộc trưởng”.

Người gác không trả lời mà đi vào trong lều. Mãi sau hắn mới trở ra với một người Arập trẻ khoác áo hai màu trắng vàng. Cậu kể cho người Arập trẻ điều mình đã thấy. Anh ta yêu cầu cậu chờ rồi lại quay vào trong lều.

Trời bắt đầu tối. Nhiều khách thương và dân ốc đảo vào ra cái lều ấy. Các đống lửa nối nhau tắt và ốc đảo lại yên ắng như sa mạc. Chỉ chiếc lều trắng to này là còn ánh đèn. Suốt thời gian đứng chờ cậu nghĩ đến Fatima và vẫn chưa hiểu rõ lắm những điều cô nói lúc xế trưa.

Sau hàng giờ chờ đợi, người canh bảo cậu vào lều. Cậu choáng ngợp trước những gì mắt mình thấy. Làm sao có thể tưởng tượng nổi ngay giữa sa mạc lại có một cái lều tráng lệ đến thế. Nền phủ thảm quí mà đôi chân cậu chưa từng được đặt chân lên, trần treo loại đèn cắm nến bằng đồng thau trạm chổ. Phía trong lều, các tộc trưởng ngồi thành vòng cung trên nệm lụa thêu rất công phu, tay cũng tì trên nệm thêu như thế. Người hầu ra vào, kẻ bưng khay bạc đầy trà và những món thơm ngon, người lo tiếp than cho các ống điếu đừng tắt. Một mùi thơm dễ chịu lan khắp lều.

Có tất cả tám tộc trưởng, song cậu nhận ra ngay người quan trọng nhất: đó là ông già Arập khoác áo trắng vàng ngồi giữa. Đứng cạnh ông là người Arập trẻ hồi nãy.

“Ai là người lạ đã kể về điềm báo?” Một tộc trưởng nhìn cậu hỏi.

“Chính tôi đây”, cậu đáp rồi thuật lại những gì đã thấy.

“Cớ sao sa mạc lại báo cho một người lạ như cậu biết điều này, chứ không báo cho chúng ta là những kẻ đã sống ở đây từ bao đời rồi?” Một tộc trưởng khác hỏi.

“Vì mắt tôi còn lạ lẫm với sa mạc nên tôi còn nhận ra những điềm mà các đôi mắt quá quen không thấy được nữa”, cậu đáp.

“Và cũng vì tôi biết tâm linh vũ trụ”, cậu thầm nghĩ nhưng chỉ để bụng vì người Arập hẳn không tin chuyện này.

“Ốc đảo là vùng trung lập”, tộc trưởng thứ ba nói. “Sẽ không ai dám tấn công nó cả”.

“Tôi chỉ thuật lại những gì mình thấy. Nếu các ông không muốn tin thì thôi”

Căn lều lặng như tờ một lúc, rồi các tộc trưởng tranh luận sôi nổi. Họ nói một thứ thổ ngữ Arập mà cậu không hiểu; nhưng khi cậu định ra khỏi lều thì bị người canh giữ lại. Lúc này cậu bắt đầu sợ. Có gì đó không ổn rồi. Cậu ân hận đã nghe lời người phu lạc đà.

Chợt ông già ngồi giữa hơi hé miệng cười khiến cậu thấy yên tâm. Ông không tham gia cuộc tranh luận của những người kia và đến lúc này cũng chưa nói tiếng nào. Còn cậu, vì lúc này đã quen với thứ ngôn ngữ vũ trụ, nhận ra rằng từ ông toát ra một vẻ an bình. Trực giác cho cậu thấy mình đến đây là đúng. Cuộc tranh luận chấm dứt, ai nấy chăm chú lắng nghe phản ứng của ông già. Ông nhìn cậu; lúc này vẻ mặt ông lạnh lùng và khó gần.

“Hai nghìn năm trước ở một đất nước xa xôi có một chàng trai bị ném xuống giếng rồi bị bán làm nô lệ, vì hắn tin vào giấc mộng”, ông già nói. “Các khách thương nước ta đã mua rồi đem hắn đến Ai Cập. Mỗi người trong chúng ta đều biết ai tin vào giấc mộng thì cũng có thể giải mộng được”.

“Không phải lúc nào cũng giải được đâu”, cậu liên tưởng đến bà già Zigeuner.

“Vì Pharao mơ thấy bò gầy và bò mập mà hắn lại giải được giấc mơ ấy nên đã cứu dân Ai Cập thoát khỏi nạn đói. Tên hắn là Josef. Hắn cũng ở trên một đất nước lạ, giống như cậu vậy và lúc ấy có lẽ cũng trạc tuổi cậu”.

Ông ngừng nói, đôi mắt vẫn lạnh lùng.

“Chúng ta luôn sống theo truyền thống. Thuở đó truyền thống đã cứu dân Ai Cập khỏi nạn đói và khiến họ trở thành dân tộc giàu có nhất thế gian. Truyền thống dạy đàn ông chúng ta cách vượt sa mạc và tổ chức hôn lễ cho con cái như thế nào. Truyền thống cũng dạy rằng ốc đảo là nơi trung lập, vì phe nào cũng có ốc đảo và chúng không được ai che chở cả”.

Trong khi ông nói thì không ai xen một lời nào.

“Nhưng truyền thống cũng dạy chúng ta phải tin vào thông điệp của sa mạc. Mọi điều chúng ta biết đều là do học được từ sa mạc cả”.

Ông ra hiệu và mọi người đứng cả dậy. Buổi họp chấm dứt. Các ống điếu Nargileh được dụi tắt và đám người canh đứng vào vị trí.

Cậu dợm đi ra thì ông già nói: “Sáng mai chúng ta sẽ phạm vào lời thề rằng trong ốc đảo không ai được mang vũ khí. Suốt ngày mai chúng ta sẽ chờ đón quân địch. Khi mặt trời lặn thì mọi người nộp khí giới lại cho ta. Cứ mười kẻ địch bị giết thì cậu được thưởng một đồng tiền vàng.

Tuy nhiên, vũ khí không được phép đem ra từ nơi cất giấu mà không được sử dụng. Chúng đồng bóng chẳng khác sa mạc, nếu đem ra mà không dùng đến thì lần sau có thể chúng sẽ không chịu để ta sử dụng nữa đâu. Do đó, nếu ngày mai không cần tới chúng thì ít nhất cũng phải có một cái dành cho cậu đó”.

37🐫

Khi cậu ra khỏi lều họp thì ốc đảo chỉ còn ánh trăng soi sáng. cậu đi thêm hai mươi phút nữa mới về tới lều của mình. Những chuyện xảy ra mới đây khiến cậu hoảng sợ. Cậu đã nhập vào tâm linh vũ trụ và có thể sẽ phải trả giá bằng mạng sống của mình. Ván bài đắt quá. Nhưng từ ngày bán đi bầy cừu để theo đuổi chính vận mệnh mình lúc nào cậu cũng đánh cuộc với giá cao. Người phu lạc đà đã nói sao nhỉ: chết vào ngày mai thì cũng chẳng khác chết vào bất cứ một ngày nào khác. Mỗi ngày là để ta sống hoặc để từ giã cõi đời. Mọi sự tùy vào một chữ thôi: “Maktub”.

Cậu bình thản đi, lòng không ân hận gì. Nếu ngày mai cậu chết thì cũng chính bởi vì Thượng đế không thích thay đổi tương lai. Dù cậu có chết thì cũng là chết sau khi đã vượt eo biển, để làm việc trong cửa hàng pha lê, đã được biết sự yên ắng của sa mạc và đôi mắt Fatima. Đã từ lâu, từ khi rời nhà đi, mỗi một ngày cậu đều đã sống hết mình. Nếu ngày mai có chết thì mắt cậu đã được thấy rất nhiều, hơn hẳn những người chăn cừu khác và cậu rất hãnh diện về điều này.

Chợt có tiếng vó ngựa và cậu bị một làn gió cực mạnh hất ngã xuống đất. Quanh cậu bụi tung mù mịt, che khuất cả mặt trăng. Trước mặt cậu một con ngựa khổng lồ cất cao hai vó trước, hí vang khiếp đảm. Khi đã bớt bụi thì hình ảnh cậu nhìn thấy khiến cậu sợ choáng người, chưa bao giờ sợ đến thế: một kị sĩ mặt toàn đen ngồi trên mình ngựa, một con chim ưng đậu trên vai trái. Người ấy đội khăn xếp, che kín mặt chỉ hở hai mắt, giống như những “sứ giả của sa mạc” nhưng oai phong hơn nhiều.

Người kị sĩ đầy bí mật kia rút từ yên ngựa một thanh kiếm cong; thép lấp lánh dưới ánh trăng.

“Kẻ nào đã cả gan giải đoán đường bay của chim bồ cắt?” Tiếng người ấy như sấm dậy, vang vọng giữa năm vạn gốc chà là của ốc đảo El Fayum.

“Tôi đấy”, cậu đáp và liên tưởng tới tượng thánh Santiago de Compostela trên mình ngựa phóng qua đầu lũ ngoại đạo. Khác chăng là giờ đây kẻ ngoại đạo kia như tượng thánh trên mình ngựa, còn cậu nằm lăn dưới đất.

“Tôi đấy”, cậu đáp rồi cúi đầu để tránh nhát kiếm. “Nhiều mạng người sẽ được tâm linh vũ trụ cứu thoát; đó là điều mà ông đã không ngờ tới”.

Nhưng lưỡi kiếm không chém xả xuống cậu mà cánh tay người lạ chỉ hạ xuống từ từ cho đến khi mũi kiếm chạm vào trán cậu. Kiếm sắc làm trán cậu rỉ máu.

Người kị sĩ bất động. Cậu cũng bất động. Cậu không nghĩ đến chạy trốn mà thấy trong lòng rạo rực một niềm vui kì lạ: mình sẽ chết vì đã quyết tâm theo vận mệnh của mình. Và vì Fatima. Thế có nghĩa là các điềm báo không sai. Hiện cậu đối mặt với kẻ thù và chẳng việc gì phải bận tâm về cái chết vì tâm linh vũ trụ đang chờ đón mình. Cậu sẽ nhanh chóng trở thành một phần của linh hồn ấy. Và ngày mai kẻ thù kia cũng sẽ thành một phần của nó nốt.

Người lạ vẫn dí kiếm trên trán cậu.

“Tại sao mi lại giải đoán đường bay của chim?”

“Tôi chỉ đọc những gì chim muốn báo thôi. Chim muốn cứu ốc đảo còn các người sẽ phải chết. Ốc đảo đông hơn lũ các người”.

Mũi kiếm vẫn không rời trán cậu.

“Mi là ai mà táo gan muốn thay đổi số phận đã được Allah quyết định?”

“Allah tạo dựng các đạo quân cũng như người sinh ra lũ chim kia. Người đã dạy tôi ngôn ngữ của loài chim. Mọi điều đều do một bàn tay viết nên cả”, cậu nói, dùng từ ngữ của người phu lạc đà.

Người lạ thu kiếm về. Cậu thấy nhẹ cả người nhưng vẫn không có ý bỏ chạy.

“Đừng có đoán mò”, người lạ nói. “Điều gì đã được bàn tay nọ ghi sẵn rồi thì không cản được đâu”.

“Tôi chỉ trông thấy một đạo quân chứ không biết được trận đánh kết thúc thế nào”, cậu đáp

Người lạ có vẻ hài lòng với câu trả lời, song vẫn lăm lăm thanh kiếm trong tay.

“Một người lạ như mi đến xứ lạ này để làm gì?”

“Tôi đi theo vận mệnh của mình. Nhưng ông không thể hiểu được đâu”.

Người kị sĩ tra kiếm vào vỏ; con chim ưng trên vai ông ta bỗng kêu lên nghe rất lạ. Cậu thấy bớt căng thẳng.

“Ta muốn thử lòng can đảm của cậu đó thôi”, người lạ nói. “Vì can đảm là điều thiết yếu để hiểu được ngôn ngữ vũ trụ”.

Cậu ngạc nhiên. Người lạ này nói về những điều mà rất ít người biết.

“Không được phép sao nhãng, dù đã tiến rất xa”, ông ta nói tiếp. “Phải yêu quí sa mạc, nhưng không bao giờ được tin nó tuyệt đối, vì sa mạc luôn thử thách con người: nó sẽ giết những kẻ nào lơ là, không cân nhắc từng bước đi một”. Những điều ông ta nói khiến cậu liên tưởng đến vị vua già.

“Nếu đạo quân ấy đến đây thật và khi mặt trời lặn mà đầu cậu vẫn chưa rụng thì hãy tìm ta”, người lạ nói.

Bàn tay mới đây vung kiếm giờ vung một cái roi. Con ngựa bạch lại tung hai vó trước làm cát bụi bay mù.

“Ông ở chỗ nào?” Cậu gọi với theo khi kị sĩ phóng ngựa đi.

Bàn tay cầm roi chỉ về hướng Nam. Thế là cậu đã gặp nhà luyện kim đan.

39🐫

Khi mặt trời lặn và sao trời vừa ló dạng – không tỏ vì hôm ấy trăng tròn - cậu đi về hướng Nam. Ở đó chỉ một cái lều duy nhất và những người Arập đi ngang đều bảo cậu rằng chỗ này chỉ toàn là Dschinn - quỉ thần – thôi. Những cậy vẫn ngồi đợi trên một tảng đá. Mãi khi mặt trăng đã lên cao nhà luyện kim đan mới xuất hiện. Ông đeo lủng lẳng trên vai hai con chim bồ cắt đã chết.

“Cháu ở đây này”, cậu lên tiếng.

“Cậu không nên ở lại ốc đảo này”, nhà luyện kim đan nói. “Hay là vận mệnh cậu đã xui khiến cậu tối đây?”

“Vì có đánh nhau giữa các bộ tộc, thành ra cháu không thể đi tiếp qua sa mạc đuợc”.

Nhà luyện kim đan xuống ngựa, ra hiệu cho cậu theo ông vào trong lều. Nó giống mọi lều khác ở ốc đảo, không kể lều của các tộc trưởng sang trọng như trong truyền thần thoại. Cậu đưa mắt tìm lò luyện, bình và nồi nấu nhưng không thấy gì cả. Chỉ có sách xếp chồng lên nhau, một cái bếp và những tấm thảm đầy hình vẽ kì quái.

“Ngồi đây, ta đi nấu trà”, nhà luyện kim đan nói. “Rồi mình thưởng thức thịt chim bồ cắt”.

Cậu ngờ ngợ rằng đó là hai con chim mình thấy hôm qua nhưng không nói gì. Nhà luyện kim đan nhóm lửa, rồi chỉ một lúc sau căn lều nức mùi thịt chiên. Dễ chịu hơn mùi thơm của ống điếu nhiều.

“Vì lí do gì ông muốn gặp cháu?” Cậu hỏi

“Vì điềm báo. Gió đã báo cho ta là cậu tới đây, và cậu cần được giúp đỡ”.

“Không phải cháu đâu mà là anh chàng người Anh cơ. Anh ta đã tìm ông mãi”.

“Hắn còn phải làm cho xong một số điều khác, trước khi gặp được ta. Nhưng hắn đã đi đúng hướng rồi đấy. Hắn đã bắt đầu tìm hiểu sa mạc”.

“Thế còn cháu?”

“Khi người nào muốn điều gì thì cả vũ trụ sẽ chung sức lại để người ấy đạt được điều mơ ước”, nhà luyện kim đan nói.

Ông lập lại những lời của nhà vua già. Cậu hiểu ngay. Lại thêm một nguời đón gặp và dẫn mình đến gần với vận mệnh của mình.

“Ông sẽ chỉ dạy cháu chứ?”

“Không. Vì cậu đã biết hết những gì cần biết. Ta sẽ chỉ cho cậu phương hướng của kho tàng thôi”.

“Nhưng mà đang có đánh nhau”, cậu nhắc lại

“Ta biết chuyện gì đang xảy ra trên sa mạc”.

“Cháu đã tìm thấy kho báu rồi vì hiện cháu có một con lạc đà, cộng thêm số tiền từ hồi làm ở hiệu pha lê và năm mươi đồng tiền vàng. Cháu sẽ là một người có của ở đất nước mình”.

“Nhưng chẳng thứ nào ở Kim Tự Tháp cả”.

“Cháu có Fatima. Nàng là kho báu quí nhất của cháu”.

“Nhưng cô bé ấy cũng có ở Kim Tự Tháp đâu”.

Hai người ăn thịt chim trong lặng lẽ. Nhà luyện kim đan mở một cái chai rồi rót một chất lỏng màu đỏ vào li của cậu. Rượu vang! Và là thứ rượu tuyệt nhất của cậu từng uống.

“Đạo cấm uống rượu mà!”

“Những thứ vào miệng con người không độc hại, xấu xa”, nhà luyện kim đan đáp. “Xấu xa độc hại là những gì từ miệng họ tuôn ra. “

Rượu làm cậu hưng phấn nhưng nhà luyện kim đan khiến cậu băn khoăn. Họ ngồi trước lều ngắm trăng. Trăng sáng làm ánh sao nhạt dần.

“Uống nữa đi”, nhà luyện kim đan nói khi thấy cậu vui vẻ hẳn lên. “Rồi hãy ngủ yên tối nay, như một chiến binh trước ngày ra trận. Đừng quên rằng trái tim cậu ở đâu thì kho báu cũng ở đó; cũng như phải tìm cho ra kho tàng thì những gì cậu học được trên đường mới thật có ý nghĩa. Ngày mai cậu hãy bán lạc đà đi, mua một con ngựa. Lạc đà khó lường lắm: chúng đi cả nghìn bước chẳng có dấu hiệu mệt mỏi nào cả, nhưng thình lình khuỵu xuống rồi chết đứ đừ. Ngựa thì mệt từ từ, thành ra người ta luôn luôn lường trước được có thể thúc ép chúng tới mức nào và chừng nào chúng sẽ chết”.

38🐫

Sáng hôm sau có 2.000 người trang bị vũ khí tản ra trong rừng chà là ở El-Fayum. Trước khi mặt trời đứng bóng, 500 địch quân xuất hiện ở chân trời. Chúng tiến vào ốc đảo từ hướng Bắc, vũ khí giấu dưới áo khoác trắng, trông chẳng khác một đoàn thám hiểm vô hại. Khi đã tới gần căn lều trắng lớn ở trung tâm El-Fayum chúng mới tấn công bằng gươm cong và súng. Nhưng lều trống trơ.

Người dân ốc đảo bao vây đạo quân này và chỉ trong nửa giờ 499 cái xác nằm la liệt. Trẻ con đã được tập trung đưa về cuối rừng chà là nên chúng không trông thấy gì hết. Các bà các cô ở trong lều cầu nguyện cho chồng con mình nên cũng chẳng nhìn thấy gì luôn. Nếu không có những cái xác nằm la liệt kia thì thật chẳng khác một ngày bình thường nào.

Chỉ có một tên chưa bị giết, đó là viên chỉ huy đạo binh kia. Xế trưa, hắn bị điệu ra trước các tộc trưởng. Họ hỏi tại sao hắn lại vi phạm truyền thống. Viên chỉ huy trả lời rằng người của hắn bị đói khát và kiệt sức sau nhiều ngày giao tranh, nên chúng muốn chiếm ốc đảo để có thể tiếp tục cuộc chiến.

Vị tộc trưởng nói rằng các chiến binh bị giết là điều đáng tiếc nhưng không ai được phép vi phạm truyền thống. Trong sa mạc chỉ có các đồi cát là được phép thay đổi mỗi khi trời trở gió.

Rồi viên chỉ huy bị kết án tử hình và phải chịu một cái chết nhục nhã: hắn không được hưởng ân huệ xử bắn hay chém đầu mà bị treo cổ dưới một gốc cây chà là đã chết. Xác hắn đung đưa trong gió.

Tù trưởng ốc đảo cho gọi cậu đến và ban thưởng năm mươi đồng tiền vàng. Ông nhắc lại câu chuyện về Josef ở Ai Cập và yêu cầu cậu ở lại ốc đảo làm cố vấn.

39🐫

Chiều tối hôm sao cậu đi ngựa đến lều của nhà luyện kim đan. Cậu đợi một lúc thì ông cũng vừa xong để đi; con chim ưng đậu trên vai trái.

“Hãy chỉ cho ta sự sống trên sa mạc”, nhà luyện kim đan nói, “chỉ những ai tìm được sự sống thì mới có thể tìm thấy kho tàng”.

Họ cưỡi ngựa qua những đồi cát loáng ánh trăng.

“Không biết mình có tìm ra sự sống không, vì nói cho đúng thì mình đâu đã rành sa mạc”, cậu nghĩ.

Cậu muốn quay sang nói với ông như thế nhưng lại ngại. Lát sau họ tới chỗ tảng đá mà hôm trước cậu đã trông thấy hai con chim bồ cắt, nhưng giờ đây chỉ có gió và tĩnh lặng

“Cháu không biết cách tìm sự sống trên sa mạc”, cậu nói, “tất nhiên cháu biết là có sự sống nhưng không biết tìm ở đâu”.

“Sự sống lôi cuốn sự sống”, nhà luyện kim đan gợi ý.

Và thế là cậu hiểu. Cậu thả lỏng ngay cương ngựa, để nó tự đi qua các tảng đá. Nhà luyện kim đan im lặng đi theo. Con ngựa của nhà cậu chạy lòng vòng gần nửa tiếng. Họ không còn nhìn thấy rừng chà là nữa, chỉ còn mặt trăng to tướng trên bầu trời và những tảng đá lấp lánh ánh trăng bạc. Chợt cậu thấy con ngựa đứng lại ở một nơi mình chưa hề tới bao giờ.

“Chỗ này có sự sống”, cậu nói với nhà luyện kim đan.

“Tuy cháu không biết ngôn ngữ của sa mạc nhưng con ngựa của cháu biết ngôn ngữ của sự sống”.

Họ xuống ngựa. Nhà luyện kim đan vẫn không nói gì. Ông vừa từ từ đi tới vừa quan sát các tảng đá. Chợt ông dừng lại, thận trọng cúi xuống. Một cái hốc nằm giữa các tảng đá. Ông thò tay vào, mới đầu chỉ là bàn tay sau cả cánh tay, tới tận vai. Có gì đó động đậy trong hốc và đôi mắt ông - cậu chỉ thấy được đôi mắt do chúng không bị khăn che – nheo lại vì cố gắng và căng thẳng, như thể ông đang giằng co với một vật gì đó trong hốc. Rồi ông rút tay ra thật nhanh khiến cậu giật mình. Ông đứng dậy, tay nắm chặt đuôi một con rắn. Cậu vội nhảy lùi lại. Con rắn không ngừng ngọ nguậy, thở phì phì làm tan sự yên ắng của sa mạc. Đó là một con rắn hổ, nọc của nó giết chết người chỉ trong vài phút.

“Coi chừng nọc độc”, cậu nói.

Có vẻ như ông đã bị rắn cắn nhưng vẫn tỏ ra bình thản.

“Nhà luyện kim đan đã hai trăm tuổi rồi”, chàng người Anh đã nói thế. Vậy thì ông hẳn phải biết làm gì với rắn trong sa mạc”. Cậu nhìn ông đi lại chỗ con ngựa, rút thanh kiếm cong hình bán nguyệt vạch một vòng tròn trên sa mạc rồi thả con rắn vào giữa. Con vật tức thì nằm yên.

“Đừng sợ, nó không ra được đâu. Cậu đã tìm ra sự sống trong sa mạc, đó là cái điềm ta cần”.

“Điều ấy có gì là quan trọng?”

“Vì Kim Tự Tháp nằm giữa sa mạc”.

Cậu không muốn nghe gì về Kim Tự Tháp cả. Ngay từ tối hôm trước tâm hồn cậu đã nặng trĩu vì buồn. Đi tìm kho báu nghĩa là rời xa Fatima. “Ta sẽ đi cùng với cậu qua sa mạc”, nhà luyện kim đan nói.

“Nhưng cháu lại muốn ở lại ốc đảo”, cậu đáp. “Cháu đã gặp Fatima và với cháu thì cô còn quí hơn cả kho báu”.

“Fatima là một cô gái sa mạc”, nhà luyện kim đan nói. “Cô biết rằng đàn ông phải đi thì mới có thể trở về. Cô đã tìm thấy kho báu của mình: đó chính là cậu. Bây giờ cô chờ đợi rằng cậu cũng sẽ tìm được kho tàng của cậu”.

“Nếu cháu quyết định ở lại thì sao?”

“Thì cậu sẽ trở thành cố vấn của ốc đảo. Cậu có đủ vàng để tậu nhiều cừu và lạc đà. Cậu sẽ cưới Fatima và năm đầu hai người sẽ rất hạnh phúc. Cậu sẽ tập yêu thích sa mạc và từng cây một của cả năm vạn cây chà là. Cậu sẽ nhìn thấy chúng lớn lên, qua đó thấy một thế giới không ngừng biến dịch, và cậu sẽ càng ngày càng hiểu rõ ngôn ngữ của điềm, của dấu hiệu hơn vì sa mạc là người thầy giỏi nhất.

Năm thứ hai cậu sẽ nhớ lại rằng ở đâu đó có một kho báu. Các điềm sẽ không ngừng nhắc tới và cậu sẽ cố lờ đi. Cậu chỉ đem hiểu biết của mình phục vụ ốc đảo và cư dân ở đấy. Các tộc trưởng sẽ biết ơn cậu. Bầy lạc đà của cậu sẽ đem lại cho cậu sự giàu có và quyền lực.

Năm thứ ba các điềm sẽ lại tiếp tục nhắc nhở cậu đem về kho tàng và vận mệnh của cậu. Và đêm đêm cậu sẽ lang thang trong sa mạc, khiến Fatima buồn khổ vì cho rằng chính cô đã cản bước chân cậu. Nhưng cậu yêu cô và cô đáp lại tình yêu đó. Cậu sẽ nhớ lại rằng cô không hề yêu cầu cậu ở lại ốc đảo, vì một người con gái sa mạc như cô biết mình phải chờ đợi chồng trở về. Vì thế mà cậu sẽ không trách cứ cô. Nhưng nhiều đêm cậu sẽ lang thang giữa các hàng cây chà là, nghĩ giá như hồi đó mình đi tiếp và vững tin hơn vào tình yêu của Fatima. Chính sự lo lắng của cậu rằng sẽ không bao giờ trở về được đã giữ chân cậu lại ốc đảo này. Và điềm sẽ báo cho cậu biết rằng kho tàng của cậu từ nay sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn.

Năm thứ tư, vì cậu cứ lờ đi, các điềm sẽ không xuất hiện lại với cậu nữa. Các tộc trưởng sẽ nhận thấy thế và sẽ không dùng cậu làm cố vấn nữa. Khi đó thì cậu sẽ là một thương nhân giàu có với nhiều lạc đà và hàng hóa. Nhưng cho đến cuối đời cậu sẽ mãi lang thang trên sa mạc, luôn quẩn quanh các gốc chà là, vì biết rõ rằng mình đã không đi theo vận mệnh và giờ thì mọi sự đã quá trễ.

Cậu phải hiểu rằng tình yêu không bao giờ ngăn cản ai theo đuổi vận mệnh của mình cả. Nếu để cho chuyện ấy xảy ra thì đó không phải là tình yêu đúng nghĩa, tình yêu của ngôn ngữ vũ trụ.”

Nhà luyện kim đan xóa vòng tròn vạch trên cách hồi nãy; thế là con rắn vội vàng chui tọt và giữa các tảng đá. Cậu nghĩ tới người bán hàng pha lê mơ được hành hương đến Mekka, đến chàng người Anh khổ công tìm một nhà luyện kim đan. Cậu cũng nghĩ tới người con gái với lòng tin mãnh liệt vào sa mạc và quả nhiên một ngày nọ sa mạc đã đem đến cho cô một người trai biết yêu cô.

Họ lên ngựa; lần này cậu chạy theo sau nhà luyện kim đan. Gió đưa đến những âm thanh của ốc đảo và cậu lắng tìm giọng nói của Fatima.

Vì có đánh nhau nên ngày hôm ấy cậu đã không ra giếng. Để rồi tối nay, lúc quan sát con rắn nằm yên trong cái vòng tròn nọ, người kị sĩ lạ lùng mang con chim ưng trên vai đã nói về tình yêu và kho báu, về người đàn bà sa mạc và về vận mệnh của cậu.

“Cháu sẽ đi cùng với ông”, cậu nói và liền thấy lòng thanh thản.

“Sáng mai mình sẽ lên đường trước khi mặt trời mọc”, ông chỉ nói có thế.

41🐫

Suốt đêm cậu không ngủ được. Hai giờ trước khi mặt trời mọc cậu đánh thức một anh chàng ngủ trong lều, yêu cầu anh ta chỉ cho cậu chỗ ở của Fatima. Hai người cùng đi đến lều của cô. Để trả ơn, cậu cho anh chàng tiền đủ mua một con cừu.

Rồi cậu nhờ anh chàng vào đánh thức cô, nói rằng cậu chờ ở ngoài. Anh chàng Arập đáp ứng lời yêu cầu và được trả thêm tiền cho một con cừu nữa.

“Bây giờ bạn đi được rồi, để chúng tôi nói chuyện riêng”, cậu nói.

Anh chàng Arập quay về lều ngủ tiếp, lấy làm hãnh diện đã giúp được cho cố vấn của ốc đảo và sung sướng vì được tiền mua cừu.

Fatima ra khỏi lều. Hai người đi giữa những hàng cây chà là. Cậu biết như thế này là phạm vào phong tục ốc đảo nhưng lúc này cậu chẳng quan tâm nữa.

“Anh sắp lên đường”, cậu nói. “Anh muốn em biết rằng anh sẽ trở lại. Anh yêu em, vì …”

“Anh đừng nói thêm nữa”, Fatima ngắt lời. “Người ta yêu vì yêu. Cần gì phải có lí do”.

Nhưng cậu vẫn nói tiếp: “Anh đã có một giấc mơ, sau đó anh gặp được một vị vua già, rồi anh bán hàng pha lê và vượt sa mạc. Các bộ lạc đánh nhau nên anh mới đến giếng nước để hỏi về một nhà luyện kim đan. Anh yêu em vì cả vũ trụ đã góp sức để anh đến tận đây và gặp được em”.

Họ ôm nhau. Đó là lần đầu tiên.

“Nhất định anh sẽ trở về”, cậu lặp lại.

“Trước đây em luôn nhìn sa mạc mà lòng mong ngóng. Giờ đây em sẽ vẫn ngắm nhìn sa mạc mà lòng đầy hi vọng. Một ngày nọ bố em đã ra đi nhưng rồi ông đã trở về với mẹ em, và từ đó bao giờ ông cũng trở về”.

Rồi hai người không nói gì nữa. Họ đi dưới những gốc chà là thêm một lúc nữa rồi cậu đưa cô về lại lều.

“Anh sẽ trở về, y như bố em luôn trở về với mẹ em vậy”.

Cậu thấy mắt Fatima ứa lệ.

“Em khóc kìa”.

“Em sinh ra ở sa mạc”, cô che mặt đáp, “nhưng em cũng là đàn bà chứ”.

Fatima biến vào trong lều. Mặt trời rồi sẽ mọc và khi một ngày mới bắt đầu cô sẽ làm những việc cô vẫn làm từ nhiều năm nay. Tuy vật tất cả đã thay đổi rồi. Cậu sẽ không có mặt ở ốc đảo và ốc đảo cũng không còn giống như vài ngày trước. Nó hết là nơi có năm vạn cây chà là và ba trăm giếng chào đón những kẻ hành hương sau một chuyến viễn du. Với cô, từ nay ốc đảo sẽ trở thành hiu quạnh.

Từ nay sa mạc sẽ trở thành quan trọng hơn ốc đảo. Cô sẽ ngắm nhìn nó và đoán xem cậu đi theo ngôi sao nào trên đường tìm kho báu. Cô sẽ gửi những nụ hôn của mình cho gió, hi vọng rằng nó sẽ mơn man gương mặt cậu và kể cậu nghe rằng cô vẫn sống, vẫn chờ cậu như một người đàn bà chờ người chồng can đảm ra đi tìm kiếm kho tàng. Từ hôm nay sa mạc sẽ chỉ mang một ý nghĩa: hi vọng cậu sẽ trở về.

42🐫

“Đừng nghĩ tới những gì đã bỏ lại phía sau”, nhà luyện kim đan nói khi họ cưỡi ngựa đi trên sa mạc. “Mọi sự đã được ghi khắc vào tâm linh vũ trụ và sẽ tồn tại vĩnh viễn”.

“Con người mơ được trở về hơn là ra đi”, cậu nói và đã thấy quen lại với sự yên ắng của sa mạc.

“Nếu những gì ta tìm thấy là thật, là vàng ròng thì chúng sẽ không bao giờ hư hao và bất cứ lúc nào ta quay về thì chúng vẫn còn nguyên vẹn đó; còn nếu chúng chỉ là thoáng qua như ánh sao băng thì khi trở về ta sẽ chẳng tìm thấy gì nữa cả. Nhưng dẫu sao cậu cũng đã sống được cái phút thoáng qua ấy và bấy nhiêu đã là quí rồi”.

Ông dùng thuật ngữ của giới giả kim nhưng cậu hiểu ông muốn ám chỉ Fatima.

Song không nghĩ đến những gì cậu đã bỏ lại phía sau thì thật là khó. Cảnh vật đơn điệu của sa mạc khiến cậu nghĩ vẩn vơ. Cậu như thể vẫn còn thấy trước mắt rừng chà là, giếng nươc và khuôn mặt người con gái mình yêu, anh chàng người Anh bên lò thí nghiệm và người phu lạc đà với những tư tưởng cao siêu bậc thầy mà không tự biết.

“Có thể nhà luyện kim đan chưa từng yêu bao giờ”, cậu nghĩ.

Ông cưỡi ngựa chạy phía trước, con chim ưng đậu trên vai. Con chim hiểu rõ ngôn ngữ của sa mạc nên mỗi khi họ dừng chân thì nó đều bay đi tìm mồi để săn. Ngày đầu nó tha về một con thỏ, hôm sau hai con chim.

Đêm đến họ chỉ trùm chăn chứ không đốt lửa. Đêm sa mạc lạnh và trăng càng khuyết thì càng tối. Suốt một tuần lễ liền họ ít trò chuyện, chỉ trao đổi về những cách phòng xa cần thiết để tránh lạc vào trận địa giữa các bộ tộc. Cuộc xung đột vẫn còn tiếp diễn; hẳn là cách chỗ họ không xa vì thỉnh thoảng gió tanh mùi máu. Và gió nhắc nhở cậu nhớ đến ngôn ngữ của dấu hiệu, luôn luôn chỉ ra cho cậu những gì mắt cậu không thấy được.

Vào ngày thứ bảy, nhà luyện kim đan quyết định dừng lại nghỉ sớm hơn thường lệ. Con chim ưng lại bay đi săn; ông đưa bình nước mời cậu.

“Cậu sắp đến đích rồi đó”, nhà luyện kim đan nói. “Tôi chúc mừng cậu đã đi theo con đường tiền định của mình”.

“Trên đường đi ông chẳng chỉ bảo cháu điều gì cả. Cháu cứ nghĩ rằng ông sẽ dạy cho cháu những điều ông biết. Cách đây không lâu cháu cùng đi trên sa mạc với một người có nhiều sách về thuật luyện kim đan, nhưng cháu chẳng học được gì từ những quyển sách ấy”.

“Chỉ có một cách học thôi”, nhà luyện kim đan đáp. “Đó là thông qua hành động. Tất cả những gì cần biết cậu đã học được trên đường đi rồi. Nhưng còn thiếu một điều”.

Cậu muốn biết đó là điều gì nhưng ông mãi nhìn đăm đăm về phía chân trời, tìm bóng dáng con chim ưng.

“Tại sao người ta gọi ông là nhà luyện kim đan?”

“Vì đó là nghề của ta”

“Khi những nhà luyện kim đan khác thử luyện vàng mà không thành công thì họ sai ở chỗ nào?”

“Tại vì họ chỉ chủ tâm tìm vàng thôi”, người bạn đồng hành của cậu đáp. “Họ tìm kho báu vốn nằm ở cuối con đường tiền định nhưng lại không chịu đi trọn con đường đó”.

“Cháu còn phải học thêm điều gì nữa?”, cậu hỏi

Nhưng ông vẫn tiếp tục nhìn về phía chân trời. Rồi con chim ưng quay về với mồi nó vừa săn được. Họ đào một cái hố, đốt lửa trong ấy để khỏi bị trông thấy.

“Ta là nhà luyện kim đan chỉ bởi vì ta là nhà luyện kim đan, thế thôi”, ông nói trong khi chuẩn bị bữa ăn. “Ta học môn này từ ông của ta, ông lại học từ ông thân và cứ thế cho đến thời tạo thiên lập địa. Vào thời đó “Đại công trình” có thể viết được vừa một phiến ngọc lục bảo. Nhưng rồi con người không thèm chú ý vào những điều đơn giản mà lại lo viết luận văn, chú giải và triết lý. Rồi họ cho rằng đã đi đúng đường hơn người khác. Nhưng đến nay phiến ngọc lục bảo vẫn còn nguyên giá trị”.

“Trên phiến ngọc ấy viết gì?” Cậu muốn biết.

Nhà luyện kim đan bèn vẽ lên cát lối chừng năm phút. Nhìn ông vẽ cậu nghĩ đến nhà vua già và bãi chợ nơi hai người gặp nhau; cậu có cảm tưởng như từ đó đến nay đã nhiều năm qua rồi.

“Trên phiến ngọc viết những điều đó đấy”, nhà luyện kim đan nói khi đã vẽ xong.

Cậu thử đọc nhưng thất vọng.

“Đây là loại mật ngữ mà cháu đã thấy trong các sách của anh chàng người Anh”.

“Không phải đâu”, nhà luyện kim đan đáp. “Nó cũng giống như đường bay của hai con chim bồ cắt, không thể dùng lí trí để hiểu được. Phiến ngọc lục bảo dẫn đường thẳng tới tâm linh vũ trụ.

“Những bậc trí giả đã nhận biết rằng thế giới này chỉ là phiên bản của thiên đường. Sự hiện hữu của thế giới này chỉ là bằng cớ bảo đảm rằng có một thế giới toàn mỹ. Thượng Đế tạo dựng ra muôn loài để con người thông qua thế giới vật chất mà nghiệm được những định luật của thế giới tâm linh. Khi ta nói thông qua hành động là hàm ý như thế đấy”.

“Cháu có cần phải hiểu phiến ngọc đó không?” Cậu hỏi.

“Có thể cần. Nếu như cậu làm việc trong phòng thí nghiệm của nhà luyện kim đan thì đó sẽ là cơ hội tốt để tìm ra cách hay nhất hiểu được phiến ngọc. Nhưng hiện cậu đang ở trên sa mạc. Hãy trầm tư suy nghĩ, rồi sa mạc sẽ chỉ cho cậu hiểu thế giới. Nói cho đúng thì mọi thứ trên mặt đất đều chỉ cho cậu được. Cậu không cần phải hiểu hết mọi điều về sa mạc mà chỉ cần nghiền ngẫm về một hạt cát thôi và cậu sẽ thấy trong đó mọi sự mầu nhiệm của công trình tạo hóa”

“Làm cách nào để cháu có thể thâm nhập vào thế giới của sa mạc?”

“Hãy lắng nghe trái tim mình. Nó biết hết mọi điều vì nó từ tâm linh vũ trụ mà ra và một ngày kia sẽ trở về đó”

43🐫

Họ lại lặng lẽ tiếp tục đi trong sa mạc hai ngày nữa. Nhà luyện kim đan càng lúc càng thận trọng hơn vì họ đang đến gần vùng giao tranh ác liệt nhất. Trong khi đi đường cậu thử lắng nghe tiếng nói của trái tim mình.

Quả tim cậu không phải lúc nào cũng ngoan ngoãn: trước kia nó quen được đi hoài đi mãi, bây giờ nó chỉ muốn mau đến đích. Có lúc trái tim cậu kể lể hàng giờ liền về nỗi nhớ nhung của nó; lúc khác nó lại xúc động trước cảnh mặt trời mọc trên sa mạc đến nỗi làm cậu phải khóc thầm. Tim cậu đập nhanh khi nó kể về kho báu, đập chậm hẳn khi cậu mơ màng lặng nhìn chân trời vô tận trên sa mạc. Nhưng nó không bao giờ câm nín, kể cả khi cậu và nhà luyện kim đan không nói với nhau một lời nào.

“Tại sao ta phải lắng nghe trái tim mình nhỉ?” Cậu hỏi khi hai người dừng lại nghỉ đêm

“Bởi vì trái tim cậu ở đâu thì kho báu cậu tìm cũng ở đó”

“Nhưng mà tim cháu rạo rực”, cậu đáp. “Nó mơ, nó xúc động và nó say mê một cô gái sa mạc. Nó đòi hỏi cháu đủ chuyện, khiến nhiều đêm cháu không ngủ được khi nghĩ đến nàng”.

“Tốt lắm. Như thế là tim cậu đang sống hết mình. Hãy lắng nghe những gì nó nói”

Ba ngày tiếp theo hai người gặp một số chiến binh có vũ trang và thấy một số khác đàng xa phía chân trời. Tim cậu bắt đầu nói về nỗi lo sợ. Nó kể chuyện nghe được từ tâm linh vũ trụ về những người đi tìm mà không hề thấy kho báu. Đôi khi nó khiến cậu hoảng sợ khi nghĩ rằng có thể mình không tìm thấy kho tàng hoặc sẽ chết trong sa mạc. Lúc khác cái trái tim kia lại bảo cậu rằng nó hài lòng lắm vì nó đã tìm thấy tình yêu và nhiều đồng tiền vàng rồi.

“Trái tim cháu giở chứng rồi”, cậu nói với nhà luyện kim đan khi họ dừng lại cho ngựa nghỉ. “Nó không muốn cháu đi tiếp nữa”.

“Điều đó đúng thôi”, ông đáp. “Đó là bằng cớ cho thấy rằng trái tim cậu rất sống động. Đương nhiên ai mà chẳng sợ khi đem tất cả gì mình có được ra đổi lấy một giấc mơ”.

“Thế thì tại sao cháu phải lắng nghe nó chứ?”

“Vì cậu chẳng bao giờ bắt nó im lặng được nữa. Ngay cả khi cậu làm như không thèm nghe nó nói thì nó vẫn luôn luôn ở trong con người cậu, nhắc đi nhắc lại những điều cậu nghĩ về cuộc đời và thế giới”.

“Ngay cả khi nó lừa cháu hay sao?”

“Bị lừa bịp cũng giống như bị một cú đánh bất ngờ thôi. Nhưng nếu cậu hiểu rõ trái tim mình thì sẽ không xảy ra điều gì bất trắc đâu, vì cậu biết rõ nó mơ ước gì và biết phải ứng xử thế nào. Không ai trốn tránh được trái tim mình; thành ra nên lắng nghe nó nói là hay hơn cả. Như thế cậu sẽ không bao giờ bị đánh bất ngờ”.

Cậu tiếp tục lắng nghe trái tim mình trên đường qua sa mạc, hiểu dần những mẹo vặt của nó và chấp nhận nó là như thế. Cậu thôi không lo sợ nữa, cũng không còn muốn quay về ốc đảo, vì một xế trưa nọ tim cậu bảo rằng nó mãn nguyện rồi.

“Dù đôi lúc tôi có phàn nàn”, nó nói, “thì cũng chỉ bởi vì tôi là trái tim người, mà tim người đều thế cả. Người ta sợ theo đuổi một giấc mơ vĩ đại vì cảm thấy không xứng đáng được hưởng hoặc sẽ không thể nào đạt nổi. Chỉ cần nghĩ rằng những người thân yêu nhất của mình sẽ ra đi vĩnh viễn, rằng những khoảnh khắc lẽ ra tươi đẹp mà rốt cuộc lại chẳng tươi đẹp tí nào, rằng có những kho tàng lẽ ra tìm được mà lại mãi mãi chôn vùi trong cát, là chúng tôi – trái tim con người - đủ kinh hoàng rồi. Khi những điều này xảy ra thật thì chúng tôi đau khổ lắm.”

“Trái tim cháu sợ sẽ phải đau khổ”, cậu đã nói với nhà luyện kim đan như thế vào một đêm hai người nhìn lên bầu trời không trăng.

“Hãy bảo nó rằng sợ phải đau khổ còn đau đớn hơn là chính sự đau khổ, và chưa từng có trái tim nào phải chịu đau khổ khi tìm cách thực hiện giấc mơ, vì mỗi phút giây tìm kiếm là một khoảnh khắc gặp gỡ Thượng Đế và sự vĩnh hằng”.

“Mỗi phút giây tìm kiếm là một khoảnh khắc gặp gỡ Thượng Đế”, cậu nói với trái tim mình. “Khi ta thành tâm đi tìm kho tàng thì mỗi một ngày đều chan hòa niềm vui, vì mỗi một giờ qua đi đều sẽ đem ta gần lại kho tàng hơn. Khi thành tâm đi tìm kho tàng, ta phát hiện trên đường nhiều điều mà ta sẽ không bao giờ thấy được nếu ta không đủ can đảm thử làm những việc xem ra một kẻ chăn cừu không thể làm nổi”.

Thế là trái tim cậu thanh thản được suốt buổi xế trưa. Đêm ấy cậu ngủ ngon giấc và khi thức dậy trái tim kể cho cậu về tâm linh vũ trụ, rằng kẻ nào hạnh phúc cũng đều có Thượng Đế trong lòng và có thể tìm thấy hạnh phúc trong từng hạt cát sa mạc như nhà luyện kim đan đã nói, vì hạt cát là một khoảnh khắc của sự sáng chế mà vũ trụ cần hàng triệu năm để tạo ra nó.

“Ai ai trên trái đất cũng đều có một kho báu chờ đợi mình”, trái tim nói. “Chúng tôi, trái tim loài người, ít khi nói về những kho báu này vì người ta không còn muốn đi tìm chúng nữa. Chúng tôi chỉ nói về chúng tôi với trẻ con thôi. Rồi chúng tôi để cuộc đời đi theo số mệnh. Song tiếc thay rất ít người đi theo con đường tiền định, con đường dẫn đến vận mệnh của họ, dẫn đến hạnh phúc. Phần lớn người ta nhìn thế giới như một nơi đầy đe dọa, chính vì thế mà thế giới trở thành nơi đe dọa thật.

“Bởi thế mà chúng tôi, trái tim người, càng ngày càng nói khẽ hơn. Chúng tôi không im hẳn nhưng mong rằng người ta không nghe thấy, vì chúng tôi không muốn người ta phải đau khổ do không nghe lời trái tim mình”.

“Tại sao trái tim người không giục giã họ theo đuổi ước mơ?” Cậu hỏi nhà luyện kim đan.

“Vì như thế thì trái tim sẽ đau khổ vô cùng mà chúng lại không muốn đau khổ”

Từ đó cậu hiểu trái tim mình. Cậu yêu cầu nó đừng bao giờ ngừng trò chuyện với mình và khi nào cậu đi chệch khỏi ước mơ thì nó phải co thắt lại để cảnh báo cậu. Cậu thề sẽ nghe theo mỗi khi được cảnh báo.

Đêm hôm ấy cậu kể hết những điều này cho người luyện kim đan nghe. Ông hiểu trái tim cậu đã hướng về tâm linh vũ trụ.

“Cháu phải làm gì bây giờ?” Cậu hỏi

“Đi tiếp về hướng Kim Tự Tháp”, ông đáp. “Và tiếp tục lưu ý đến các dấu hiệu. Tim cậu đã sẵn sàng chỉ cho cậu chỗ chôn kho báu rồi đấy”.

“Có phải đó là điều cháu cần biết nữa không?”

“Không”, ông đáp. “Điều cậu cần biết nữa là như thế này: trước khi cậu đạt được ước mơ thì tâm linh vũ trụ sẽ thử thách mọi điều cậu học được trên đường đi. Tâm linh vũ trụ làm thế không phải vì ác ý mà vì muốn khi đạt được ước mơ chúng ta đồng thời cũng nắm vững những bài học đã lĩnh hội khi đi theo ước mơ. Đó chính là thời điểm mà đa số bỏ cuộc, nói theo ngôn ngữ sa mạc là “chết khát vào đúng cây chà là xuất hiện ở chân trời”.

Mọi cuộc tìm tòi đều khởi đầu như câu “thánh nhân đãi kẻ khù khờ” và kết thúc với sự thử thách gay go kẻ chiến thắng”.

Cậu nhớ đến một câu châm ngôn của đất nước mình, nói rằng giờ tối nhất trong đêm lại chính là ngạy trước lúc rạng đông.

44🐫

Ngày hôm sau có dấu hiệu báo nguy đầu tiên. Ba chiến binh tiến lại gần hỏi hai người làm gì ở đấy.

“Tôi đem chim ưng đi săn”, nhà luyện kim đan đáp.

“Chúng tôi phải khám xem hai người có vũ trang không”, một chiến binh nói.

Nhà luyện kim đan chậm rãi xuống ngựa. Cậu cũng xuống theo.

“Anh đem theo nhiều tiền thế này để làm gì?”, một người lính hỏi cậu trong lúc khám cái bị

“Tôi cần tiền để đi đến Kim Tự Tháp”, cậu đáp.

Người chiến binh khám nhà luyện kim đan tìm thấy một bình pha lê nhỏ đựng một chất lỏng và một quả trứng bằng thủy tinh màu vàng, nhỉnh hơn quả trứng gà.

“Cái gì thế này?” Hắn hỏi.

“Đó là viên Đá tạo vàng và Thuốc trường sinh. Công trình của các nhà luyện kim đan đấy. Ai uống thuốc này thì sẽ không bao giờ ốm đau nữa và một mảnh vụn của viên đá có thể biến mọi thứ kim loại thành vàng”.

Các chiến binh Arập cười ngất vì thấy câu trả lời quá khôi hài; nhà luyện kim đan cũng cười theo. Rồi họ cho phép hai người được giữ tất cả hành lí tiếp tục cuộc hành trình.

“Ông điên à?” Cậu hỏi nhà luyện kim đan sau khi đi được một quãng.

“Sao ông lại trả lời thế?”

“Để chỉ cho cậu một bài học đơn giản ở đời”, ông đáp. “Đó là: kho tàng sờ sờ ngay trước mắt mà ta không hề biết. Vì sao? Vì con người không tin rằng có kho tàng thật”.

Họ lại tiếp tục đi. Mỗi một ngày qua là một ngày trái tim cậu thanh thản hơn. Nó không đòi được biết về quá khứ hoặc tương lai nữa, mà thỏa mãn với việc để hết tâm trí ngắm nhìn sa mạc và cùng với cậu cà kê về tâm linh vũ trụ. Cậu với trái tim trở thành bạn thân và không bên nào nỡ lừa dối bên nào nữa.

Mỗi khi trái tim trò chuyện với cậu là để kích thích, thêm sức cho cậu vì những ngày dài thầm lặng trong sa mạc khiến cậu mệt mỏi. Nó cho cậu biết về chỗ mạnh của cậu: đã dũng cảm xa rời bầy cừu để đi theo vận mệnh và làm việc hết mình ở cửa hàng pha lê.

Nó còn cho cậu biết thêm những chuyện mà cậu chưa hề quan tâm: về những lần cậu thoát hiểm mà không biết. Trái tim cậu bảo rằng có một lần nó đã giấu khẩu súng cậu lén lấy của ông bố vì e cậu có thể tự gây thương tật. Nó nhắc cậu nhớ lại cái ngày cậu bị bệnh, ói mửa ngay giữa đồng trống rồi ngủ thiếp đi. Cách đó không xa hai tên cướp đường chờ sẵn, định bụng hễ cậu tới là chúng sẽ cướp bầy cừu rồi giết cậu. Nhưng chờ mãi không thấy cậu tới chúng bèn bỏ đi vì nghĩ rằng cậu đã chọn đường khác rồi.

“Lúc nào trái tim cũng giúp mình sao?” Cậu hỏi nhà luyện kim đan.

“Chỉ những trái tim của những người muốn đi theo vận mệnh của mình thôi. Nhưng chúng cũng giúp đỡ trẻ em, người già và cả người say nữa”.

“Thế nghĩa là cháu sẽ không bao giờ gặp nguy hiểm sao?”

“Thế chỉ có nghĩa là trái tim làm tất cả những gì nó có thể làm được thôi”, nhà luyện kim đan đáp.

Một buổi xế trưa họ đi ngang khu lều trại của một bộ tộc tham chiến. Ở mỗi góc trại đều có những người lính vũ trang choàng áo màu trắng trông rất đẹp. Họ ngồi hút Nargileh và bàn tán về chiến trận. Chẳng ai buồn để ý đến cậu và nhà luyện kim đan cả.

“Chẳng có gì nguy hiểm”, cậu nói sau khi họ đã đi qua khu lều được một quãng.

Nhà luyện kim đan nổi giận: “Hãy tin tưởng ở trái tim mình nhưng đừng bao giờ quên rằng mình hiện đang ở sa mạc. Khi xảy ra đánh nhau thì ngay cả tâm linh vũ trụ cũng còn nghe tiếng thét trên trận địa và không ai tránh được hết những hậu quả của mọi chuyện xảy ra dưới bầu trời này”.

“Tất cả đều là một”, cậu nghĩ.

Rồi, như thể sa mạc muốn chứng minh rằng nhà luyện kim đan nói đúng, hai kị sĩ xuất hiện phía sau họ.

“Mấy người không thể đi tiếp được nữa”, một kị sĩ nói. “Mấy người đang ở trong vùng có giao tranh”.

“Tôi không đi xa đâu”, nhà luyện kim đan đáp, nhìn thẳng vào mắt các kị sĩ.

Họ lặng thinh một lúc rồi đồng ý để hai người đi tiếp. Cậu hào hứng theo dõi cuộc đối thoại.

“Ông chế ngự được họ chỉ bằng cái nhìn!” Cậu thán phục.

“Đôi mắt cho thấy sức mạnh của tâm hồn”, ông đáp.

“Đúng vậy”, cậu thầm nghĩ.

Cậu vừa nhận thấy ở khu lều kia một trong số những người vũ trang nhìn chòng chọc theo họ. Vì khoảng cách quá xa nên cậu không nhìn được rõ mặt hắn song cậu chắc chắn hắn đang nhìn họ. Sau khi đã vượt qua rặng núi trải dài theo chân trời nhà luyện kim đan mới nói rằng chỉ còn hai ngày nữa thôi là đến Kim Tự Tháp.

“Nếu chúng ta sắp phải chia tay đến nơi thì ông hãy dạy cháu thuật luyện kim đan đi”, cậu nói.

“Cậu đã nắm vững thuật ấy rồi mà. Đó là: nhập vào tâm linh vũ trụ và phát hiện kho báu dành riêng cho mình”.

“Cháu không nói đến chuyện ấy; chuyện luyện chì thành vàng cơ”.

Nhà luyện kim đan chợt lặng im như sa mạc và chỉ trả lời cậu sau khi họ dừng lại để dùng bữa.

“Mọi sự trong vũ trụ đều tiến hóa”, ông nói. “Với bậc hiền giả thì vàng là thứ kim loại tiến hóa đến mức cao nhất. Đừng hỏi tại sao vì ta không biết thuật. Ta chỉ biết truyền thống luôn luôn đúng. Chỉ vì người ta không hiểu lời bậc hiền giả. Cho nên vàng, thay vì là biểu tượng của tiến hóa, trở thành nguyên nhân gây ra xung đột”.

“Sự vật tự biểu lộ bằng nhiều thứ ngôn ngữ”, cậu ngắt lời ông. “Chẳng hạn có một lúc đối với cháu tiếng lạc đà kêu không là gì khác hơn tiếng lạc đà kêu cả, rồi thì nó trở thành dấu hiệu của sự nguy hiểm, sau đó lại chỉ là tiếng kêu như trước”.

Cậu không nói tiếp nữa; có lẽ nhà luyện kim đan đã biết cả rồi.

“Ta biết những nhà luyện kim đan chân chính”, ông nói tiếp. “Họ tự giam mình trong phòng thí nghiệm, cố gắng để tiến hóa, giống như vàng. Họ tìm ra được loại “Đá tạo vàng” vì họ hiểu rằng khi một vật tiến hóa thì mọi vật quanh nó cũng tiến hóa theo.

Người khác tìm ra “Đá tạo vàng” do tình cờ; họ vốn có tài sẵn và tâm hồn họ lĩnh hội nhanh hơn kẻ khác. Số người này hiếm chứ không nhiều đâu.

Rồi có những kẻ chỉ quan tâm đến vàng thôi. Họ chẳng bao giờ tìm ra được điều bí mật cả vì họ quên rằng chì, đồng, sắt cũng phải đi trọn con đường tiền định của chúng. Thanh ra ai mà can thiệp vào vận mệnh của sự vật khác sẽ không bao giờ phát hiện được chính vận mệnh của mình”.

Những lời này vang lên như một lời nguyền.

Ông cúi nhặt một vỏ sò trên mặt cát: “Sa mạc này xưa kia là biển”.

“Cháu cũng nhận thấy thế”, cậu đáp.

Nhà luyện kim đan bảo cậu úp vỏ sò vào tai. Hồi nhỏ cậu đã từng nhiều lần làm như thế và được nghe tiếng của biển.

“Biển sống trong vỏ sò này vì số phận của nó là như vậy. Nó sẽ không bao giờ rời khỏi vỏ sò cho đến khi sa mạc được phủ đầy nước”.

Họ lên ngựa, đi về hướng Kim Tự Tháp Ai Cập. Khi trái tim cậu lên tiếng báo nguy thì mặt trời đang lặn. Họ đang đứng giữa những đồi cát khổng lồ. Cậu nhìn nhà luyện kim đan xem ông có cảm thấy điều gì không, song xem ra ông không hề biết có hiểm nguy. Năm phút sau cậu thấy có hai kị sĩ đợi họ phía trước, bóng màu sẫm in trên nền trời. Cậu chưa kịp nói gì với nhà luyện kim đan thì từ hai kị sĩ giờ đã thành mười, rồi thành trăm, rồi thì trùng điệp khắp đồi cát.

Các chiến binh này khoác áo màu xanh, chít vòng màu đen quanh khăn xếp. Khăn che mặt cũng màu xanh, chỉ để hở đôi mắt. Tuy xa nhưng vẫn thấy được mắt họ toát ra sức mạnh và chết chóc.

45🐫

Họ dẫn hai người đến một doanh trại gần đó. Một người lính đẩy cậu và nhà luyện kim đan vào một cái lều trông khác những lều cậu từng biết ở ốc đảo. Trong lều người chỉ huy đang họp bàn với ban tham mưu.

“Bọn này là gián điệp”, một người nói

“Chúng tôi chỉ là khách lữ hành thôi”, nhà luyện kim đan đáp.

“Ba ngày trước có kẻ trông thấy bọn mi ở khu trại địch, trò chuyện với một tay lính ở đó”.

“Tôi chỉ là một người vượt sa mạc và biết xem sao trời tìm phương hướng”, ông đáp. “Tôi chẳng biết gì về các đạo quân hay sự chuyển quân của các bộ tộc. Tôi chỉ làm người dẫn đường cho bạn tôi đây thôi”.

“Ai là bạn mi?” Viên chỉ huy hỏi.

“Một nhà luyện kim đan”, ông đáp. “Anh ta hiểu được sức mạnh của thiên nhiên và muốn biểu dương cho mấy người thấy năng lực phi thường của mình”.

Cậu im lặng lắng nghe mà lòng đầy sợ hãi.

“Gã ngoại quốc này đến đây với ý đồ gì?” Một người khác hỏi.

“Anh ta mang tiền đến tặng bộ tộc của mấy người”, nhà luyện kim đan đáp trước khi cậu kịp mở miệng.

Rồi ông ta chụp cái bị của cậu, lấy số tiền vàng đưa cho viên chỉ huy. Viên chỉ huy Arập này cầm lấy tiền song không nói một lời. Đủ để hắn mua nhiều súng ống.

“Nhà luyện kim đan là nhà gì?” Hắn muốn biết

“Là một người hiểu được thiên nhiên và thế giới. Nếu muốn, anh ta có thể chỉ dùng sức gió mà tàn phá được doanh trại này”.

Đám người kia phá lên cười. Họ còn lạ gì sự tàn phá của chiến tranh và biết rằng gió không thể nào giết nổi ai. Tuy vậy tim họ vẫn thót lại. Vì là người sa mạc nên họ vẫn sợ các thầy phù thủy.

“Tôi muốn được tận mắt thấy gã làm chuyện đó”, viên chỉ huy nói.

“Anh ta cần ba ngày”, nhà luyện kim đan đáp. “Anh ta sẽ biến thành gió để chứng tỏ năng lực của mình. Nếu như anh ta không làm được thì chúng tôi xin cúi đầu dâng mạng sống cho bộ tộc các người”.

“Bọn mi không thể dâng cái đã nằm sẵn trong tay ta”, viên chỉ huy khinh miệt đáp, tuy nhiên hắn vẫn đồng ý cho họ thời hạn ba ngày.

Cậu hoảng vía như bị tê liệt, khiến nhà luyện kim đan phải nắm tay dìu cậu ra khỏi lều.

“Đừng để họ thấy cậu sợ”, ông nói. “Bọn họ là những kẻ dũng cảm nên rất khinh những ai hèn nhát”.

Nhưng cậu không thốt nên lời. Mãi sau khi đã đi lại một lúc trong khu trại cậu mới mở miệng nổi. Những người Arập thấy không cần giam giữ họ mà chỉ cần tịch thu ngựa là đủ. Thế là một lần nữa thế giới lại cho thấy ngôn ngữ đa dạng của nó: mới đó là sa mạc còn là mênh mông, thoắt giờ đây đã thành một bức tường không vượt qua nổi.

“Ông đã đưa cho họ hết mọi của cải mà cháu đã suốt đời dành dụm”, cậu tức giận nói.

“Ừ, nhưng cậu cần chúng làm gì nữa nếu sắp phải chết?” Nhà luyện kim đan đáp. “Tiền của cậu cho chúng ta sống thêm ba ngày nữa. Không phải lúc nào tiền cũng cứu được mạng người đâu”.

Nhưng vì cậu quá sợ nên không thể nghe lọt tai những lời sáng suốt kia. Cậu không biết phải biến thành gió như thế nào vì cậu có phải nhà luyện kim đan đâu.

Nhà luyện kim đan xin một người lính chút ít trà, rưới lên cổ tay cậu, miệng lẩm bẩm những lời cậu không hiểu, song cậu thấy trong lòng tràn dâng cảm giác yên bình.

“Đừng để nỗi sợ áp chế mình”, giọng ông dịu dàng khác thường. “Bằng không cậu không thể trò chuyện với tim mình được đâu”.

“Nhưng cháu không biết phải biến thành gió như thế nào”.

“Người nào sống trọn đường đời của mình, người đó biết tất cả những gì cần biết. Chỉ có một điều khiến không thể nào đạt được ước mơ: đó là sợ rằng sẽ thất bại”.

“Cháu không sợ thất bại, mà chỉ không biết phải biến thành gió như thế nào thôi”.

“Thế thì cậu phải học. Mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào đó”

“Nếu cháu không làm được thì sao?”

“Thì cậu sẽ chết trong lúc cố sống theo vận mệnh mình. Như thế vẫn hay hơn là phải chết như hàng triệu người không hề biết vận mệnh họ là gì. Nhưng đừng lo”, nhà luyện kim đan nói tiếp. “Khi đứng ở ngưỡng cửa cõi chết người ta thường cảm nhận sâu sắc hơn về cuộc sống”.

Ngày đầu tiên trôi qua. Một trận đánh lớn diễn ra gần đó và nhiều người bị thương được đưa về khu trại. Những người tử trận được thay bằng lính mới và dòng đời vẫn tiếp tục.

“Cái chết chẳng làm thay đổi gì hết”, cậu nghĩ.

“Làm gì mà chết vội thế”, một người lính nói với cái xác của bạn gã. “Đợi thanh bình rồi chết cũng được cơ mà. Nhưng mà trước sau gì thì bạn cũng chết thôi”.

Chiều tối cậu đi tìm nhà luyện kim đan. Ông đang định đưa chim ưng đi săn.

“Cháu vẫn chưa biết phải biến thành gió như thế nào” …

“Hãy nhớ lại những gì ta đã nói: thế giới chỉ là phần thấy được của Thượng Đế. Thuật luyện kim đan có nhiệm vụ chuyển sự toàn mĩ của tâm linh sang thế giới vật chất”.

“Ông làm gì bây giờ?”

“Nếu cháu không biến nổi thành gió thì cả ba chúng ta đều sẽ phải chết”, cậu nói. “Cho nó ăn làm gì nữa”.

“Chỉ có cậu sẽ chết thôi”, nhà luyện kim đan đáp. “Còn ta biết phải biến thành gió như thế nào chứ”.

46🐫

Ngày thứ hai cậu leo lên đỉnh một khối đá gần khu trại. Lính gác để cậu đi; họ đã nghe nói về một phù thủy có khả năng biến thành gió nên không muốn đến gần cậu. Hơn nữa sa mạc như một bức tường thành không thể vượt nổi. Cậu ngồi đó mãi cho đến chiều, nhìn ra sa mạc và lắng nghe trái tim mình. Cả sa mạc cũng lắng nghe nỗi sợ của cậu. Trái tim cậu và sa mạc vốn nói cùng một thứ ngôn ngữ.

47🐫

Sang ngày thứ ba viên chỉ huy triệu tập các sĩ quan của mình.

Hắn gọi nhà luyện kim đan đến rồi nói: “Chúng ta ra xem gã kia biến thành gió như thế nào”.

“Rồi khắc biết”, nhà luyện kim đan đáp.

Cậu dẫn họ đến khối đá hôm qua, yêu cầu mọi người ngồi đó.

“Phải đợi khá lâu đấy”, cậu nói.

“Đâu có gì vội”, viên chỉ huy đáp. “Chúng ta là dân sa mạc mà”.

48🐫

Cậu nhìn quanh mình. Xa xa phía chân trời kia là núi, đồi cát, đá tảng và các bụi cây leo. Ở một nơi như không thể nào có nổi sự sống mà cây cỏ vẫn cố bám vào đó để sống. Sa mạc này cậu đã đi qua nhiều tháng ròng, thế mà chỉ biết có một phần rất nhỏ của nó. Trong thời gian này cậu đã gặp một người Anh, thấy nhiều đoàn lữ hành, một ốc đảo với năm chục nghìn cây chà là và ba trăm giếng nước; cậu cũng đã chứng kiến cuộc xung đột giữa các bộ tộc.

“Sao bữa nay bạn còn đến đây?” Sa mạc hỏi cậu.

“Hôm qua chẳng lẽ mình nhìn nhau chưa đủ à?”

“Bạn giữ người tôi yêu ở một nơi nào đó”, cậu đáp. “Cho nên nhìn ngắm biển cát trải dài vô tận của bạn cũng là ngắm nhìn nàng. Tôi muốn quay về với nàng nên cần bạn giúp tôi biến thành gió”.

“Yêu nghĩa là gì?” Sa mạc hỏi

“Yêu giống như khi chim ưng bay trên biển cát của bạn. Bởi vì đối với chim thì bạn là một cánh đồng xanh màu mỡ và nó chẳng bao giờ quay về mà không săn được gì. Nó rành rẽ các tảng đá, các đồi cát, núi non của bạn, còn bạn thì hào phóng đối với nó”.

“Nó cướp đoạt của tôi thì có”, sa mạc đáp. “Tôi nuôi những con mồi của nó nhiều năm ròng, cho chúng uống số nước ít ỏi tôi có được rồi tôi lại chỉ cho nó con mồi ở đâu. Một ngày kia, khi tôi đang vui sướng thấy con mồi của nó chập chững đi trên bãi cát của tôi thì nó từ trên bầu trời cao bổ xuống, cướp đi công trình tôi đã nuôi”.

“Nhưng bạn nuôi những con mồi cũng chính vì mục đích ấy thôi”, cậu đáp. “Để nuôi chim ưng, rồi chim ưng nuôi người. Và cuối cùng, đến một ngày nào đó con người nuôi lại bãi cát của bạn để các con mồi lại lớn lên. Đó chính là sự vận động của vũ trụ.”

“Yêu là thế à?”

“Phải, yêu là thế đấy. Nó biến con mồi thành chim ưng, chim ưng thành người, rồi đến lượt người biến thành sa mạc. Nó biến chì thành vàng rồi đưa vàng trở về với lòng đất”.

“Tôi chẳng hiểu bạn nói gì cả”, sa mạc nói.

“Nhưng ít ra bạn cũng hiểu được rằng ở một nơi nào đó giữa các đồi cát của bạn có một cô gái đang mong đợi tôi. Chính vì thế mà tôi phải biến thành gió”.

Sa mạc làm thinh một lúc rồi mới nói với cậu: “Tôi sẽ cho bạn cát để gió thổi, nhưng một mình tôi thì chẳng làm gì được đâu. Bạn phải yêu cầu gió mới giúp được”.

Một làn gió nhè nhẹ nổi lên. Những người Arập quay nhìn cậu; họ không hiểu thứ tiếng cậu nói đó.

Nhà luyện kim đan mỉm cười.

Gió mơn man khuôn mặt cậu. Nó nghe được những gì cậu nói với sa mạc, vì gió biết hết mọi chuyện. Nó đi khắp thế giới nhưng không có chỗ nào là khởi điểm, cũng không có nơi nào để gió dừng lại vĩnh viễn.

“Giúp tôi với”, cậu nói. “Mới gần đây bạn đã đem đến cho tôi giọng nói của người tôi yêu”.

“Ai dạy bạn nói tiếng nói của sa mạc và gió?”

“Trái tim tôi đấy”, cậu đáp.

Gió có rất nhiều tên. Ở vùng này người Arập gọi nó là Sirocco và tin rằng nó mang hơi ẩm từ vùng đất ngập nước, nơi cư trú của người da đen; ở vùng đất xa xôi quê hương của cậu người ta gọi nó là Lavante, vì cho rằng nó mang theo cát sa mạc và tiếng thét xung trận của người Mauren; còn ở những vùng xa nữa, phía sau những đồng cỏ cậu vẫn thả cừu, thì người ta cho rằng gió đến từ Andalusia. Nhưng đúng ra gió chẳng đến từ một nơi nào cả, cũng chẳng đi đâu hết; vì thế mà nó mạnh hơn cả sa mạc. Một ngày nào đó có thể sẽ có người trồng được cây trên sa mạc, thậm chí nuôi được cừu ở đó nữa, nhưng sẽ không ai khống chế được gió.

“Bạn không thể thành gió được, vì thể chất chúng mình khác nhau hoàn toàn”, gió nói.

“Không đúng”, cậu đáp. “Trên đường đi, tôi đã học được những bí mật của thuật luyện kim đan. Trong người tôi tập hợp đủ cả gió, sa mạc, đại dương, sao trời và mọi thứ trong vũ trụ. Chúng ta đều cùng do một bàn tay tạo ra và có cùng một linh hồn. Tôi muốn được như bạn, có thể đến khắp mọi ngóc ngách, vượt biển cả, thổi bay lớp cát che phủ kho báu của tôi và đem đến đây tiếng nói của người con gái tôi yêu”.

“Mấy hôm trước tôi có nghe bạn trò chuyện với nhà luyện kim đan”, gió nói. “Ông bảo mỗi sự vật đều có vận mệnh riêng. Con người không thể biến thành gió được”.

“Bạn hãy dạy tôi cách biến thành gió một vài khoảnh khắc thôi; như thế bạn và tôi có thể chuyện trò và khả năng vô hạn của người và gió”, cậu nói.

Gió thêm hiếu kì; đó là điều chưa từng có. Nó muốn chuyện trò tiếp về những chuyện ấy nhưng không biết phải biến người thành gió ra sao. Thế mà nó vốn làm được khối chuyện cơ đấy! Tạo nên sa mạc này, đánh chìm tàu này, đốn ngã biết bao khu rừng này, thổi qua các thành phố lớn đầy âm nhạc và những âm thanh lạ này. Nó nghĩ rằng mình làm được hết rồi, thế mà một gã trai bảo rằng vẫn còn bao chuyện khác nữa gió có thể làm được.

“Cái đó gọi là tình yêu”, cậu nói khi thấy gió sắp xiêu lòng. “Khi yêu, người ta có thể tạo dựng nên tất cả. Khi yêu thì không cần phải hiểu chuyện gì đang xảy ra vì mọi sự diễn ra trong chính mình. Khi yêu thì ngay cả người cũng có thể biến thành gió được. Tất nhiên phải được gió giúp sức”.

Gió vốn tự cao nên không hài lòng khi nghe cậu nói. Nó bèn thổi mạnh hơn làm cát bay mù. Nhưng rồi nó phải thừa nhận rằng tuy vẫn đi khắp thế giới thật nhưng cũng không biết làm thế nào để biến được người thành gió, và cũng chẳng biết gì về tình yêu cả.

“Trên đường vòng quanh thế giới tôi thường được nghe người ta nhìn lên trời, nói về tình yêu”, gió điên tiết nhìn nhận khả năng hạn chế của mình.

“Có lẽ bạn nên hỏi trời xanh kia xem sao”.

“Được, bạn hãy giúp tôi bằng cách tung đầy cát vào không khí, che khuất mặt trời để tôi nhìn thấy mặt trời mà không sợ mù mắt”, cậu đáp.

Gió bèn phùng má thổi. Một đám mây cát che kín bầu trời và mặt trời trông chỉ như cái đĩa vàng. Ở doanh trại người ta không nhìn thấy gì nữa cả. Những người dân sa mạc đã quá quen với thứ gió mà họ gọi là Samum này. Đối với họ thì nó còn ghê gớm hơn bão tố trên biển cả, dù họ không biết biển là gì. Ngựa hí vang, khí giới phủ đầy cát.

Trên mỏm khối đá, một viên sĩ quan quay sang nói với viên chỉ huy: “Có lẽ mình nên chấm dứt thôi!”

Họ không còn có thể nhìn thấy cậu nữa. Mặt họ che bằng khăn màu xanh chỉ để lộ những cặp mắt kinh hoàng.

“Chấm dứt thôi”, một người khác nói.

“Tôi muốn được chứng kiến sự vĩ đại của Allah”, giọng viên chỉ huy đầy thành kính. “Tôi muốn được thấy người biến thành gió như thế nào”.

Nhưng hắn ghi nhớ tên hai người vừa tỏ ra sợ hãi kia. Khi lặng gió hắn sẽ cách chức họ vì đàn ông sa mạc không được phép biết sợ là gì.

“Gió bảo tôi rằng bạn biết về tình yêu”, cậu nói với mặt trời. “Nếu đúng thế thì bạn cũng phải biết về tâm linh vũ trụ vốn được hình thành từ tình yêu”.

“Từ trên cao này”, mặt trời đáp, “tôi có thể trông thấy tâm linh vũ trụ. Chúng tôi vẫn cùng hợp lực làm cho cây cỏ lớn lên, khiến cừu biết tìm bóng mát. Từ chỗ này của tôi – xa mặt đất lắm nhé – tôi học được cách yêu. Tôi biết rằng chỉ cần mình xích lại gần mặt đất một chút xíu thôi cũng đủ khiến mọi vật bị hủy diệt và tâm linh vũ trụ cũng không tồn tại được nữa. Cho nên hai chúng tôi thân ái nhìn ngắm nhau; tôi cống hiến ánh sáng và hơi ấm còn nó cho tôi lẽ sống.”

“Vậy là bạn biết về tình yêu rồi”, cậu nói.

“Tôi biết rõ cả tâm linh vũ trụ vì chúng tôi trò chuyện cùng nhau rất nhiều suốt cuộc hành trình bất tận trong vũ trụ. Tâm linh vũ trụ bảo rằng khó khăn lớn nhất của nó là cho tới nay chỉ có thú vật và cây cỏ hiểu được tất cả là một, rằng thật ra sắt chẳng cần gì phải giống như đồng hay đồng giống như vàng. Mỗi loại cứ làm tròn nhiệm vụ của mình thì tất cả sẽ cùng làm thành một bản giao hưởng của hòa bình - nếu như bàn tay đã viết tất cả những điều này ngừng lại vào ngày sáng thế thứ năm. Nhưng mà còn ngày thứ sáu nữa”, mặt trời nói.

“Bạn sáng suốt lắm, bởi vì bạn quan sát sự vật từ xa”, cậu nói. “Nhưng bạn không biết về tình yêu. Nếu không có ngày thứ sáu thì sẽ không có con người, đồng sẽ mãi là đồng, chì chỉ là chì. Đúng là mọi thứ có vận mệnh của nó và sẽ có một ngày vận mệnh hoàn thành. Rồi mỗi sự vật chuyển hóa thành tốt hơn, mang vận mệnh mới cho đến khi tâm linh vũ trụ chỉ còn là một tổng thể duy nhất”.

Mặt trời trầm ngâm một lúc rồi chiếu sáng hơn nữa. Gió rất thú vị với cuộc trò chuyện nên ra sức thổi mạnh hơn để mặt trời khỏi làm mù mắt cậu.

“Chính vì thế mà có thuật luyện kim đan”, cậu nói. “Để rồi ai cũng mơ ước tìm kiếm kho báu của mình, rồi muốn được khá hơn kiếp trước. Chì sẽ giữ vai trò của nó cho đến khi thế giới không cần chì nữa, thế là chì sẽ phải biến thành vàng. Đó chính là việc của các nhà luyện kim đan. Họ cho thấy khi chúng ta ra sức tự hoàn thiện thì mọi sự vật quanh ta cũng hoàn mĩ theo”.

“Vậy tại sao bạn bảo tôi không biết về tình yêu?” Mặt trời hỏi cậu.

“Vì tình yêu không tĩnh tại như sa mạc, cũng không lang thang cùng khắp thế giới như gió, cũng không phải đứng từ xa nhìn sự vật như bạn vậy. Tình yêu là sức mạnh làm chuyển biến và nâng tâm linh vũ trụ lên cao hơn nữa. Lần đầu tiên, khi nhập vào tâm linh vũ trụ, tôi tưởng nó là tuyệt mĩ rồi. Về sau tôi mới biết nó là phản ảnh của tạo vật, nghĩa là cũng mang trong nó chiến tranh và đam mê. Chúng ta nuôi dưỡng tâm linh vũ trụ, và thế giới của chúng ta trở nên tốt hay xấu hơn tùy theo bản thân chúng ta tốt hay xấu hơn. Ở điểm này mới thấy được vai trò sức mạnh của tình yêu, vì khi yêu chúng ta cố trở nên tốt hơn”

“Bạn muốn gì ở tôi?” Mặt trời hỏi.

“Tôi muốn bạn giúp tôi biến thành gió”, cậu đáp

“Thiên nhiên công nhận tôi là tạo vật, sáng suốt nhất trong muôn loài”, mặt trời đáp.

“Nhưng tôi không biết cách biến bạn thành gió”.

“Vậy tôi phải hỏi ai?” Mặt trời ngẫm nghĩ một lúc.

Ngọn gió kia đang lắng nghe và nhất định sẽ đi rêu rao cùng khắp rằng khả năng của mặt trời cũng hạn chế thôi. Mặt trời không dễ thoát khỏi cái anh chàng nói thứ ngôn ngữ vũ trụ này.

“Bạn hãy hỏi bàn tay đã ghi chép lên mọi sự”, mặt trời đáp.

Gió reo mừng thổi mạnh hơn bao giờ hết, cuốn tung các mái lều, giật đứt dây ngựa buộc. Trên đỉnh tảng đá những người Arập ôm chặt lấy nhau để khỏi bị thổi bay đi. Cậu hướng lòng mình về cái bàn tay đã ghi chép mọi sự. Cậu cảm thấy vũ trụ nín lặng nên cũng nín lặng luôn.

Tình yêu trào dâng từ trái tim cậu; lần đầu tiên trong đời cậu lẩm nhẩm một bài kinh không lời, không có cầu xin. Cậu không cám ơn vì lũ cừu đã tìm ra đồng cỏ mượt, không cầu xin bán được nhiều hàng pha lê hơn nữa, hay cầu xin để người con gái cậu yêu chờ đợi cậu trở về. Trong sự yên ắng cậu hiểu rằng sa mạc, gió và mặt trời cũng đang cố hiểu những dấu hiệu được vẽ lên từ bàn tay nọ để tìm ra con đường của mình và để hiểu những gì đã khắc trên phiến ngọc. Cậu biết rằng những dấu hiệu này rải rác trên mặt đất và khắp vũ trụ; nhìn bề ngoài thì chúng chẳng cho thấy một ý nghĩa nào cả nên sa mạc, gió, mặt trời và con người không biết những dấu hiệu ấy được tạo ra để làm gì. Chỉ có bàn tay nọ biết căn nguyên của mọi điều và chỉ riêng nó làm được những phép lạ như thành gió. Bởi bàn tay đó thấu hiểu rằng có một lực siêu phàm đã xoay vần vũ trụ tới mức sáu ngày sáng thế chuyển hóa thành Công trình vĩ đại.

Cậu nhập vào tâm linh vũ trụ và nhận biết rằng nó là một phần linh hồn Hóa công và linh hồn Hóa công là linh hồn của chính cậu. Như thế tự cậu cũng có thể làm được phép lạ.

49🐫

Ngày hôm ấy ngọn gió Samum thổi dữ dội chưa từng thấy. Nhiều đời sau người Arập sẽ còn kể về huyền thoại một chàng trai đã không khiếp nhược trước viên chiến tướng sa mạc và đã hoá thành gió, phá hầu như tan hoang cả một doanh trại.

Khi lặng gió mọi người nhìn về phía cậu ngồi, nhưng cậu không còn ở chỗ cũ nữa mà đang đứng cạnh một người lính canh bị cát vùi lấp, tuốt phía bên kia doanh trại.

Mọi người khiếp đảm trước trò quỷ thuật này. Nhưng vẫn có hai người cười, đó là nhà luyện kim đan vì ông đã tìm ra được một học trò xuất sắc và viên chỉ huy, vì hắn đã được chứng kiến quyền năng tuyệt vời của Thượng Đế. Hôm sau, viên chỉ huy từ giã nhà luyện kim đan và cậu rồi cho một đoàn lính tháp tùng hai người tới bất kì nơi nào họ muốn.

50🐫

Sau khi đã đi suốt ngày, chiếu tối họ tới được một tu viện Côptic. Nhà luyện kim đan bảo đoàn tháp tùng quay về rồi xuống ngựa.

“Từ đây cậu có thể tự mình đi tiếp được rồi đấy”, ông nói. “Chỉ cần ba tiếng nữa là tới Kim Tự Tháp”.

“Cám ơn ông đã dạy cháu ngôn ngữ vũ trụ”, cậu đáp.

“Ta chỉ gợi cho cậu nhớ lại những gì cậu đã biết từ trước thôi”. Nhà luyện kim đan gõ cổng tu viện.

Một tu sĩ mặc toàn đen ra mở cửa. Họ nói với nhau mấy câu bằng tiếng Côptic rồi nhà luyện kim đan bảo cậu vào.

“Ta vừa mới yêu cầu tu sĩ nọ cho phép sử dụng cái bếp một lúc”, ông nói.

Họ đi vào bếp. Nhà luyện kim đan nhóm lửa còn tu sĩ nọ lo mang chì đến để nhà luyện kim đan nấy chảy trong một thùng sắt. Khi chì đã hóa lỏng, nhà luyện kim đan móc túi ra quả trứng lạ lùng bằng thủy tinh màu vàng. Ông cạo một chút, mảnh như sợi tóc, lấy sáp bọc lại rồi bỏ vào thùng.

Chất lỏng biến thành đỏ như máu. Rồi ông bưng thùng khỏi bếp, để nguội. Trong khi chờ đợi ông trò chuyện với người tu sĩ về cuộc xung đột giữa các bộ lạc.

“Sẽ còn kéo dài lâu”, ông nói.

Người tu sĩ tỏ vẻ bực dọc. Từ lâu nay các đoàn lữ hành đã phải nằm ở Gizeh chờ cuộc xung đột kết thúc.

“Nhưng rồi đâu cũng sẽ vào đấy, như ý Thượng Đế muốn cả thôi”, tu sĩ nói.

“Đúng thế”, nhà luyện kim đan đáp.

Khi thùng nguội, người tu sĩ và cậu nhìn vào mà kinh ngạc. Chì đã khô lại dưới đáy thùng hình tròn, song không phải là chì nữa mà là vàng.

“Một ngày nào đó cháu cũng sẽ làm được như vậy chứ?” Cậu hỏi.

“Đó là vận mệnh của ta chứ không phải của cậu”, nhà luyện kim đan đáp. “Ta làm chỉ để cho cậu thấy rằng có thể làm được”.

Rồi ông chia chỗ vàng đó làm bốn phần.

“Để cám ơn thầy”, ông nói và đưa tu sĩ một phần.

“Thế là quá nhiều so với những gì tôi đã làm”, tu sĩ nói.

“Thầy chớ nói thế nữa, kẻo Đời nghe thấy thì lần tới thầy sẽ được ít hơn đấy”.

Rồi ông quay sang cậu.

“Phần này để đền cậu số tiền đã trả cho viên tư lệnh”.

Cậu muốn nói rằng như thế là quá nhiều so với số tiền nọ song lại thôi, vì vừa được nghe những gì nhà luyện kim đan nói với người tu sĩ.

“Phần này tôi giữ”, ông nói và cất đi. “Vì tôi còn phải vượt sa mạc và vùng có chiến sự để về nhà”.

Phần thứ tư ông đưa cho tu sĩ “Phần này để phòng khi cậu nhỏ đây cần đến”.

“Nhưng mà cháu sắp tìm thấy kho báu rồi còn gì”, cậu đáp

“Ta tin rằng cậu sẽ tìm thấy”, nhà luyện kim đan nói

“Vậy phần cháu thêm làm gì nữa?”

“Vì cậu đã hai lần mất sạch: một lần bị gã lưu manh bịp, một lần trả thù cho viên chỉ huy nọ. Ta là một lão già Arập mê tín, tin vào châm ngôn nước mình. Châm ngôn đó như thế này: “Những gì đã xảy đến với anh một lần có thể không bao giờ xảy ra nữa; nhưng những gì đã xảy ra hai lần thì nhất định sẽ thêm lần thứ ba”.

Rồi họ lại lên ngựa.

51🐫

“Trước khi chia tay ta muốn kể cho cậu nghe một câu chuyện về giấc mơ”, nhà luyện kim đan nói.

Cậu bèn cho ngựa chạy sát lại gần.

“Ở La Mã cổ đại, vào thời hoàng đế Tiberius, có một ông già kia có hai người con trai. Một người con đi lính và phải đi đến những vùng đất xa xôi nhất của đế quốc. Người con kia là thi sĩ và cả La Mã yêu thích những bài thơ tuyệt vời của anh ta.

Một đêm kia ông bố nằm mộng thấy thiên thần hiện đến bảo rằng những câu nói của một trong hai người con ông được cả thế giới biết và được truyền tụng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người cha thức giấc, thầm cảm tạ Thượng Đế và khóc vì sung sướng bởi cuộc đời quá hào phóng đã cho ông biết những điều mà mọi người cha đều tự hào.

Không lâu sau đó ông chết vì muốn cứu một đứa trả khỏi bị xe ngựa cán. Vì ông sống ngay thẳng, đàng hoàng nên được lên ngay thiên đường. Ở đây ông gặp thiên thần báo mộng cho ông.

“Ông là một người tốt”, thiên thần nói. “Ông sống thương yêu người, ông chết vì làm việc phải. Do đó ta sẽ thỏa mãn bất cứ điều gì ông ước muốn”.

“Cuộc đời cũng đã rất ưu đãi tôi”, ông già đáp. “Ngày nọ, ngài đến với tôi trong giấc mơ thì tôi thấy mọi công lao của mình đã được đền bù vì thơ của con tôi sẽ còn được truyền tụng hàng trăm năm sau nữa. Cá nhân tôi không mong muốn gì cả, nhưng người cha nào chẳng tự hào về đứa con mình đã nuôi dạy. Thành ra tôi muốn rằng, trong một tương lai xa, được nghe những câu nói của con tôi”.

Thiên thần bèn vuốt vai ông và hai người bước vào tương lai xa. Cả nghìn người đứng quanh họ ở một quãng trường rộng lớn, nói với nhau bằng một thứ tiếng lạ.

Ông già khóc vì sung sướng “Tôi biết mà! Thơ của con tôi hay và trở thành bất tử mà”, ông xúc động nói với thiên thần.

“Tôi rất muốn biết người ta đọc bài thơ nào của nó ở chốn này”.

Thiên thần âu yếm nắm tay ông già rồi hai người cùng ngồi xuống một trong những ghế dài trên quãng trường.

“Thơ của con trai ông rất được yêu chuộng ở La Mã xưa”, thiên thần đáp. “Nhưng sau triều đại của Tiberius thì thơ của con ông cũng bị rơi vào lãng quên. Những lời mà người ta đang nói đây là của anh con trai đi lính cơ”.

Ông già sửng sốt nhìn thiên thần.

“Anh con trai đó phục vụ ở một nơi xa và lên đến chức tư lệnh. Anh ta cũng là một người tốt và chính trực. Một ngày nọ người hầu của anh ốm nằm chờ chết. Người con ông nghe nói có một tu sĩ Do Thái chữa được bệnh tật nên đi hết ngày này sang ngày khác để tìm tu sĩ đó. Trên đường đi anh được biết người mình tìm đó là con của Thượng Đế. Anh gặp những người đã được tu sĩ nọ chữa lành bệnh và họ dạy anh những điều tu sĩ kia đã truyền dạy. Rồi, tuy là một chiến binh La Mã, anh đã cải đạo. Không lâu sau đó anh gặp nhà tu sĩ. Anh kể ông nghe về bệnh tình của người hầu. Nhà tu sĩ tỏ ý sẵn sàng đi đến nhà anh. Nhưng con trai ông là một người một đạo nên khi nhìn vào mặt nhà tu sĩ anh biết chính đó là con Thượng Đế. Và đây là những lời con trai ông lúc ấy đã nói với tu sĩ và sẽ đời đời được truyền tụng:

“Lạy Chúa, con không xứng đáng để được đón Người vào nhà. Xin Chúa hãy phán truyền cho một tiếng thì kẻ đầy tớ của con sẽ khỏi bệnh ngay.”

“Bất kể giàu hay nghèo, sang hay hèn, ai cũng đều có một vai trò chính trong lịch sử thế giới. Có điều phần nhiều người ta không biết đó thôi”, nhà luyện kim đan nói rồi thúc ngựa đi.

Cậu mỉm cười. Làm sao cậu ngờ được rằng cuộc đời một kẻ chăn cừu lại có thể được xem là quan trọng nhường ấy.

“Vĩnh biệt!” Nhà luyện kim đan nói.

“Vĩnh biệt!” Cậu đáp.

52🐫

Cậu đi suốt hai tiếng rưỡi trên sa mạc, cố lắng nghe trái tim mình, vì nó sẽ cho cậu biết chính xác kho tàng chôn giấu chỗ nào.

“Kho tàng của cậu ở đâu thì trái tim cậu cũng ở đó”, nhà luyện kim đan đã bảo cậu thế.

Nhưng tim cậu lại nói về những chuyện khác. Nó hãnh diện kể về một gã chăn cừu đã rời bỏ đàn cừu của mình để theo một giấc mộng mà gã đã mơ thấy hai lần. Nó nói về vận mệnh và về những người cũng đã từng lên đường đi tìm những vùng đất xa xôi và đàn bà đẹp, đương đầu với những người đương thời cùng những thế giới quan và định kiến của họ. Suốt dọc đường nó kể về những chuyến viễn du, những khám phá lớn, những sách vở và những biến chuyển lớn lao.

Chỉ vào lúc cậu định leo lên một đồi cát, đúng ngay giây phút đó, không hơn không kém một giây, tim cậu mới thì thào: “Hãy ghi nhớ nơi mà cậu sẽ khóc. Tôi cũng sẽ có mặt ở đó và đó cũng là nơi chôn giấu kho báu của cậu đấy”.

Cậu từ từ leo lên đồi cát. Trăng lại tròn vành vạnh giữa bầu trời đầy sao. Cậu đã rời ốc đảo được đúng một tháng. Đồi cát chỗ sáng chỗ tối dưới ánh trăng trông như mặt biển gợn sóng làm cậu nhớ lại cái lần mình buông cương để ngựa đi tìm dấu hiệu mà nhà luyện kim đan đòi hỏi. Ánh trăng soi trên sa mạc im ắng và soi cả những chuyến viễn du của những người đi tìm kho báu.

Lát sau, khi cậu leo lên được đỉnh đồi cát thì tim cậu rộn lên mừng rỡ. Kim Tự Tháp Ai Cập nằm kia, đồ sộ và hùng vĩ trên mặt sa mạc loáng ánh trăng tròn.

Cậu quì xuống và khóc vì ngợp trong hạnh phúc. Cậu tạ ơn Thượng Đế đã khiến cậu tin vào vận mệnh mình cũng như đã khiến cậu gặp được vị vua già, chủ cửa hàng pha lê, anh chàng người Anh và nhà luyện kim đan. Nhất là đã khiến cậu gặp được cô gái sa mạc và cô đã cho cậu biết rằng tình yêu không bao giờ cản trở người trai theo đuổi vận mệnh mình.

Các Kim Tự Tháp hùng vĩ có từ hàng nghìn năm trước như nhìn xuống cậu. Nếu muốn cậu có thể quay về ốc đảo ngay bây giờ, lấy Fatima và sống cuộc đời của người chăn cừu bình thường. Ngay cả nhà luyện kim đan cũng sống trong sa mạc, dù ông biết thứ ngôn ngữ vũ trụ và biến được chì thành vàng. Cậu chẳng cần phải chứng tỏ với một ai kiến thức và tài sản của mình. Trên bước đường thực hiện vận mệnh mình cậu đã học được mọi điều cần thiết và đã được sống như cậu hằng mơ tưởng. Bây giờ thì cậu đã tới được nơi chôn giấu kho báu rồi. Nhưng một việc chỉ được coi là hoàn tất khi nào đạt mục tiêu.

Cậu đã khóc trên đồi cát này. Nhìn xuống mặt cát cậu thấy một con bọ hung đang bới chỗ nước mắt cậu vừa rơi xuống. Trong những ngày ở sa mạc cậu học được rằng ở Ai Cập bọ hung là dấu hiệu của Thượng Đế.

Thế là thêm một điềm báo nữa! Cậu bắt đầu đào, vừa đào vừa nhớ tới điều người bán hàng pha lê từng nói: ai cũng có thể xây được Kim Tự Tháp trong vườn của mình. Bây giờ thì cậu thấy có bỏ cả đời để chồng đá lên nhau cũng chẳng bao giờ thành nổi một Kim Tự Tháp được.

Cậu đào suốt đêm chỉ một chỗ đó mà chẳng tìm thấy gì. Kim Tự Tháp hàng nghìn năm kia lặng lẽ nhìn xuống cậu. Nhưng cậu không bỏ cuộc; cậu tiếp tục vừa đào vừa phải cản ngọn gió cứ lùa cát vào lại lỗ trũng. Hai tay cậu mỏi nhừ, tấy lên nhưng cậu tin vào trái tim mình. Nó đã bảo cậu phải đào chỗ những giọt nước mắt rơi xuống.

Rồi cậu chợt nghe có tiếng chân trong lúc đang moi đá. Có mấy bóng người đang lại gần. Họ quay lưng về phía ánh trăng nên cậu không thấy được mặt mũi lẫn mắt họ.

“Mày làm trò gì đấy?” Một cái bóng hỏi.

Cậu không đáp mà thấy sợ, sợ mất kho báu.

“Bọn ta chạy lạc vì các bộ lạc đánh nhau, nên rất cần tiền”, một bóng khác nói. “Mày giấu gì ở đấy?”

“Tôi chẳng giấu gì cả”, cậu đáp. Nhưng một cái bóng khác túm lấy cậu, kéo ra khỏi hố. Một tên khác lục túi cậu, thấy thỏi vàng.

“Nó có vàng trong người”, gã đó kêu.

Ánh trăng rọi vào mặt gã và cậu nhìn thấy thần chết trong đôi mắt họ.

“Chắc là nó còn giấu trong cát nhiều vàng nữa”, một gã khác nói.

Chúng bắt cậu đào tiếp, nhưng rút cục vẫn chẳng thấy gì hết. Thế là chúng xúm lại tẩn cậu, mãi cho đến khi mặt trời ló dạng. Quần áo cậu rách bươm và cậu cảm thấy mình gần kề cái chết.

“Đằng nào mình cũng sẽ chết thì tiền còn quí báu gì nữa?”

Cậu nghĩ và nhớ lại nhà luyện kim đan đã từng nói: “Ít khi tiền cứu được người ta khỏi chết”

Thế là cậu thú thực: “Tôi tìm kho báu”, rồi với đôi môi dập nát và sưng vù cậu kể cho bọn kia rằng đã hai lần mơ thấy một kho tàng giấu gần Kim Tự Tháp này. Gã có vẻ là đầu sỏ lũ này im lặng một lúc rồi bảo đồng bọn: “Thả nó ra. Nó hết sạch rồi. Chỗ vàng này chắc là nó lấy cắp được”.

Cậu úp mặt xuống cát

“Thôi bọn mình đi”, tay đầu sỏ nói.

Rồi gã quay sang cậu: “Mày không chết được đâu. Mày sẽ còn phải sống để nhớ rằng đừng nên ngu xuẩn thế. Hai năm trước, ngay chính chỗ này, tao cũng đã nhiều lần mơ rằng tao phải đi Tây Ban Nha, tìm một ngôi nhà thờ làng đã sụp lở mà lũ chăn cừu thường đưa cừu vào đó làm chỗ trú chân. Trong phòng thay áo lễ có mọc một cây cầu, dưới rễ nó chôn giấu một kho vàng. Tao đâu có ngu để chỉ vì một giấc mơ mà vượt sa mạc”.

Rồi chúng bỏ đi. Cậu lảo đảo đứng dậy, nhìn về phía Kim Tự Tháp. Tháp mỉm cười với cậu, cậu cười lại. Tim cậu tràn ngập niềm vui. Giờ thì cậu tìm thấy kho báu rồi.

 

BẠT

Cậu tên là Santiago. Cậu đến ngôi nhà nhỏ hoang phế kia khi trời vừa nhá nhem tối. Cây dâu mọc trong cái phòng thay áo lễ trước kia vẫn còn đó. Qua cái mái đã sập một nửa người ta vẫn có thể thấy được sao trời. Cậu nhớ lại cách đây không lâu mình và lũ cừu đã ở đây một đêm rất yên bình – không kể giấc mộng.

Bây giờ không có bầy cừu bên cậu nữa; trong tay cậu là một cái xẻng. Cậu nhìn lên trời một lúc, rồi lấy từ túi ra một chai vang, nhâm nhi. Cậu nhớ lại cái đêm nhìn trăng trong sa mạc, uống vang với nhà luyện kim đan; nhớ lại những chặng đường đã trải qua và cái phương cách lạ thường Chúa chọn để chỉ cho cậu kho tàng. Nếu không tin vào điều cậu hai lần mơ thì cậu sẽ không bao giờ gặp bà lão Zigeuner, nhà vua già, gã bịp và những người khác trên con đường dài rong ruổi.

“Danh sách những người và việc mình đã gặp thì dài lắm. Nhưng đã có dấu hiệu chỉ mình hướng đi thì mình không thể nhầm lẫn được”, cậu tự nhủ.

Rồi cậu thiếp đi mà không hay. Khi mở mắt thì mặt trời đã lên cao. Cậu bắt đầu đào bới dưới gốc cây dâu.

“Ông đúng là một lão phù thủy”, cậu thầm nghĩ. “Ông biết trước cả rồi. Thậm chí ông đã để lại cả vàng cho cháu để cháu có tiền đi đường, trở lại ngôi nhà thờ này. Người tu sĩ Côptic đã cười khi thấy cháu quay lại tu viện với quần áo rách bươm. Chẳng lẽ ông không thể miễn cho cháu những khốn khổ đó được à?”

“Không”, cậu nghe gió đáp. “Nếu ta cảnh báo cậu thì cậu sẽ chẳng bao giờ thấy được Kim Tự Tháp. Mà chúng đẹp biết bao, phải thế không?”

Đó là tiếng nhà luyện kim đan.

Cậu cười, đào tiếp. Sau nữa giờ lưỡi xẻng chạm phải vật gì cứng. Một giờ sau cậu đứng trước một cái hòm đầy tiền vàng cổ Tây Ban Nha. Có cả đá quí, mặt nạ vàng đính lông trắng, đỏ và cả những pho tượng cẩn ngọc. Đó là những thứ cướp bóc được trong thời kì xâm lược mà đất nước này đã quên từ lâu và những kẻ đi xâm lược cũng không kể lại cho con cháu họ.

Cậu moi bị lấy ra hai viên Urim và Thummim mà cậu chỉ dùng có mỗi một lần, vào một buổi sáng nọ ở bãi chợ. Đời cậu và con đường cậu trải qua đều rải đầy dấu hiệu.

Cậu bỏ hai viên đá vào hòm. Chúng cũng là một phần của kho tàng vì chúng gợi cậu nhớ đến nhà vua già mà cậu hẳn sẽ không bao giờ gặp lại nữa.

“Đúng là cuộc đời rất hào phóng với người nào chịu theo đuổi vận mệnh mình”, cậu nghĩ. Rồi cậu nhớ rằng phải đến Tarifa để trả bà lão Zigeuner một phần mười kho báu.

“Sao họ tinh ranh thế nhỉ? Có lẽ vì họ đi nhiều”, cậu nghĩ.

Gió lại thổi, gió Levante từ châu Phi. Lần này gió không mang lại mùi sa mạc hay mối đe dọa xâm lược của người Mauren, mà mang đến một mùi thơm cậu rất quen, và một nụ hôn nhẹ nhàng chạm trên môi cậu. Cậu mỉm cười. Lần đầu tiên cô ấy hôn mình.

“Anh đến đây, Fatima “, cậu nói.

 

➖➖➖

 

Bản tiếng Anh

The Alchemist

Translated by Clifford E. Landers

PART TWO (continued)

THE BOY APPROACHED THE GUARD AT THE FRONT OF THE huge white tent at the center of the oasis.

“I want to see the chieftains. I’ve brought omens from the desert.”

Without responding, the guard entered the tent, where he remained for some time. When he emerged, it was with a young Arab, dressed in white and gold. The boy told the younger man what he had seen, and the man asked him to wait there. He disappeared into the tent.

Night fell, and an assortment of fighting men and merchants entered and exited the tent. One by one, the campfires were extinguished, and the oasis fell as quiet as the desert. Only the lights in the great tent remained. During all this time, the boy thought about Fatima, and he was still unable to understand his last conversation with her.

Finally, after hours of waiting, the guard bade the boy enter. The boy was astonished by what he saw inside. Never could he have imagined that, there in the middle of the desert, there existed a tent like this one. The ground was covered with the most beautiful carpets he had ever walked upon, and from the top of the structure hung lamps of handwrought gold, each with a lighted candle. The tribal chieftains were seated at the back of the tent in a semicircle, resting upon richly embroidered silk cushions. Servants came and went with silver trays laden with spices and tea. Other servants maintained the fires in the hookahs. The atmosphere was suffused with the sweet scent of smoke.

There were eight chieftains, but the boy could see immediately which of them was the most important: an Arab dressed in white and gold, seated at the center of the semicircle. At his side was the young Arab the boy had spoken with earlier.

“Who is this stranger who speaks of omens?” asked one of the chieftains, eyeing the boy.

“It is I,” the boy answered. And he told what he had seen.

“Why would the desert reveal such things to a stranger, when it knows that we have been here for generations?” said another of the chieftains.

“Because my eyes are not yet accustomed to the desert,” the boy said. “I can see things that eyes habituated to the desert might not see.”

And also because I know about the Soul of the World, he thought to himself.

“The oasis is neutral ground. No one attacks an oasis,” said a third chieftain.

“I can only tell you what I saw. If you don’t want to believe me, you don’t have to do anything about it.”

The men fell into an animated discussion. They spoke in an Arabic dialect that the boy didn’t understand, but, when he made to leave, the guard told him to stay. The boy became fearful; the omens told him that something was wrong. He regretted having spoken to the camel driver about what he had seen in the desert.

Suddenly, the elder at the center smiled almost imperceptibly, and the boy felt better. The man hadn’t participated in the discussion, and, in fact, hadn’t said a word up to that point. But the boy was already used to the Language of the World, and he could feel the vibrations of peace throughout the tent. Now his intuition was that he had been right in coming.

The discussion ended. The chieftains were silent for a few moments as they listened to what the old man was saying. Then he turned to the boy: this time his expression was cold and distant.

“Two thousand years ago, in a distant land, a man who believed in dreams was thrown into a dungeon and then sold as a slave,” the old man said, now in the dialect the boy understood. “Our merchants bought that man, and brought him to Egypt. All of us know that whoever believes in dreams also knows how to interpret them.”

The elder continued, “When the pharaoh dreamed of cows that were thin and cows that were fat, this man I’m speaking of rescued Egypt from famine. His name was Joseph. He, too, was a stranger in a strange land, like you, and he was probably about your age.”

He paused, and his eyes were still unfriendly.

“We always observe the Tradition. The Tradition saved Egypt from famine in those days, and made the Egyptians the wealthiest of peoples. The Tradition teaches men how to cross the desert, and how their children should marry. The Tradition says that an oasis is neutral territory, because both sides have oases, and so both are vulnerable.”

No one said a word as the old man continued.

“But the Tradition also says that we should believe the messages of the desert. Everything we know was taught to us by the desert.”

The old man gave a signal, and everyone stood. The meeting was over. The hookahs were extinguished, and the guards stood at attention. The boy made ready to leave, but the old man spoke again:

“Tomorrow, we are going to break the agreement that says that no one at the oasis may carry arms. Throughout the entire day we will be on the lookout for our enemies. When the sun sets, the men will once again surrender their arms to me. For every ten dead men among our enemies, you will receive a piece of gold.

“But arms cannot be drawn unless they also go into battle. Arms are as capricious as the desert, and, if they are not used, the next time they might not function. If at least one of them hasn’t been used by the end of the day tomorrow, one will be used on you.”

When the boy left the tent, the oasis was illuminated only by the light of the full moon. He was twenty minutes from his tent, and began to make his way there.

He was alarmed by what had happened. He had succeeded in reaching through to the Soul of the World, and now the price for having done so might be his life. It was a frightening bet. But he had been making risky bets ever since the day he had sold his sheep to pursue his Personal Legend. And, as the camel driver had said, to die tomorrow was no worse than dying on any other day. Every day was there to be lived or to mark one’s departure from this world. Everything depended on one word: “Maktub.”

Walking along in the silence, he had no regrets. If he died tomorrow, it would be because God was not willing to change the future. He would at least have died after having crossed the strait, after having worked in a crystal shop, and after having known the silence of the desert and Fatima’s eyes. He had lived every one of his days intensely since he had left home so long ago. If he died tomorrow, he would already have seen more than other shepherds, and he was proud of that.

Suddenly he heard a thundering sound, and he was thrown to the ground by a wind such as he had never known. The area was swirling in dust so intense that it hid the moon from view. Before him was an enormous white horse, rearing over him with a frightening scream.

When the blinding dust had settled a bit, the boy trembled at what he saw. Astride the animal was a horseman dressed completely in black, with a falcon perched on his left shoulder. He wore a turban and his entire face, except for his eyes, was covered with a black kerchief. He appeared to be a messenger from the desert, but his presence was much more powerful than that of a mere messenger.

The strange horseman drew an enormous, curved sword from a scabbard mounted on his saddle. The steel of its blade glittered in the light of the moon.

“Who dares to read the meaning of the flight of the hawks?” he demanded, so loudly that his words seemed to echo through the fifty thousand palm trees of Al-Fayoum.

“It is I who dared to do so,” said the boy. He was reminded of the image of Santiago Matamoros, mounted on his white horse, with the infidels beneath his hooves. This man looked exactly the same, except that now the roles were reversed.

“It is I who dared to do so,” he repeated, and he lowered his head to receive a blow from the sword. “Many lives will be saved, because I was able to see through to the Soul of the World.”

The sword didn’t fall. Instead, the stranger lowered it slowly, until the point touched the boy’s forehead. It drew a droplet of blood.

The horseman was completely immobile, as was the boy. It didn’t even occur to the boy to flee. In his heart, he felt a strange sense of joy: he was about to die in pursuit of his Personal Legend. And for Fatima. The omens had been true, after all. Here he was, face-to-face with his enemy, but there was no need to be concerned about dying—the Soul of the World awaited him, and he would soon be a part of it. And, tomorrow, his enemy would also be a part of that Soul.

The stranger continued to hold the sword at the boy’s forehead. “Why did you read the flight of the birds?”

“I read only what the birds wanted to tell me. They wanted to save the oasis. Tomorrow all of you will die, because there are more men at the oasis than you have.”

The sword remained where it was. “Who are you to change what Allah has willed?”

“Allah created the armies, and he also created the hawks. Allah taught me the language of the birds. Everything has been written by the same hand,” the boy said, remembering the camel driver’s words.

The stranger withdrew the sword from the boy’s forehead, and the boy felt immensely relieved. But he still couldn’t flee.

“Be careful with your prognostications,” said the stranger. “When something is written, there is no way to change it.”

“All I saw was an army,” said the boy. “I didn’t see the outcome of the battle.”

The stranger seemed satisfied with the answer. But he kept the sword in his hand. “What is a stranger doing in a strange land?”

“I am following my Personal Legend. It’s not something you would understand.”

The stranger placed his sword in its scabbard, and the boy relaxed.

“I had to test your courage,” the stranger said. “Courage is the quality most essential to understanding the Language of the World.”

The boy was surprised. The stranger was speaking of things that very few people knew about.

“You must not let up, even after having come so far,” he continued. “You must love the desert, but never trust it completely. Because the desert tests all men: it challenges every step, and kills those who become distracted.”

What he said reminded the boy of the old king.

“If the warriors come here, and your head is still on your shoulders at sunset, come and find me,” said the stranger.

The same hand that had brandished the sword now held a whip. The horse reared again, raising a cloud of dust.

“Where do you live?” shouted the boy, as the horseman rode away.

The hand with the whip pointed to the south.

The boy had met the alchemist.

 

NEXT MORNING, THERE WERE TWO THOUSAND ARMED men scattered throughout the palm trees at Al-Fayoum. Before the sun had reached its high point, five hundred tribesmen appeared on the horizon. The mounted troops entered the oasis from the north; it appeared to be a peaceful expedition, but they all carried arms hidden in their robes. When they reached the white tent at the center of Al-Fayoum, they withdrew their scimitars and rifles. And they attacked an empty tent.

The men of the oasis surrounded the horsemen from the desert and within half an hour all but one of the intruders were dead. The children had been kept at the other side of a grove of palm trees, and saw nothing of what had happened. The women had remained in their tents, praying for the safekeeping of their husbands, and saw nothing of the battle, either. Were it not for the bodies there on the ground, it would have appeared to be a normal day at the oasis.

The only tribesman spared was the commander of the battalion. That afternoon, he was brought before the tribal chieftains, who asked him why he had violated the Tradition. The commander said that his men had been starving and thirsty, exhausted from many days of battle, and had decided to take the oasis so as to be able to return to the war.

The tribal chieftain said that he felt sorry for the tribesmen, but that the Tradition was sacred. He condemned the commander to death without honor. Rather than being killed by a blade or a bullet, he was hanged from a dead palm tree, where his body twisted in the desert wind.

The tribal chieftain called for the boy, and presented him with fifty pieces of gold. He repeated his story about Joseph of Egypt, and asked the boy to become the counselor of the oasis.

 

WHEN THE SUN HAD SET, AND THE FIRST STARS MADE their appearance, the boy started to walk to the south. He eventually sighted a single tent, and a group of Arabs passing by told the boy that it was a place inhabited by genies. But the boy sat down and waited.

Not until the moon was high did the alchemist ride into view. He carried two dead hawks over his shoulder.

“I am here,” the boy said.

“You shouldn’t be here,” the alchemist answered. “Or is it your Personal Legend that brings you here?”

“With the wars between the tribes, it’s impossible to cross the desert. So I have come here.”

The alchemist dismounted from his horse, and signaled that the boy should enter the tent with him. It was a tent like many at the oasis. The boy looked around for the ovens and other apparatus used in alchemy, but saw none. There were only some books in a pile, a small cooking stove, and the carpets, covered with mysterious designs.

“Sit down. We’ll have something to drink and eat these hawks,” said the alchemist.

The boy suspected that they were the same hawks he had seen on the day before, but he said nothing. The alchemist lighted the fire, and soon a delicious aroma filled the tent. It was better than the scent of the hookahs.

“Why did you want to see me?” the boy asked.

“Because of the omens,” the alchemist answered. “The wind told me you would be coming, and that you would need help.”

“It’s not I the wind spoke about. It’s the other foreigner, the Englishman. He’s the one that’s looking for you.”

“He has other things to do first. But he’s on the right track. He has begun to try to understand the desert.”

“And what about me?”

“When a person really desires something, all the universe conspires to help that person to realize his dream,” said the alchemist, echoing the words of the old king. The boy understood. Another person was there to help him toward his Personal Legend.

“So you are going to instruct me?”

“No. You already know all you need to know. I am only going to point you in the direction of your treasure.”

“But there’s a tribal war,” the boy reiterated.

“I know what’s happening in the desert.”

“I have already found my treasure. I have a camel, I have my money from the crystal shop, and I have fifty gold pieces. In my own country, I would be a rich man.”

“But none of that is from the Pyramids,” said the alchemist.

“I also have Fatima. She is a treasure greater than anything else I have won.”

“She wasn’t found at the Pyramids, either.”

They ate in silence. The alchemist opened a bottle and poured a red liquid into the boy’s cup. It was the most delicious wine he had ever tasted.

“Isn’t wine prohibited here?” the boy asked

“It’s not what enters men’s mouths that’s evil,” said the alchemist. “It’s what comes out of their mouths that is.”

The alchemist was a bit daunting, but, as the boy drank the wine, he relaxed. After they finished eating they sat outside the tent, under a moon so brilliant that it made the stars pale.

“Drink and enjoy yourself,” said the alchemist, noticing that the boy was feeling happier. “Rest well tonight, as if you were a warrior preparing for combat. Remember that wherever your heart is, there you will find your treasure. You’ve got to find the treasure, so that everything you have learned along the way can make sense.

“Tomorrow, sell your camel and buy a horse. Camels are traitorous: they walk thousands of paces and never seem to tire. Then suddenly, they kneel and die. But horses tire bit by bit. You always know how much you can ask of them, and when it is that they are about to die.”

 

THE FOLLOWING NIGHT, THE BOY APPEARED AT THE alchemist’s tent with a horse. The alchemist was ready, and he mounted his own steed and placed the falcon on his left shoulder. He said to the boy, “Show me where there is life out in the desert. Only those who can see such signs of life are able to find treasure.”

They began to ride out over the sands, with the moon lighting their way. I don’t know if I’ll be able to find life in the desert, the boy thought. I don’t know the desert that well yet.

He wanted to say so to the alchemist, but he was afraid of the man. They reached the rocky place where the boy had seen the hawks in the sky, but now there was only silence and the wind.

“I don’t know how to find life in the desert,” the boy said. “I know that there is life here, but I don’t know where to look.”

“Life attracts life,” the alchemist answered.

And then the boy understood. He loosened the reins on his horse, who galloped forward over the rocks and sand. The alchemist followed as the boy’s horse ran for almost half an hour. They could no longer see the palms of the oasis—only the gigantic moon above them, and its silver reflections from the stones of the desert. Suddenly, for no apparent reason, the boy’s horse began to slow.

“There’s life here,” the boy said to the alchemist. “I don’t know the language of the desert, but my horse knows the language of life.”

They dismounted, and the alchemist said nothing. Advancing slowly, they searched among the stones. The alchemist stopped abruptly, and bent to the ground. There was a hole there among the stones. The alchemist put his hand into the hole, and then his entire arm, up to his shoulder. Something was moving there, and the alchemist’s eyes—the boy could see only his eyes—squinted with his effort. His arm seemed to be battling with whatever was in the hole. Then, with a motion that startled the boy, he withdrew his arm and leaped to his feet. In his hand, he grasped a snake by the tail.

The boy leapt as well, but away from the alchemist. The snake fought frantically, making hissing sounds that shattered the silence of the desert. It was a cobra, whose venom could kill a person in minutes.

“Watch out for his venom,” the boy said. But even though the alchemist had put his hand in the hole, and had surely already been bitten, his expression was calm. “The alchemist is two hundred years old,” the Englishman had told him. He must know how to deal with the snakes of the desert.

The boy watched as his companion went to his horse and withdrew a scimitar. With its blade, he drew a circle in the sand, and then he placed the snake within it. The serpent relaxed immediately.

“Not to worry,” said the alchemist. “He won’t leave the circle. You found life in the desert, the omen that I needed.”

“Why was that so important?”

“Because the Pyramids are surrounded by the desert.”

The boy didn’t want to talk about the Pyramids. His heart was heavy, and he had been melancholy since the previous night. To continue his search for the treasure meant that he had to abandon Fatima.

“I’m going to guide you across the desert,” the alchemist said.

“I want to stay at the oasis,” the boy answered. “I’ve found Fatima, and, as far as I’m concerned, she’s worth more than treasure.”

“Fatima is a woman of the desert,” said the alchemist. “She knows that men have to go away in order to return. And she already has her treasure: it’s you. Now she expects that you will find what it is you’re looking for.”

“Well, what if I decide to stay?”

“Let me tell you what will happen. You’ll be the counselor of the oasis. You have enough gold to buy many sheep and many camels. You’ll marry Fatima, and you’ll both be happy for a year. You’ll learn to love the desert, and you’ll get to know every one of the fifty thousand palms. You’ll watch them as they grow, demonstrating how the world is always changing. And you’ll get better and better at understanding omens, because the desert is the best teacher there is.

“Sometime during the second year, you’ll remember about the treasure. The omens will begin insistently to speak of it, and you’ll try to ignore them. You’ll use your knowledge for the welfare of the oasis and its inhabitants. The tribal chieftains will appreciate what you do. And your camels will bring you wealth and power.

“During the third year, the omens will continue to speak of your treasure and your Personal Legend. You’ll walk around, night after night, at the oasis, and Fatima will be unhappy because she’ll feel it was she who interrupted your quest. But you will love her, and she’ll return your love. You’ll remember that she never asked you to stay, because a woman of the desert knows that she must await her man. So you won’t blame her. But many times you’ll walk the sands of the desert, thinking that maybe you could have left…that you could have trusted more in your love for Fatima. Because what kept you at the oasis was your own fear that you might never come back. At that point, the omens will tell you that your treasure is buried forever.

“Then, sometime during the fourth year, the omens will abandon you, because you’ve stopped listening to them. The tribal chieftains will see that, and you’ll be dismissed from your position as counselor. But, by then, you’ll be a rich merchant, with many camels and a great deal of merchandise. You’ll spend the rest of your days knowing that you didn’t pursue your Personal Legend, and that now it’s too late.

“You must understand that love never keeps a man from pursuing his Personal Legend. If he abandons that pursuit, it’s because it wasn’t true love…the love that speaks the Language of the World.”

The alchemist erased the circle in the sand, and the snake slithered away among the rocks. The boy remembered the crystal merchant who had always wanted to go to Mecca, and the Englishman in search of the alchemist. He thought of the woman who had trusted in the desert. And he looked out over the desert that had brought him to the woman he loved.

They mounted their horses, and this time it was the boy who followed the alchemist back to the oasis. The wind brought the sounds of the oasis to them, and the boy tried to hear Fatima’s voice.

But that night, as he had watched the cobra within the circle, the strange horseman with the falcon on his shoulder had spoken of love and treasure, of the women of the desert and of his Personal Legend.

“I’m going with you,” the boy said. And he immediately felt peace in his heart.

“We’ll leave tomorrow before sunrise,” was the alchemist’s only response.

 

THE BOY SPENT A SLEEPLESS NIGHT. TWO HOURS BEFORE dawn, he awoke one of the boys who slept in his tent, and asked him to show him where Fatima lived. They went to her tent, and the boy gave his friend enough gold to buy a sheep.

Then he asked his friend to go into the tent where Fatima was sleeping, and to awaken her and tell her that he was waiting outside. The young Arab did as he was asked, and was given enough gold to buy yet another sheep.

“Now leave us alone,” said the boy to the young Arab. The Arab returned to his tent to sleep, proud to have helped the counselor of the oasis, and happy at having enough money to buy himself some sheep.

Fatima appeared at the entrance to the tent. The two walked out among the palms. The boy knew that it was a violation of the Tradition, but that didn’t matter to him now.

“I’m going away,” he said. “And I want you to know that I’m coming back. I love you because…”

“Don’t say anything,” Fatima interrupted. “One is loved because one is loved. No reason is needed for loving.”

But the boy continued, “I had a dream, and I met with a king. I sold crystal and crossed the desert. And, because the tribes declared war, I went to the well, seeking the alchemist. So, I love you because the entire universe conspired to help me find you.”

The two embraced. It was the first time either had touched the other.

“I’ll be back,” the boy said.

“Before this, I always looked to the desert with longing,” said Fatima. “Now it will be with hope. My father went away one day, but he returned to my mother, and he has always come back since then.”

They said nothing else. They walked a bit farther among the palms, and then the boy left her at the entrance to her tent.

“I’ll return, just as your father came back to your mother,” he said.

He saw that Fatima’s eyes were filled with tears.

“You’re crying?”

“I’m a woman of the desert,” she said, averting her face. “But above all, I’m a woman.”

Fatima went back to her tent, and, when daylight came, she went out to do the chores she had done for years. But everything had changed. The boy was no longer at the oasis, and the oasis would never again have the same meaning it had had only yesterday. It would no longer be a place with fifty thousand palm trees and three hundred wells, where the pilgrims arrived, relieved at the end of their long journeys. From that day on, the oasis would be an empty place for her.

From that day on, it was the desert that would be important. She would look to it every day, and would try to guess which star the boy was following in search of his treasure. She would have to send her kisses on the wind, hoping that the wind would touch the boy’s face, and would tell him that she was alive. That she was waiting for him, a woman awaiting a courageous man in search of his treasure. From that day on, the desert would represent only one thing to her: the hope for his return.

 

“DON’T THINK ABOUT WHAT YOU’VE LEFT BEHIND,” THE alchemist said to the boy as they began to ride across the sands of the desert. “Everything is written in the Soul of the World, and there it will stay forever.”

“Men dream more about coming home than about leaving,” the boy said. He was already reaccustomed to the desert’s silence.

“If what one finds is made of pure matter, it will never spoil. And one can always come back. If what you had found was only a moment of light, like the explosion of a star, you would find nothing on your return.”

The man was speaking the language of alchemy. But the boy knew that he was referring to Fatima.

It was difficult not to think about what he had left behind. The desert, with its endless monotony, put him to dreaming. The boy could still see the palm trees, the wells, and the face of the woman he loved. He could see the Englishman at his experiments, and the camel driver who was a teacher without realizing it. Maybe the alchemist has never been in love, the boy thought.

The alchemist rode in front, with the falcon on his shoulder. The bird knew the language of the desert well, and whenever they stopped, he flew off in search of game. On the first day he returned with a rabbit, and on the second with two birds.

At night, they spread their sleeping gear and kept their fires hidden. The desert nights were cold, and were becoming darker and darker as the phases of the moon passed. They went on for a week, speaking only of the precautions they needed to follow in order to avoid the battles between the tribes. The war continued, and at times the wind carried the sweet, sickly smell of blood. Battles had been fought nearby, and the wind reminded the boy that there was the language of omens, always ready to show him what his eyes had failed to observe.

On the seventh day, the alchemist decided to make camp earlier than usual. The falcon flew off to find game, and the alchemist offered his water container to the boy.

“You are almost at the end of your journey,” said the alchemist. “I congratulate you for having pursued your Personal Legend.”

“And you’ve told me nothing along the way,” said the boy. “I thought you were going to teach me some of the things you know. A while ago, I rode through the desert with a man who had books on alchemy. But I wasn’t able to learn anything from them.”

“There is only one way to learn,” the alchemist answered. “It’s through action. Everything you need to know you have learned through your journey. You need to learn only one thing more.”

The boy wanted to know what that was, but the alchemist was searching the horizon, looking for the falcon.

“Why are you called the alchemist?”

“Because that’s what I am.”

“And what went wrong when other alchemists tried to make gold and were unable to do so?”

“They were looking only for gold,” his companion answered. “They were seeking the treasure of their Personal Legend, without wanting actually to live out the Personal Legend.”

“What is it that I still need to know?” the boy asked.

But the alchemist continued to look to the horizon. And finally the falcon returned with their meal. They dug a hole and lit their fire in it, so that the light of the flames would not be seen.

“I’m an alchemist simply because I’m an alchemist,” he said, as he prepared the meal. “I learned the science from my grandfather, who learned from his father, and so on, back to the creation of the world. In those times, the Master Work could be written simply on an emerald. But men began to reject simple things, and to write tracts, interpretations, and philosophical studies. They also began to feel that they knew a better way than others had. Yet the Emerald Tablet is still alive today.”

“What was written on the Emerald Tablet?” the boy wanted to know.

The alchemist began to draw in the sand, and completed his drawing in less than five minutes. As he drew, the boy thought of the old king, and the plaza where they had met that day; it seemed as if it had taken place years and years ago.

“This is what was written on the Emerald Tablet,” said the alchemist, when he had finished.

The boy tried to read what was written in the sand.

“It’s a code,” said the boy, a bit disappointed. “It looks like what I saw in the Englishman’s books.”

“No,” the alchemist answered. “It’s like the flight of those two hawks; it can’t be understood by reason alone. The Emerald Tablet is a direct passage to the Soul of the World.

“The wise men understood that this natural world is only an image and a copy of paradise. The existence of this world is simply a guarantee that there exists a world that is perfect. God created the world so that, through its visible objects, men could understand his spiritual teachings and the marvels of his wisdom. That’s what I mean by action.”

“Should I understand the Emerald Tablet?” the boy asked.

“Perhaps, if you were in a laboratory of alchemy, this would be the right time to study the best way to understand the Emerald Tablet. But you are in the desert. So immerse yourself in it. The desert will give you an understanding of the world; in fact, anything on the face of the earth will do that. You don’t even have to understand the desert: all you have to do is contemplate a simple grain of sand, and you will see in it all the marvels of creation.”

“How do I immerse myself in the desert?”

“Listen to your heart. It knows all things, because it came from the Soul of the World, and it will one day return there.”

 

THEY CROSSED THE DESERT FOR ANOTHER TWO DAYS IN silence. The alchemist had become much more cautious, because they were approaching the area where the most violent battles were being waged. As they moved along, the boy tried to listen to his heart.

It was not easy to do; in earlier times, his heart had always been ready to tell its story, but lately that wasn’t true. There had been times when his heart spent hours telling of its sadness, and at other times it became so emotional over the desert sunrise that the boy had to hide his tears. His heart beat fastest when it spoke to the boy of treasure, and more slowly when the boy stared entranced at the endless horizons of the desert. But his heart was never quiet, even when the boy and the alchemist had fallen into silence.

“Why do we have to listen to our hearts?” the boy asked, when they had made camp that day.

“Because, wherever your heart is, that is where you’ll find your treasure.”

“But my heart is agitated,” the boy said. “It has its dreams, it gets emotional, and it’s become passionate over a woman of the desert. It asks things of me, and it keeps me from sleeping many nights, when I’m thinking about her.”

“Well, that’s good. Your heart is alive. Keep listening to what it has to say.”

During the next three days, the two travelers passed by a number of armed tribesmen, and saw others on the horizon. The boy’s heart began to speak of fear. It told him stories it had heard from the Soul of the World, stories of men who sought to find their treasure and never succeeded. Sometimes it frightened the boy with the idea that he might not find his treasure, or that he might die there in the desert. At other times, it told the boy that it was satisfied: it had found love and riches.

“My heart is a traitor,” the boy said to the alchemist, when they had paused to rest the horses. “It doesn’t want me to go on.”

“That makes sense,” the alchemist answered. “Naturally it’s afraid that, in pursuing your dream, you might lose everything you’ve won.”

“Well, then, why should I listen to my heart?”

“Because you will never again be able to keep it quiet. Even if you pretend not to have heard what it tells you, it will always be there inside you, repeating to you what you’re thinking about life and about the world.”

“You mean I should listen, even if it’s treasonous?”

“Treason is a blow that comes unexpectedly. If you know your heart well, it will never be able to do that to you. Because you’ll know its dreams and wishes, and will know how to deal with them.

“You will never be able to escape from your heart. So it’s better to listen to what it has to say. That way, you’ll never have to fear an unanticipated blow.”

The boy continued to listen to his heart as they crossed the desert. He came to understand its dodges and tricks, and to accept it as it was. He lost his fear, and forgot about his need to go back to the oasis, because, one afternoon, his heart told him that it was happy. “Even though I complain sometimes,” it said, “it’s because I’m the heart of a person, and people’s hearts are that way. People are afraid to pursue their most important dreams, because they feel that they don’t deserve them, or that they’ll be unable to achieve them. We, their hearts, become fearful just thinking of loved ones who go away forever, or of moments that could have been good but weren’t, or of treasures that might have been found but were forever hidden in the sands. Because, when these things happen, we suffer terribly.”

“My heart is afraid that it will have to suffer,” the boy told the alchemist one night as they looked up at the moonless sky.

“Tell your heart that the fear of suffering is worse than the suffering itself. And that no heart has ever suffered when it goes in search of its dreams, because every second of the search is a second’s encounter with God and with eternity.”

“Every second of the search is an encounter with God,” the boy told his heart. “When I have been truly searching for my treasure, every day has been luminous, because I’ve known that every hour was a part of the dream that I would find it. When I have been truly searching for my treasure, I’ve discovered things along the way that I never would have seen had I not had the courage to try things that seemed impossible for a shepherd to achieve.”

So his heart was quiet for an entire afternoon. That night, the boy slept deeply, and, when he awoke, his heart began to tell him things that came from the Soul of the World. It said that all people who are happy have God within them. And that happiness could be found in a grain of sand from the desert, as the alchemist had said. Because a grain of sand is a moment of creation, and the universe has taken millions of years to create it. “Everyone on earth has a treasure that awaits him,” his heart said. “We, people’s hearts, seldom say much about those treasures, because people no longer want to go in search of them. We speak of them only to children. Later, we simply let life proceed, in its own direction, toward its own fate. But, unfortunately, very few follow the path laid out for them—the path to their Personal Legends, and to happiness. Most people see the world as a threatening place, and, because they do, the world turns out, indeed, to be a threatening place.

“So, we, their hearts, speak more and more softly. We never stop speaking out, but we begin to hope that our words won’t be heard: we don’t want people to suffer because they don’t follow their hearts.”

“Why don’t people’s hearts tell them to continue to follow their dreams?” the boy asked the alchemist.

“Because that’s what makes a heart suffer most, and hearts don’t like to suffer.”

From then on, the boy understood his heart. He asked it, please, never to stop speaking to him. He asked that, when he wandered far from his dreams, his heart press him and sound the alarm. The boy swore that, every time he heard the alarm, he would heed its message.

That night, he told all of this to the alchemist. And the alchemist understood that the boy’s heart had returned to the Soul of the World.

“So what should I do now?” the boy asked.

“Continue in the direction of the Pyramids,” said the alchemist. “And continue to pay heed to the omens. Your heart is still capable of showing you where the treasure is.”

“Is that the one thing I still needed to know?”

“No,” the alchemist answered. “What you still need to know is this: before a dream is realized, the Soul of the World tests everything that was learned along the way. It does this not because it is evil, but so that we can, in addition to realizing our dreams, master the lessons we’ve learned as we’ve moved toward that dream. That’s the point at which most people give up. It’s the point at which, as we say in the language of the desert, one ‘dies of thirst just when the palm trees have appeared on the horizon.’

“Every search begins with beginner’s luck. And every search ends with the victor’s being severely tested.”

The boy remembered an old proverb from his country. It said that the darkest hour of the night came just before the dawn.

 

ON THE FOLLOWING DAY, THE FIRST CLEAR SIGN OF danger appeared. Three armed tribesmen approached, and asked what the boy and the alchemist were doing there.

“I’m hunting with my falcon,” the alchemist answered.

“We’re going to have to search you to see whether you’re armed,” one of the tribesmen said.

The alchemist dismounted slowly, and the boy did the same.

“Why are you carrying money?” asked the tribesman, when he had searched the boy’s bag.

“I need it to get to the Pyramids,” he said.

The tribesman who was searching the alchemist’s belongings found a small crystal flask filled with a liquid, and a yellow glass egg that was slightly larger than a chicken’s egg.

“What are these things?” he asked.

“That’s the Philosopher’s Stone and the Elixir of Life. It’s the Master Work of the alchemists. Whoever swallows that elixir will never be sick again, and a fragment from that stone turns any metal into gold.”

The Arabs laughed at him, and the alchemist laughed along. They thought his answer was amusing, and they allowed the boy and the alchemist to proceed with all of their belongings.

“Are you crazy?” the boy asked the alchemist, when they had moved on. “What did you do that for?”

“To show you one of life’s simple lessons,” the alchemist answered. “When you possess great treasures within you, and try to tell others of them, seldom are you believed.”

They continued across the desert. With every day that passed, the boy’s heart became more and more silent. It no longer wanted to know about things of the past or future; it was content simply to contemplate the desert, and to drink with the boy from the Soul of the World. The boy and his heart had become friends, and neither was capable now of betraying the other.

When his heart spoke to him, it was to provide a stimulus to the boy, and to give him strength, because the days of silence there in the desert were wearisome. His heart told the boy what his strongest qualities were: his courage in having given up his sheep and in trying to live out his Personal Legend, and his enthusiasm during the time he had worked at the crystal shop.

And his heart told him something else that the boy had never noticed: it told the boy of dangers that had threatened him, but that he had never perceived. His heart said that one time it had hidden the rifle the boy had taken from his father, because of the possibility that the boy might wound himself. And it reminded the boy of the day when he had been ill and vomiting out in the fields, after which he had fallen into a deep sleep. There had been two thieves farther ahead who were planning to steal the boy’s sheep and murder him. But, since the boy hadn’t passed by, they had decided to move on, thinking that he had changed his route.

“Does a man’s heart always help him?” the boy asked the alchemist.

“Mostly just the hearts of those who are trying to realize their Personal Legends. But they do help children, drunkards, and the elderly, too.”

“Does that mean that I’ll never run into danger?”

“It means only that the heart does what it can,” the alchemist said.

One afternoon, they passed by the encampment of one of the tribes. At each corner of the camp were Arabs garbed in beautiful white robes, with arms at the ready. The men were smoking their hookahs and trading stories from the battlefield. No one paid any attention to the two travelers.

“There’s no danger,” the boy said, when they had moved on past the encampment.

The alchemist sounded angry: “Trust in your heart, but never forget that you’re in the desert. When men are at war with one another, the Soul of the World can hear the screams of battle. No one fails to suffer the consequences of everything under the sun.”

All things are one, the boy thought. And then, as if the desert wanted to demonstrate that the alchemist was right, two horsemen appeared from behind the travelers.

“You can’t go any farther,” one of them said. “You’re in the area where the tribes are at war.”

“I’m not going very far,” the alchemist answered, looking straight into the eyes of the horsemen. They were silent for a moment, and then agreed that the boy and the alchemist could move along.

The boy watched the exchange with fascination. “You dominated those horsemen with the way you looked at them,” he said.

“Your eyes show the strength of your soul,” answered the alchemist.

That’s true, the boy thought. He had noticed that, in the midst of the multitude of armed men back at the encampment, there had been one who stared fixedly at the two. He had been so far away that his face wasn’t even visible. But the boy was certain that he had been looking at them.

Finally, when they had crossed the mountain range that extended along the entire horizon, the alchemist said that they were only two days from the Pyramids.

“If we’re going to go our separate ways soon,” the boy said, “then teach me about alchemy.”

“You already know about alchemy. It is about penetrating to the Soul of the World, and discovering the treasure that has been reserved for you.”

“No, that’s not what I mean. I’m talking about transforming lead into gold.”

The alchemist fell as silent as the desert, and answered the boy only after they had stopped to eat.

“Everything in the universe evolved,” he said. “And, for wise men, gold is the metal that evolved the furthest. Don’t ask me why; I don’t know why. I just know that the Tradition is always right.

“Men have never understood the words of the wise. So gold, instead of being seen as a symbol of evolution, became the basis for conflict.”

“There are many languages spoken by things,” the boy said. “There was a time when, for me, a camel’s whinnying was nothing more than whinnying. Then it became a signal of danger. And, finally, it became just a whinny again.”

But then he stopped. The alchemist probably already knew all that.

“I have known true alchemists,” the alchemist continued. “They locked themselves in their laboratories, and tried to evolve, as gold had. And they found the Philosopher’s Stone, because they understood that when something evolves, everything around that thing evolves as well.

“Others stumbled upon the stone by accident. They already had the gift, and their souls were readier for such things than the souls of others. But they don’t count. They’re quite rare.

“And then there were the others, who were interested only in gold. They never found the secret. They forgot that lead, copper, and iron have their own Personal Legends to fulfill. And anyone who interferes with the Personal Legend of another thing never will discover his own.”

The alchemist’s words echoed out like a curse. He reached over and picked up a shell from the ground.

“This desert was once a sea,” he said.

“I noticed that,” the boy answered.

The alchemist told the boy to place the shell over his ear. He had done that many times when he was a child, and had heard the sound of the sea.

“The sea has lived on in this shell, because that’s its Personal Legend. And it will never cease doing so until the desert is once again covered by water.”

They mounted their horses, and rode out in the direction of the Pyramids of Egypt.

 

THE SUN WAS SETTING WHEN THE BOY’S HEART SOUNDED a danger signal. They were surrounded by gigantic dunes, and the boy looked at the alchemist to see whether he had sensed anything. But he appeared to be unaware of any danger. Five minutes later, the boy saw two horsemen waiting ahead of them. Before he could say anything to the alchemist, the two horsemen had become ten, and then a hundred. And then they were everywhere in the dunes.

They were tribesmen dressed in blue, with black rings surrounding their turbans. Their faces were hidden behind blue veils, with only their eyes showing.

Even from a distance, their eyes conveyed the strength of their souls. And their eyes spoke of death.

 

THE TWO WERE TAKEN TO A NEARBY MILITARY CAMP. A soldier shoved the boy and the alchemist into a tent where the chief was holding a meeting with his staff.

“These are the spies,” said one of the men.

“We’re just travelers,” the alchemist answered.

 

“You were seen at the enemy camp three days ago. And you were talking with one of the troops there.”

“I’m just a man who wanders the desert and knows the stars,” said the alchemist. “I have no information about troops or about the movement of the tribes. I was simply acting as a guide for my friend here.”

“Who is your friend?” the chief asked.

“An alchemist,” said the alchemist. “He understands the forces of nature. And he wants to show you his extraordinary powers.”

The boy listened quietly. And fearfully.

“What is a foreigner doing here?” asked another of the men.

“He has brought money to give to your tribe,” said the alchemist, before the boy could say a word. And seizing the boy’s bag, the alchemist gave the gold coins to the chief.

The Arab accepted them without a word. There was enough there to buy a lot of weapons.

“What is an alchemist?” he asked, finally.

“It’s a man who understands nature and the world. If he wanted to, he could destroy this camp just with the force of the wind.”

The men laughed. They were used to the ravages of war, and knew that the wind could not deliver them a fatal blow. Yet each felt his heart beat a bit faster. They were men of the desert, and they were fearful of sorcerers.

“I want to see him do it,” said the chief.

“He needs three days,” answered the alchemist. “He is going to transform himself into the wind, just to demonstrate his powers. If he can’t do so, we humbly offer you our lives, for the honor of your tribe.”

“You can’t offer me something that is already mine,” the chief said, arrogantly. But he granted the travelers three days.

The boy was shaking with fear, but the alchemist helped him out of the tent.

“Don’t let them see that you’re afraid,” the alchemist said. “They are brave men, and they despise cowards.”

But the boy couldn’t even speak. He was able to do so only after they had walked through the center of the camp. There was no need to imprison them: the Arabs simply confiscated their horses. So, once again, the world had demonstrated its many languages: the desert only moments ago had been endless and free, and now it was an impenetrable wall.

“You gave them everything I had!” the boy said. “Everything I’ve saved in my entire life!”

“Well, what good would it be to you if you had to die?” the alchemist answered. “Your money saved us for three days. It’s not often that money saves a person’s life.”

But the boy was too frightened to listen to words of wisdom. He had no idea how he was going to transform himself into the wind. He wasn’t an alchemist!

The alchemist asked one of the soldiers for some tea, and poured some on the boy’s wrists. A wave of relief washed over him, and the alchemist muttered some words that the boy didn’t understand.

“Don’t give in to your fears,” said the alchemist, in a strangely gentle voice. “If you do, you won’t be able to talk to your heart.”

“But I have no idea how to turn myself into the wind.”

“If a person is living out his Personal Legend, he knows everything he needs to know. There is only one thing that makes a dream impossible to achieve: the fear of failure.”

“I’m not afraid of failing. It’s just that I don’t know how to turn myself into the wind.”

“Well, you’ll have to learn; your life depends on it.”

“But what if I can’t?”

“Then you’ll die in the midst of trying to realize your Personal Legend. That’s a lot better than dying like millions of other people, who never even knew what their Personal Legends were.

“But don’t worry,” the alchemist continued. “Usually the threat of death makes people a lot more aware of their lives.”

 

THE FIRST DAY PASSED. THERE WAS A MAJOR BATTLE nearby, and a number of wounded were brought back to the camp. The dead soldiers were replaced by others, and life went on. Death doesn’t change anything, the boy thought.

“You could have died later on,” a soldier said to the body of one of his companions. “You could have died after peace had been declared. But, in any case, you were going to die.”

At the end of the day, the boy went looking for the alchemist, who had taken his falcon out into the desert.

“I still have no idea how to turn myself into the wind,” the boy repeated.

“Remember what I told you: the world is only the visible aspect of God. And that what alchemy does is to bring spiritual perfection into contact with the material plane.”

“What are you doing?”

“Feeding my falcon.”

“If I’m not able to turn myself into the wind, we’re going to die,” the boy said. “Why feed your falcon?”

“You’re the one who may die,” the alchemist said. “I already know how to turn myself into the wind.”

 

ON THE SECOND DAY, THE BOY CLIMBED TO THE TOP OF A cliff near the camp. The sentinels allowed him to go; they had already heard about the sorcerer who could turn himself into the wind, and they didn’t want to go near him. In any case, the desert was impassable.

He spent the entire afternoon of the second day looking out over the desert, and listening to his heart. The boy knew the desert sensed his fear.

They both spoke the same language.

 

ON THE THIRD DAY, THE CHIEF MET WITH HIS OFFICERS. He called the alchemist to the meeting and said, “Let’s go see the boy who turns himself into the wind.”

“Let’s,” the alchemist answered.

The boy took them to the cliff where he had been on the previous day. He told them all to be seated.

“It’s going to take awhile,” the boy said.

“We’re in no hurry,” the chief answered. “We are men of the desert.”

The boy looked out at the horizon. There were mountains in the distance. And there were dunes, rocks, and plants that insisted on living where survival seemed impossible. There was the desert that he had wandered for so many months; despite all that time, he knew only a small part of it. Within that small part, he had found an Englishman, caravans, tribal wars, and an oasis with fifty thousand palm trees and three hundred wells.

“What do you want here today?” the desert asked him. “Didn’t you spend enough time looking at me yesterday?”

“Somewhere you are holding the person I love,” the boy said. “So, when I look out over your sands, I am also looking at her. I want to return to her, and I need your help so that I can turn myself into the wind.”

“What is love?” the desert asked.

“Love is the falcon’s flight over your sands. Because for him, you are a green field, from which he always returns with game. He knows your rocks, your dunes, and your mountains, and you are generous to him.”

“The falcon’s beak carries bits of me, myself,” the desert said. “For years, I care for his game, feeding it with the little water that I have, and then I show him where the game is. And, one day, as I enjoy the fact that his game thrives on my surface, the falcon dives out of the sky, and takes away what I’ve created.”

“But that’s why you created the game in the first place,” the boy answered. “To nourish the falcon. And the falcon then nourishes man. And, eventually, man will nourish your sands, where the game will once again flourish. That’s how the world goes.”

“So is that what love is?”

“Yes, that’s what love is. It’s what makes the game become the falcon, the falcon become man, and man, in his turn, the desert. It’s what turns lead into gold, and makes the gold return to the earth.”

“I don’t understand what you’re talking about,” the desert said.

“But you can at least understand that somewhere in your sands there is a woman waiting for me. And that’s why I have to turn myself into the wind.”

The desert didn’t answer him for a few moments.

Then it told him, “I’ll give you my sands to help the wind to blow, but, alone, I can’t do anything. You have to ask for help from the wind.”

A breeze began to blow. The tribesmen watched the boy from a distance, talking among themselves in a language that the boy couldn’t understand.

The alchemist smiled.

The wind approached the boy and touched his face. It knew of the boy’s talk with the desert, because the winds know everything. They blow across the world without a birthplace, and with no place to die.

“Help me,” the boy said. “One day you carried the voice of my loved one to me.”

“Who taught you to speak the language of the desert and the wind?”

“My heart,” the boy answered.

The wind has many names. In that part of the world, it was called the sirocco, because it brought moisture from the oceans to the east. In the distant land the boy came from, they called it the levanter, because they believed that it brought with it the sands of the desert, and the screams of the Moorish wars. Perhaps, in the places beyond the pastures where his sheep lived, men thought that the wind came from Andalusia. But, actually, the wind came from no place at all, nor did it go to any place; that’s why it was stronger than the desert. Someone might one day plant trees in the desert, and even raise sheep there, but never would they harness the wind.

“You can’t be the wind,” the wind said. “We’re two very different things.”

“That’s not true,” the boy said. “I learned the alchemist’s secrets in my travels. I have inside me the winds, the deserts, the oceans, the stars, and everything created in the universe. We were all made by the same hand, and we have the same soul. I want to be like you, able to reach every corner of the world, cross the seas, blow away the sands that cover my treasure, and carry the voice of the woman I love.”

“I heard what you were talking about the other day with the alchemist,” the wind said. “He said that everything has its own Personal Legend. But people can’t turn themselves into the wind.”

“Just teach me to be the wind for a few moments,” the boy said. “So you and I can talk about the limitless possibilities of people and the winds.”

The wind’s curiosity was aroused, something that had never happened before. It wanted to talk about those things, but it didn’t know how to turn a man into the wind. And look how many things the wind already knew how to do! It created deserts, sank ships, felled entire forests, and blew through cities filled with music and strange noises. It felt that it had no limits, yet here was a boy saying that there were other things the wind should be able to do.

“This is what we call love,” the boy said, seeing that the wind was close to granting what he requested. “When you are loved, you can do anything in creation. When you are loved, there’s no need at all to understand what’s happening, because everything happens within you, and even men can turn themselves into the wind. As long as the wind helps, of course.”

The wind was a proud being, and it was becoming irritated with what the boy was saying. It commenced to blow harder, raising the desert sands. But finally it had to recognize that, even making its may around the world, it didn’t know how to turn a man into the wind. And it knew nothing about love.

“In my travels around the world, I’ve often seen people speaking of love and looking toward the heavens,” the wind said, furious at having to acknowledge its own limitations. “Maybe it’s better to ask heaven.”

“Well then, help me do that,” the boy said. “Fill this place with a sandstorm so strong that it blots out the sun. Then I can look to heaven without blinding myself.”

So the wind blew with all its strength, and the sky was filled with sand. The sun was turned into a golden disk.

At the camp, it was difficult to see anything. The men of the desert were already familiar with that wind. They called it the simum, and it was worse than a storm at sea. Their horses cried out, and all their weapons were filled with sand.

On the heights, one of the commanders turned to the chief and said, “Maybe we had better end this!”

They could barely see the boy. Their faces were covered with the blue cloths, and their eyes showed fear.

“Let’s stop this,” another commander said.

“I want to see the greatness of Allah,” the chief said, with respect. “I want to see how a man turns himself into the wind.”

But he made a mental note of the names of the two men who had expressed their fear. As soon as the wind stopped, he was going to remove them from their commands, because true men of the desert are not afraid.

“The wind told me that you know about love,” the boy said to the sun. “If you know about love, you must also know about the Soul of the World, because it’s made of love.”

“From where I am,” the sun said, “I can see the Soul of the World. It communicates with my soul, and together we cause the plants to grow and the sheep to seek out shade. From where I am—and I’m a long way from the earth—I learned how to love. I know that if I came even a little bit closer to the earth, everything there would die, and the Soul of the World would no longer exist. So we contemplate each other, and we want each other, and I give it life and warmth, and it gives me my reason for living.”

“So you know about love,” the boy said.

“And I know the Soul of the World, because we have talked at great length to each other during this endless trip through the universe. It tells me that its greatest problem is that, up until now, only the minerals and vegetables understand that all things are one. That there’s no need for iron to be the same as copper, or copper the same as gold. Each performs its own exact function as a unique being, and everything would be a symphony of peace if the hand that wrote all this had stopped on the fifth day of creation.

“But there was a sixth day,” the sun went on.

“You are wise, because you observe everything from a distance,” the boy said. “But you don’t know about love. If there hadn’t been a sixth day, man would not exist; copper would always be just copper, and lead just lead. It’s true that everything has its Personal Legend, but one day that Personal Legend will be realized. So each thing has to transform itself into something better, and to acquire a new Personal Legend, until, someday, the Soul of the World becomes one thing only.”

The sun thought about that, and decided to shine more brightly. The wind, which was enjoying the conversation, started to blow with greater force, so that the sun would not blind the boy.

“This is why alchemy exists,” the boy said. “So that everyone will search for his treasure, find it, and then want to be better than he was in his former life. Lead will play its role until the world has no further need for lead; and then lead will have to turn itself into gold.

“That’s what alchemists do. They show that, when we strive to become better than we are, everything around us becomes better, too.”

“Well, why did you say that I don’t know about love?” the sun asked the boy.

“Because it’s not love to be static like the desert, nor is it love to roam the world like the wind. And it’s not love to see everything from a distance, like you do. Love is the force that transforms and improves the Soul of the World. When I first reached through to it, I thought the Soul of the World was perfect. But later, I could see that it was like other aspects of creation, and had its own passions and wars. It is we who nourish the Soul of the World, and the world we live in will be either better or worse, depending on whether we become better or worse. And that’s where the power of love comes in. Because when we love, we always strive to become better than we are.”

“So what do you want of me?” the sun asked.

“I want you to help me turn myself into the wind,” the boy answered.

“Nature knows me as the wisest being in creation,” the sun said. “But I don’t know how to turn you into the wind.”

“Then, whom should I ask?”

The sun thought for a minute. The wind was listening closely, and wanted to tell every corner of the world that the sun’s wisdom had its limitations. That it was unable to deal with this boy who spoke the Language of the World.

“Speak to the hand that wrote all,” said the sun.

The wind screamed with delight, and blew harder than ever. The tents were being blown from their ties to the earth, and the animals were being freed from their tethers. On the cliff, the men clutched at each other as they sought to keep from being blown away.

The boy turned to the hand that wrote all. As he did so, he sensed that the universe had fallen silent, and he decided not to speak.

A current of love rushed from his heart, and the boy began to pray. It was a prayer that he had never said before, because it was a prayer without words or pleas. His prayer didn’t give thanks for his sheep having found new pastures; it didn’t ask that the boy be able to sell more crystal; and it didn’t beseech that the woman he had met continue to await his return. In the silence, the boy understood that the desert, the wind, and the sun were also trying to understand the signs written by the hand, and were seeking to follow their paths, and to understand what had been written on a single emerald. He saw that omens were scattered throughout the earth and in space, and that there was no reason or significance attached to their appearance; he could see that not the deserts, nor the winds, nor the sun, nor people knew why they had been created. But that the hand had a reason for all of this, and that only the hand could perform miracles, or transform the sea into a desert…or a man into the wind. Because only the hand understood that it was a larger design that had moved the universe to the point at which six days of creation had evolved into a Master Work.

The boy reached through to the Soul of the World, and saw that it was a part of the Soul of God. And he saw that the Soul of God was his own soul. And that he, a boy, could perform miracles.

 

THE SIMUM BLEW THAT DAY AS IT HAD NEVER BLOWN before. For generations thereafter, the Arabs recounted the legend of a boy who had turned himself into the wind, almost destroying a military camp, in defiance of the most powerful chief in the desert.

When the simum ceased to blow, everyone looked to the place where the boy had been. But he was no longer there; he was standing next to a sand-covered sentinel, on the far side of the camp.

The men were terrified at his sorcery. But there were two people who were smiling: the alchemist, because he had found his perfect disciple, and the chief, because that disciple had understood the glory of God.

The following day, the general bade the boy and the alchemist farewell, and provided them with an escort party to accompany them as far as they chose.

 

THEY RODE FOR THE ENTIRE DAY. TOWARD THE END OF the afternoon, they came upon a Coptic monastery. The alchemist dismounted, and told the escorts they could return to the camp.

“From here on, you will be alone,” the alchemist said. “You are only three hours from the Pyramids.”

“Thank you,” said the boy. “You taught me the Language of the World.”

“I only invoked what you already knew.”

The alchemist knocked on the gate of the monastery. A monk dressed in black came to the gates. They spoke for a few minutes in the Coptic tongue, and the alchemist bade the boy enter.

“I asked him to let me use the kitchen for a while,” the alchemist smiled.

They went to the kitchen at the back of the monastery. The alchemist lighted the fire, and the monk brought him some lead, which the alchemist placed in an iron pan. When the lead had become liquid, the alchemist took from his pouch the strange yellow egg. He scraped from it a sliver as thin as a hair, wrapped it in wax, and added it to the pan in which the lead had melted.

The mixture took on a reddish color, almost the color of blood. The alchemist removed the pan from the fire, and set it aside to cool. As he did so, he talked with the monk about the tribal wars.

“I think they’re going to last for a long time,” he said to the monk.

The monk was irritated. The caravans had been stopped at Giza for some time, waiting for the wars to end. “But God’s will be done,” the monk said.

“Exactly,” answered the alchemist.

When the pan had cooled, the monk and the boy looked at it, dazzled. The lead had dried into the shape of the pan, but it was no longer lead. It was gold.

“Will I learn to do that someday?” the boy asked.

“This was my Personal Legend, not yours,” the alchemist answered. “But I wanted to show you that it was possible.”

They returned to the gates of the monastery. There, the alchemist separated the disk into four parts.

“This is for you,” he said, holding one of the parts out to the monk. “It’s for your generosity to the pilgrims.”

“But this payment goes well beyond my generosity,” the monk responded.

“Don’t say that again. Life might be listening, and give you less the next time.”

The alchemist turned to the boy. “This is for you. To make up for what you gave to the general.”

The boy was about to say that it was much more than he had given the general. But he kept quiet, because he had heard what the alchemist said to the monk.

“And this is for me,” said the alchemist, keeping one of the parts. “Because I have to return to the desert, where there are tribal wars.”

He took the fourth part and handed it to the monk.

“This is for the boy. If he ever needs it.”

“But I’m going in search of my treasure,” the boy said. “I’m very close to it now.”

“And I’m certain you’ll find it,” the alchemist said.

“Then why this?”

“Because you have already lost your savings twice. Once to the thief, and once to the general. I’m an old, superstitious Arab, and I believe in our proverbs. There’s one that says, ‘Everything that happens once can never happen again. But everything that happens twice will surely happen a third time.’” They mounted their horses.

 

“I WANT TO TELL YOU A STORY ABOUT DREAMS,” SAID THE alchemist.

The boy brought his horse closer.

“In ancient Rome, at the time of Emperor Tiberius, there lived a good man who had two sons. One was in the military, and had been sent to the most distant regions of the empire. The other son was a poet, and delighted all of Rome with his beautiful verses.

“One night, the father had a dream. An angel appeared to him, and told him that the words of one of his sons would be learned and repeated throughout the world for all generations to come. The father woke from his dream grateful and crying, because life was generous, and had revealed to him something any father would be proud to know.

“Shortly thereafter, the father died as he tried to save a child who was about to be crushed by the wheels of a chariot. Since he had lived his entire life in a manner that was correct and fair, he went directly to heaven, where he met the angel that had appeared in his dream.

“‘You were always a good man,’ the angel said to him. ‘You lived your life in a loving way, and died with dignity. I can now grant you any wish you desire.’

“‘Life was good to me,’ the man said. ‘When you appeared in my dream, I felt that all my efforts had been rewarded, because my son’s poems will be read by men for generations to come. I don’t want anything for myself. But any father would be proud of the fame achieved by one whom he had cared for as a child, and educated as he grew up. Sometime in the distant future, I would like to see my son’s words.’

“The angel touched the man’s shoulder, and they were both projected far into the future. They were in an immense setting, surrounded by thousands of people speaking a strange language.

“The man wept with happiness.

“‘I knew that my son’s poems were immortal,’ he said to the angel through his tears. ‘Can you please tell me which of my son’s poems these people are repeating?’

“The angel came closer to the man, and, with tenderness, led him to a bench nearby, where they sat down.

“‘The verses of your son who was the poet were very popular in Rome,’ the angel said. ‘Everyone loved them and enjoyed them. But when the reign of Tiberius ended, his poems were forgotten. The words you’re hearing now are those of your son in the military.’

“The man looked at the angel in surprise.

“‘Your son went to serve at a distant place, and became a centurion. He was just and good. One afternoon, one of his servants fell ill, and it appeared that he would die. Your son had heard of a rabbi who was able to cure illnesses, and he rode out for days and days in search of this man. Along the way, he learned that the man he was seeking was the Son of God. He met others who had been cured by him, and they instructed your son in the man’s teachings. And so, despite the fact that he was a Roman centurion, he converted to their faith. Shortly thereafter, he reached the place where the man he was looking for was visiting.’

“‘He told the man that one of his servants was gravely ill, and the rabbi made ready to go to his house with him. But the centurion was a man of faith, and, looking into the eyes of the rabbi, he knew that he was surely in the presence of the Son of God.’

“‘And this is what your son said,’ the angel told the man. ‘These are the words he said to the rabbi at that point, and they have never been forgotten: “My Lord, I am not worthy that you should come under my roof. But only speak a word and my servant will be healed.””’

The alchemist said, “No matter what he does, every person on earth plays a central role in the history of the world. And normally he doesn’t know it.”

The boy smiled. He had never imagined that questions about life would be of such importance to a shepherd.

“Good-bye,” the alchemist said.

“Good-bye,” said the boy.

 

THE BOY RODE ALONG THROUGH THE DESERT FOR SEVERAL hours, listening avidly to what his heart had to say. It was his heart that would tell him where his treasure was hidden.

“Where your treasure is, there also will be your heart,” the alchemist had told him.

But his heart was speaking of other things. With pride, it told the story of a shepherd who had left his flock to follow a dream he had on two different occasions. It told of Personal Legend, and of the many men who had wandered in search of distant lands or beautiful women, confronting the people of their times with their preconceived notions. It spoke of journeys, discoveries, books, and change.

As he was about to climb yet another dune, his heart whispered, “Be aware of the place where you are brought to tears. That’s where I am, and that’s where your treasure is.”

The boy climbed the dune slowly. A full moon rose again in the starry sky: it had been a month since he had set forth from the oasis. The moonlight cast shadows through the dunes, creating the appearance of a rolling sea; it reminded the boy of the day when that horse had reared in the desert, and he had come to know the alchemist. And the moon fell on the desert’s silence, and on a man’s journey in search of treasure.

When he reached the top of the dune, his heart leapt. There, illuminated by the light of the moon and the brightness of the desert, stood the solemn and majestic Pyramids of Egypt.

The boy fell to his knees and wept. He thanked God for making him believe in his Personal Legend, and for leading him to meet a king, a merchant, an Englishman, and an alchemist. And above all for his having met a woman of the desert who had told him that love would never keep a man from his Personal Legend.

If he wanted to, he could now return to the oasis, go back to Fatima, and live his life as a simple shepherd. After all, the alchemist continued to live in the desert, even though he understood the Language of the World, and knew how to transform lead into gold. He didn’t need to demonstrate his science and art to anyone. The boy told himself that, on the way toward realizing his own Personal Legend, he had learned all he needed to know, and had experienced everything he might have dreamed of.

But here he was, at the point of finding his treasure, and he reminded himself that no project is completed until its objective has been achieved. The boy looked at the sands around him, and saw that, where his tears had fallen, a scarab beetle was scuttling through the sand. During his time in the desert, he had learned that, in Egypt, the scarab beetles are a symbol of God.

Another omen! The boy began to dig into the dune. As he did so, he thought of what the crystal merchant had once said: that anyone could build a pyramid in his backyard. The boy could see now that he couldn’t do so if he placed stone upon stone for the rest of his life.

Throughout the night, the boy dug at the place he had chosen, but found nothing. He felt weighted down by the centuries of time since the Pyramids had been built. But he didn’t stop. He struggled to continue digging as he fought the wind, which often blew the sand back into the excavation. His hands were abraded and exhausted, but he listened to his heart. It had told him to dig where his tears fell.

As he was attempting to pull out the rocks he encountered, he heard footsteps. Several figures approached him. Their backs were to the moonlight, and the boy could see neither their eyes nor their faces.

“What are you doing here?” one of the figures demanded.

Because he was terrified, the boy didn’t answer. He had found where his treasure was, and was frightened at what might happen.

“We’re refugees from the tribal wars, and we need money,” the other figure said. “What are you hiding there?”

“I’m not hiding anything,” the boy answered.

But one of them seized the boy and yanked him back out of the hole. Another, who was searching the boy’s bags, found the piece of gold.

“There’s gold here,” he said.

The moon shone on the face of the Arab who had seized him, and in the man’s eyes the boy saw death.

“He’s probably got more gold hidden in the ground.”

They made the boy continue digging, but he found nothing. As the sun rose, the men began to beat the boy. He was bruised and bleeding, his clothing was torn to shreds, and he felt that death was near.

“What good is money to you if you’re going to die? It’s not often that money can save someone’s life,” the alchemist had said. Finally, the boy screamed at the men, “I’m digging for treasure!” And, although his mouth was bleeding and swollen, he told his attackers that he had twice dreamed of a treasure hidden near the Pyramids of Egypt.

The man who appeared to be the leader of the group spoke to one of the others: “Leave him. He doesn’t have anything else. He must have stolen this gold.”

The boy fell to the sand, nearly unconscious. The leader shook him and said, “We’re leaving.”

But before they left, he came back to the boy and said, “You’re not going to die. You’ll live, and you’ll learn that a man shouldn’t be so stupid. Two years ago, right here on this spot, I had a recurrent dream, too. I dreamed that I should travel to the fields of Spain and look for a ruined church where shepherds and their sheep slept. In my dream, there was a sycamore growing out of the ruins of the sacristy, and I was told that, if I dug at the roots of the sycamore, I would find a hidden treasure. But I’m not so stupid as to cross an entire desert just because of a recurrent dream.”

And they disappeared.

The boy stood up shakily, and looked once more at the Pyramids. They seemed to laugh at him, and he laughed back, his heart bursting with joy.

Because now he knew where his treasure was.

 

EPILOGUE

THE BOY REACHED THE SMALL, ABANDONED CHURCH JUST as night was falling. The sycamore was still there in the sacristy, and the stars could still be seen through the half-destroyed roof. He remembered the time he had been there with his sheep; it had been a peaceful night…except for the dream.

Now he was here not with his flock, but with a shovel.

He sat looking at the sky for a long time. Then he took from his knapsack a bottle of wine, and drank some. He remembered the night in the desert when he had sat with the alchemist, as they looked at the stars and drank wine together. He thought of the many roads he had traveled, and of the strange way God had chosen to show him his treasure. If he hadn’t believed in the significance of recurrent dreams, he would not have met the Gypsy woman, the king, the thief, or…“Well, it’s a long list. But the path was written in the omens, and there was no way I could go wrong,” he said to himself.

He fell asleep, and when he awoke the sun was already high. He began to dig at the base of the sycamore.

“You old sorcerer,” the boy shouted up to the sky. “You knew the whole story. You even left a bit of gold at the monastery so I could get back to this church. The monk laughed when he saw me come back in tatters. Couldn’t you have saved me from that?”

“No,” he heard a voice on the wind say. “If I had told you, you wouldn’t have seen the Pyramids. They’re beautiful, aren’t they?”

The boy smiled, and continued digging. Half an hour later, his shovel hit something solid. An hour later, he had before him a chest of Spanish gold coins. There were also precious stones, gold masks adorned with red and white feathers, and stone statues embedded with jewels. The spoils of a conquest that the country had long ago forgotten, and that some conquistador had failed to tell his children about.

The boy took out Urim and Thummim from his bag. He had used the two stones only once, one morning when he was at a marketplace. His life and his path had always provided him with enough omens.

He placed Urim and Thummim in the chest. They were also a part of his new treasure, because they were a reminder of the old king, whom he would never see again.

It’s true; life really is generous to those who pursue their Personal Legend, the boy thought. Then he remembered that he had to get to Tarifa so he could give one-tenth of his treasure to the Gypsy woman, as he had promised. Those Gypsies are really smart, he thought. Maybe it was because they moved around so much.

The wind began to blow again. It was the levanter, the wind that came from Africa. It didn’t bring with it the smell of the desert, nor the threat of Moorish invasion. Instead, it brought the scent of a perfume he knew well, and the touch of a kiss—a kiss that came from far away, slowly, slowly, until it rested on his lips.

The boy smiled. It was the first time she had done that.

“I’m coming, Fatima,” he said.

 

ABOUT THE AUTHOR

PAULO COELHO was born in Rio de Janeiro, Brazil, the city where he now lives. His own life has in many ways been as varied and unusual as the protagonists of his internationally acclaimed novels. Like them, Paulo Coelho has followed a dream in a quest for fulfillment. His own dream, to be a writer, met with frustration throughout much of his early adult life, a time in which he worked at various professions, some of them materially rewarding but spiritually unfulfilling. “I always knew,” he says, “that my Personal Legend, to use a term from alchemy, was to write.” He was thirty-eight when he published his first book.

In 1970, after deciding that law school was not for him, he traveled through much of South America, North Africa, Mexico, and Europe. Returning to Brazil after two years, he began a successful career as popular songwriter. In 1974, he was imprisoned for a short time by the military dictatorship then ruling in Brazil. In 1980, he experienced one of the defining moments of his life: he walked the five hundred-plus mile Road of Santiago de Compostela in northwestern Spain. On this ancient highway, used for centuries by pilgrims from France to get to the cathedral said to house the remains of St. James, he achieved a self-awareness and a spiritual awakening that he later described in The Pilgrimage.

Paulo Coelho once said that following your dream is like learning a foreign language; you will make mistakes but you will get there in the end. In 1988, he published The Alchemist, a novel that explores this theme, and it launched him as an international bestselling author. Specifically, Paulo Coelho is recognized for his powerful storytelling technique and the profound spiritual insights he blends seamlessly into his parables. Since then, The Alchemist has sold more than twenty million copies worldwide and has been translated into some fifty-six languages. In addition to The Pilgrimage and The Alchemist, Paulo Coelho has written luminous novels about the different streams of our lives, including By the River Piedra I Sat Down and Wept, The Valkyries, The Fifth Mountain, and Veronika Decides to Die. A winner of numerous literary prizes, Paulo Coelho is also a prominent speaker for humanitarian causes. In 1999, he received a Crystal Award for Artistic Achievement at the Davos Economic Forum Conference.

 

➖➖➖