
Paulo Coelho
Vào truyện
Nhà luyện kim đan cầm lấy quyển sách mà một người trong đoàn lữ hành mang theo. Quyển sách đã cũ và long gáy nhưng ông vẫn đọc được tên tác giả: Oscar Wilde. Mở ra đọc, ông thấy có một câu chuyện về hoa thủy tiên. Dĩ nhiên, ông không lạ gì truyền thuyết về chàng Narziss xinh trai, ngày ngày soi mặt trên hồ nước để tự chiêm ngưỡng sắc đẹp của mình. Chàng say mê chính mình đến nỗi một ngày kia nghiêng quá đà, ngã xuống hồ và chết đuối. Thế là từ nơi đó mọc lên một bông hoa đẹp, mang tên chàng Narziss nọ. Nhưng Oscar Wilde không kết thúc câu chuyện như thế mà kể rằng sau khi chàng chết, những nàng tiên trong rừng hiện ra, thấy hồ nước ngọt kia giờ đã biến thành một đầm lầy mặn vì nước mắt.
“Vì sao em khóc?” – các nàng tiên hỏi.
“Vì em thương tiếc chàng Narziss”, hồ nước đáp.
“Phải rồi. Các chị chẳng ngạc nhiên tí nào. Và tuy tất cả chúng ta đều theo đuổi chàng nhưng chỉ mình em được chiêm ngưỡng sắc đẹp tuyệt vời ấy”.
“Chàng xinh trai đến thế ư?”, hồ nước ngơ ngác hỏi.
“Còn ai biết điều này rõ hơn là em chứ?” – các nàng tiên ngạc nhiên – “ngày nào mà chàng chẳng cúi người soi mình trên mặt hồ”.
Nghe thế, hồ nước im lặng hồi lâu rồi mới đáp: “Đúng là em khóc chàng Narziss, nhưng em chưa bao giờ để ý rằng chàng đẹp trai đến thế. Em khóc chàng vì mỗi lần chàng soi người trên mặt hồ thì em mới thấy được sắc đẹp của chính em hiện lên rõ trong đôi mắt chàng”.
“Quả là một câu chuyện tuyệt vời”, nhà luyện kim đan nói.
-
PHẦN MỘT
1🐫
Khi cậu chăn cừu Santiago xua được đàn cừu về đến ngôi nhà thờ cổ và hoang phế thì trời đã sẩm tối. Ngôi nhà thờ này đã bị sập mái từ khá lâu rồi và nơi xưa kia là phòng thay áo lễ nay sừng sững một cây dâu tằm to tướng. Cậu quyết định ngủ qua đêm tại đấy. Thế là cậu lùa lũ cừu qua khung cửa đã hư hại rồi chắn lại bằng vài thanh gỗ để đêm đến lũ vật khỏi chui ra. Tuy vùng này không có chó sói nhưng đã có đêm một con cừu chui ra ngoài khiến hôm sau cậu mất cả ngày đi tìm. Rồi cậu trải áo khoác trên nền đất, ngả lưng và dùng quyển sách đang dọc dở làm gối. Trước khi ngủ, cậu tự nhủ sau này phải tìm những sách dày hơn để vừa có thể đọc được lâu, vừa có thể dùng làm gối tốt hơn. Khi cậu thức giấc thì trời còn tối mịt. Nhìn lên trời cao, cậu thấy sao lấp lánh giữa những xà ngang. “Mình còn muốn ngủ tiếp mà”, cậu thầm nghĩ. Cậu lại vừa mơ giấc mơ y hệt cách đây một tuần và lần này cũng thức giấc giữa cơn mơ. Cậu ngồi dậy, uống một hớp vang rồi dùng loại gậy của người chăn cừu đánh thức từng con một. Càng ngày cậu càng có cảm tưởng là lũ vật cùng thức dậy một lượt với mình như thể có một sự hòa điệu thần bí giữa đời cậu và những con vật từ hai năm nay đi theo cậu, nay đây mai đó, tìm thức ăn và nước uống. “Chúng đã quá quen với mình nên biết luôn cả giờ giấc của mình”, cậu nghĩ. Nhưng sau một lúc suy ngẫm cậu lại thấy có thể ngược lại lắm, rằng cậu đã quen với giờ giấc của bầy cừu. Một vài con chưa chịu dậy ngay. Cậu lấy gậy đánh thức, gọi tên từng con một. Cậu luôn luôn có cảm tưởng lũ cừu hiểu biết những gì mình nói. Cho nên đôi lúc cậu đọc cho chúng nghe vài đoạn trong những quyển sách mà cậu đặc biệt thích, hoặc cậu triết lí về cuộc sống đơn độc và niềm vui của người chăn cừu, hay là bình phẩm về những tin mới biết được nơi những thành phố câu thường đi qua. Nhưng từ hai ngày nay cậu hầu như chỉ nói về một đề tài: cô con gái của một nhà buôn ở cái thành phố nhỏ mà bốn ngày nữa cậu và lũ cừu sẽ đến. Năm ngoái là lần đầu tiên cậu đến nhà người lái buôn này, chủ một cửa hàng vải vóc. Ông ta đòi phải xén lông cừu ngay trước cửa hàng để khỏi bị lọc lừa. Lần đó một người quen đã giới thiệu với cậu cửa hàng này và giờ đây cậu lại dẫn bầy cừu đến đó.
2🐫
“Tôi muốn bán lông cừu”, lần đó cậu đã nói với ông nhà buôn kia như thế. Cửa tiệm đang đầy khách hàng nên ông ta yêu cầu chàng chăn cừu đợi đến xế trưa. Thế là cậu ngồi ngay xuống lề đường trước cửa hiệu, lôi trong bị ra một quyển sách.
“Mình không biết là chăn cừu mà cũng đọc được sách đấy”, một giọng con gái cất lên ngay cạnh cậu.
Đúng là một cô gái đất Andalusia (Andalusia: vùng phía nam Tây Ban Nha, sát Đại Tây Dương và Địa Trung Hải), với mái tóc đen dài và đôi mắt phảng phất nét người Mauren (Người Mauren (tiếng Anh: Moor): một sắc dân du mục ở Bắc Phi, đã đô hộ Tây Ban Nha từ thế kỉ VIII đến thế kỉ XV) xâm lược xưa kia.
“Bởi vì giống cừu còn dạy tôi biết được nhiều điều hơn là sách vở”, cậu đáp.
Hai người trò chuyện tíu tít suốt hơn hai tiếng. Cô gái cho biết mình là con người chủ tiệm kia và kể về cuộc sống đơn điệu, ngày nào như ngày nấy ở đó. Về phần mình, cậu chăn cừu kể về phong cảnh vùng Andalusia và về những tin mới lạ ở những nơi cậu đã đi qua. Cậu lấy làm vui sướng vì có người lắng nghe chuyện mình.
“Anh học đọc sách như thế nào?”, cô muốn biết.
“Trong trường học, như mọi người khác”, cậu đáp.
“Nhưng nếu anh đọc sách được thì sao anh chỉ thành một người chăn cừu bình thường thôi?”.
Cậu bối rối vì tin chắc rằng cô sẽ không hiểu nổi cậu. Để tránh né trả lời, cậu tiếp tục kể về hành trình của mình và đôi mắt nhỏ phảng phất mắt người Mauren của cô gái khi tròn xoe, lúc nheo lại vì kinh ngạc. Thời gian trôi qua, còn cậu thầm ước ngày hôm ấy đừng bao giờ chấm dứt, hoặc là bố cô cứ tiếp tục để cậu chờ thêm ba ngày nữa. Cậu thấy một cảm giác khác lạ chưa từng biết đến: đó là mơ ước được sống ổn định một nơi. Có cô gái này bên cạnh thì chẳng còn ngày nào là nhàm chán nữa. Nhưng rồi ông nhà buôn đến, bảo xén cho lông bốn con cừu, trả tiền ngay rồi bảo cậu sang năm trở lại.
3🐫
Bây giờ chỉ còn có bốn ngày đường nữa là đến thành phố kia. Cậu nao nức nhưng lòng lại bồn chồn: biết đâu cô gái đã quên cậu lâu rồi. Thiếu gì người chăn cừu đi qua đấy để bán lông cừu.
“Chẳng cần”, cậu nói to với bầy cừu, “bề gì tao cũng quen khối con gái ở bao thành phố khác”.
Nhưng trong thâm tâm cậu biết mình không thể chẳng cần, vì rằng bất cứ người chăn cừu, người thủy thủ hay người khách thương nay đây mai đó nào cũng có ở đâu đó một kẻ khiến cho họ quên mất thú vui được tự do giang hồ đi cùng trời cuối đất.
4🐫
Trời hửng sáng. Cậu chăn cừu lùa lũ vật đi về hướng mặt trời mọc.
‘Loài vật chẳng bao giờ phải tự quyết định về bất cứ chuyện gì’, cậu nghĩ. ‘Có lẽ vì vậy mà chúng quấn quýt với mình’.
Nhu cầu duy nhất của lũ cừu là ăn và uống. Bao lâu còn dẫn chúng đến được những đồng cỏ mượt mà của vùng Andalusia thì chúng vẫn mãi là những người bạn thân thiết, dù cho một ngày như mọi ngày với những giờ tẻ nhạt trôi qua từ lúc hừng đông đến khi mặt trời lặn, dù cho chúng không hề đọc một quyển sách trong cuộc sống ngắn ngủi và không bao giờ hiểu được tiếng người ta kháo nhau về những chuyện mới lạ ở nơi này nơi nọ. Được cho ăn và cho uống là chúng hài lòng. Với chúng thì thế là đủ. Đổi lại, chúng là những người bạn đồng hành đem lại niềm vui, cống hiến nhiều len và thỉnh thoảng cả thịt nữa.
‘Nếu bất chợt mình biến thành một kẻ hung ác, giết hết con này đến con khác thì chắc khi cả lũ chết gần hết rồi chúng mới biết’, cậu thầm nghĩ. ‘Vì chúng mù quáng tin vào mình, chứ không còn tin ở bản năng của chúng nữa. Chỉ bởi vì mình là kẻ dẫn chúng đến những đồng cỏ xanh và nguồn nước mát.’
Cậu chợt ngạc nhiên trước những suy nghĩ này của chính mình. Có lẽ ngôi nhà thờ cổ này cùng với cây dâu tằm bị ma ám rồi chăng. Dù sao đi nữa thì cũng tại hai thứ này mà cậu mơ giấc mơ kia thêm lần thứ hai và vô cớ tức bực với những người bạn đồng hành trung thành của mình. Cậu uống một ngụm vang còn lại của chiều hôm trước và kéo áo khoác sát mình hơn. Cậu biết chỉ ít giờ nữa, khi mặt trời đứng bóng thì sẽ quá nóng, không lùa cừu đi trên đồng cỏ được nữa. Lúc đó cả nước Tây Ban Nha sẽ ngủ giấc trưa hè. Nóng tới tận chiều, thế mà cậu vẫn phải tha theo người chiếc áo khoác. Nhưng mỗi khi sắp càu nhàu về cái áo nặng như cùm kia thì cậu lại thấy biết ơn nó vì nhờ nó mà sáng ra cậu không bị rét run người.
‘Mình luôn luôn phải phòng khi thời tiết giở chứng bất thường’, cậu nghĩ và thấy sung sướng có cái áo khoác nặng.
Cái áo, cũng như cuộc đời cậu, có ý nghĩa của nó. Sau hai năm rong ruổi, cậu biết tường tận mọi thành phố vùng Andalusia và cả mục đích của đời mình, đó là: đi du hành. Cậu định lần này sẽ giải thích cho cô gái biết vì sao mà cậu, một gã chăn cừu bình thường, lại biết đọc. Cho tới năm mười sáu tuổi cậu còn theo học trong một chủng viện. Cha mẹ cậu mong cậu sẽ trở thành linh mục; được như thế thì mọi gia đình nông dân bình thường như gia đình cậu sẽ rất tự hào. Vì chính những người nông dân này đến nay cũng chỉ sống nhờ ăn và uống, chẳng khác gì bầy cừu của cậu. Thế là cậu được học tiếng Latinh, tiếng Tây Ban Nha và thần học. Nhưng từ nhỏ cậu đã mơ ước đi cùng khắp thế giới bao la và điều này đối với cậu quan trọng hơn là biết về Chúa và tội lỗi của loài người. Rồi vào một buổi xế trưa, nhân dịp về nhà thăm cha mẹ, cậu thu hết can đảm nói với bố rằng mình không muốn trở thành linh mục, mà muốn được đi đây đó.
5🐫
“Từ bốn phường trời thiên hạ đã đến nơi đây rồi, con ạ”, lần ấy bố cậu nói. “Họ đến để tìm sự mới lạ, nhưng rồi thì họ vẫn mãi là chính họ. Họ leo lên đồi để xem thành quách rồi cho rằng quá khứ hay ho hơn hiện tại. Dù tóc họ vàng hay da họ ngăm, nói chung họ cũng giống như dân thành phố này cả thôi”.
“Nhưng con chưa biết các thành quách ở đất nước họ”, cậu đáp.
“Khi đã quen phong thổ và phụ nữ vùng này rồi thì những người đàn ông nọ nói rằng họ muốn vĩnh viễn ở lại đây”, ông bố nói tiếp.
“Con cũng rất muốn biết về phụ nữ và đất nước của họ”, cậu thú nhận. “Vì thật ra họ có hề ở lại đây mãi đâu”.
“Họ thừa tiền, thừa bạc con ạ”, ông bố đáp. “Còn vùng mình chỉ có người chăn cừu mới phải nay đây mai đó thôi”.
“Thế thì con sẽ làm kẻ chăn cừu”.
Ông bố không nói gì nữa cả. Hôm sau ông cho cậu một túi tiền đựng ba đồng tiền vàng cổ Tây Ban Nha. “Bố tình cờ tìm thấy trong ruộng nhà ta cách đây lâu rồi. Lẽ ra là tiền để cho con được nhận vào nhà thờ đấy. Con lấy mà mua một đàn cừu, rồi đi khắp nơi khắp chốn cho đến khi con hiểu ra rằng làng mạc, thành quách vùng mình tuyệt vời nhất, phụ nữ vùng mình xinh đẹp nhất.”
Rồi ông ban phúc chúc lành cho cậu. Cậu đọc thấy trong mắt bố cũng chính niềm mơ ước được phiêu du. Nó vẫn sống mãi trong ông sau hàng chục năm tìm cách lãng quên qua những lo toan sao cho có cái ăn, cái uống hằng ngày và một chốn nương thân.
6🐫
Chân trời đỏ ối, mặt trời dần lên. Cậu chăn cừu nhớ đến lần chuyện trò với bố và cảm thấy sung sướng; từ đó đến nay cậu đã qua nhiều thành quách và quen biết nhiều phụ nữ nhưng không có ai giống như cô gái cậu sẽ gặp lại trong ít ngày tới. Cậu có cái áo khoác, một quyển sách mà cậu có thể đổi lấy một quyển khác và một đàn cừu. Nhưng cái chính là mỗi ngày cậu đều thực hiện được ước mơ của mình: đi khắp đó đây. Khi nào chán vùng Andalusia bao la, cậu có thể bán bầy cừu để trở thành thủy thủ. Rồi khi chán biển cả, cậu có thể thăm thú mọi thành phố, làm quen với bao phụ nữ và thử mọi phương cách để đạt hạnh phúc. “Mình thật không hiểu nổi làm sao người ta có thể tìm thấy Chúa trong lớp học cho chúng sinh được”, cậu nghĩ trong lúc ngắm nhìn mặt trời lên.
Vì cậu luôn tìm những con đường mới để đi nếu điều kiện cho phép, nên dù đã nhiều lần qua lại vùng này nhưng trước đây cậu chưa từng vào ngôi nhà thờ hoang tàn nọ. Thế giới bao la vô cùng tận; giả thử cứ để cho bầy cừu dẫn đi thì chắc hẳn cậu sẽ còn phát hiện được nhiều điều hay ho nữa. “Chúng không nhận ra rằng ngày ngày chúng đi đường mới. Chúng không biết đồng cỏ khác nhau và bốn mùa thay đổi, vì chúng chỉ lo có mỗi chuyện ăn và uống.
Nhưng biết đâu con người cũng y như thế”, cậu nghĩ. “Ngay chính mình cũng không nghĩ đến cô gái nào khác từ khi quen con gái chủ tiệm vải nọ.” Cậu nhìn trời và áng chừng sẽ đến Tarifa trước giữa trưa. Ở đấy cậu có thể đổi quyển sách lấy quyển dầy hơn, mua đầy bình rượu vang, cạo râu, cắt tóc. Cậu định chuẩn bị cho bảnh để đi gặp cô gái chứ không muốn thắc mắc rằng biết đâu một gã chăn cừu khác với một bầy cừu lớn hơn đã đến đó trước cậu và hỏi cưới nàng rồi. “Chỉ khi nào có khả năng thực hiện được giấc mơ thì cuộc sống mới đáng sống”, cậu cân nhắc trong lúc nhìn trời lần nữa và rảo bước. Cậu chợt nhớ ra rằng ở Tarifa có một bà già giải đoán được mộng mị. Mà tối hôm qua cậu lại mơ y như lần trước.
7🐫
Bà lão dẫn khách vào phòng trong của ngôi nhà, ngăn với phòng khách bởi tấm mành làm bằng các dải nylon sặc sỡ. Ở đấy có một cái bàn, hai cái ghế và một hình Chúa Jesu.
Bà lão ngồi rồi bảo cậu ngồi theo. Xong, bà nắm lấy hai bàn tay cậu, khẽ lẩm bẩm đọc kinh.
Nghe như kinh của người Zigeuner (Zigeuner: (tiếng Anh: gypspy) một sắc dân “du cư”, gốc từ Ấn Độ, sang châu Âu từ thế kỉ XV). Trong cuộc hành trình cậu đã từng gặp không ít người Zigeuner rồi; họ cũng đi khắp nơi này nơi khác tuy không chăn cừu như cậu. Người ta bảo rằng dân Zigeuner chuyên lọc lừa. Người ta còn nói thêm rằng họ liên minh với ma quỷ, rằng họ cướp trẻ thơ, bắt chúng làm nô lệ trong các khu lều âm u của họ. Thuở nhỏ cậu rất sợ bị người Zigeuner bắt cóc, thành ra khi bà lão nắm tay thì nỗi sợ xưa lại ập đến.
“Nhưng bà ta treo hìng Chúa Jesu trên tường mà”, cậu tìm cách tự trấn an. Cậu không muốn tay mình run lên để bà lão không nhận ra được rằng mình đang sợ. Cậu thầm đọc kinh lạy Cha.
“Lạ thật”, bà lão nói, mắt vẫn nhìn chăm chắm đôi bàn tay cậu; rồi im bặt.
Cậu càng thêm lo. Bà lão nhận thấy tay cậu bỗng dưng run lên. Cậu vội rụt tay về.
“Tôi đến đây không phải để nhờ xem chỉ tay”, cậu nói và ân hận đã đến chốn này. Trong một khoảnh khắc cậu nghĩ tốt hơn cả nên trả tiền rồi chuồn thẳng. Đúng là cậu đã quá quan trọng hóa giấc mơ của mình.
“Cậu đến đây vì muốn tìm hiểu về giấc mơ”, bà lão đáp. “Mà mơ là ngôn ngữ của Chúa. Nếu người nói bằng ngôn ngữ thế gian thì ta giải đoán được. Nhưng nếu người nói bằng ngôn ngữ của tâm hồn thì chỉ mình cậu có thể hiểu được thôi. Tuy thế ta cũng thử xem sao”.
“Lại một kế mọn”, cậu chăn cừu nghĩ. Tuy thế cậu muốn thử một lần xem sao. Chẳng gì người chăn cừu cũng liều đối phó với chó sói và khô hạn, vì thế mà nghề này mới hứng thú.
“Tôi nằm mộng hai lần liên tiếp”, cậu nói. “Mơ thấy mình và bầy cừu đang trên đồng cỏ, chợt một đứa trẻ không biết từ đâu đến, chơi với bầy cừu. Đúng ra tôi không thích có ai quấy rầy lũ cừu của tôi vì chúng vốn sợ người lạ. Nhưng trẻ con luôn nô đùa với chúng được mà không làm chúng hoảng. Tôi không hiểu tại sao. Do đâu mà cừu biết được tuổi tác của người nhỉ?”.
“Vào chuyện chính đi thôi”, bà lão ngắt lời. “Ta còn một cái nồi to đang đặt trên bếp cần phải trông chừng. Hơn nữa cậu chỉ có chút tiền còm thì không thể làm ta mất nhiều thời giờ được.”
“Đứa trẻ chơi với bầy cừu một lúc”, cậu ngượng nghịu kể tiếp. “Rồi chợt nó nắm tay tôi dẫn đến Kim Tự Tháp bên Ai Cập.”
Cậu chờ một chút để chờ phản ứng của bà lão nhưng bà chẳng nói gì.
“Rồi ở Kim Tự Tháp bên Ai Cập”, cậu nhấn mạnh sáu chữ sau để bà lão rõ, “đứa bé nói với tôi: “nếu anh đến đây thì anh sẽ tìm thấy một kho tàng chôn giấu bí mật, không ai biết.” Rồi khi nó định chỉ cho tôi chỗ chính xác của kho tàng thì tôi thức giấc. Cả hai lần đều y như vậy.”
Bà lão im lặng thêm một lúc rồi lại cầm lấy hai bàn tay cậu chăn cừu, chăm chú nhìn.
“Bây giờ ta không đòi cậu chút thù lao nào hết”, bà lão nói. “Nhưng ta muốn được hưởng một phần mười kho tàng khi cậu tìm thấy nó.”
Cậu chăn cừu cười vui thích. Nhờ một kho tàng trong mơ mà cậu tiết kiệm đươc chút tiền còm hiện có. Đúng là một bà lão Zigeuner có khác, ngờ nghệch hết sức.
“Được thôi, bà giải đoán đi”, cậu đáp.
“Trước đó cậu phải thề sẽ trả ta một phần mười kho tàng là tiền công cho điều ta sắp giải đoán.”
Cậu thề và bà lão yêu cầu cậu lặp lại lời thề trước hình Chúa.
“Đây là một giấc mơ thuộc ngôn ngữ thế gian”, bà lão nói, “do đó ta có thể giải đoán được. Nhưng việc giải đoán này rất khó. Thành ra ta được hưởng một phần kho tàng của cậu cũng đáng thôi.
Ý nghĩa nó như thế này: cậu hãy đi đến Kim Tự Tháp Ai Cập. Tuy ta chưa từng nghe nói đến cái tháp đó bao giờ nhưng một khi đứa trẻ đã chỉ đường cho cậu thì nhất định phải có. Cậu sẽ tìm thấy ở đấy cái kho tàng khiến cậu giàu to.”
Cậu chăn cừu sửng sốt rồi thất vọng. Nếu chỉ có thế thì cậu chẳng cần mất công tới đây làm gì. Song dẫu sao cậu cũng chưa phải trả gì hết.
“Nếu chỉ để biết có bấy nhiêu thì lẽ ra tôi không cần mất thì giờ như thế này”, cậu nói.
“Chính vì thế mà ta đã nói rồi, rằng đây là một giấc mơ khó đoán. Những việc tưởng chừng như đơn giản trong cuộc sống thì thật ra là những việc hết sức phi thường, chỉ những bậc trí giả mới thấu hiểu nổi. Ta không phải là bậc trí giả nên phải dùng cách khác, chẳng hạn phải xem chỉ tay”.
“Thế tôi phải đến Ai Cập bằng cách nào đây?”
“Ta chỉ có thể giải đoán mộng thôi chứ không biết phải làm sao để biến chúng thành thật được. Chính vì thế mà ta phải sống nhờ vào thù lao khách trả.”
“Còn nếu tôi không bao giờ tới đươc Ai Cập thì sao ?”
“Thì ta không được trả thù lao. Không phải là lần đầu tiên đâu.”
Rồi bà lão không nói gì thêm nữa mà chỉ bảo cậu về đi vì bà đã mất quá nhiều thì giờ cho cậu rồi.
8🐫
Cậu chăn cừu thất vọng ra về và nhất quyết không bao giờ tin vào mộng mị nữa. Rồi cậu chợt nhớ còn phải giải quyết một vài việc: mua thức ăn, đổi sách lấy một quyển dầy hơn. Sau đó cậu ra ngoài bãi chợ, ngồi trên ghế băng thưởng thức rượu vang mới mua.
Hôm ấy trời rất nóng và chẳng hiểu sao vang lại làm cậu phấn chấn. Lũ cừu được gửi gắm chăm sóc cẩn thận nơi chuồng của một người bạn cậu mới quen ở lối vào thành phố. Cậu quen biết nhiều người ở vùng này. Cậu thích đi nhiều cũng vì thế. Luôn luôn kết được bạn mới mà không cần mất trọn thì giờ để sống bên họ. Nếu lúc nào cũng chỉ quen một số người thôi, như ở trường đạo, thì họ sẽ trở thành một phần không thể tách rời khỏi cuộc đời mình. Khi đã như thế thì họ muốn thay đổi cuộc đời mình. Rồi khi ta không muốn thay đổi như họ muốn thì họ sẽ thất vọng. Vì hình như ai cũng tưởng mình biết rất rõ người khác phải sống như thế nào cho đúng, trong khi lại mù mờ về cuộc sống của chính bản thân mình. Giống như bà lão giải mộng kia không biến nổi giấc mơ thành hiện thực vậy.
Cậu muốn chờ cho đến khi mặt trời xuống thấp nữa mới dẫn đàn cừu đi tiếp. Chỉ còn hơn ba ngày nữa là cậu sẽ gặp lại cô con gái của nhà buôn nọ.
Cậu bắt đầu đọc quyển sách mới nhận được của linh mục thành Tarifa. Sách dầy lắm và ngay trang đầu đã nói về một đám tang mà tên các nhân vật phức tạp quá. Nếu một ngày nào đó mình viết sách, cậu nghĩ, mình sẽ chỉ cho nhân vật này xuất hiện tiếp nhân vật khác để người đọc khỏi rối trí.
Tập trung đọc một lúc cậu mới thấy hay vì truyện viết về một đám tang trên tuyết trắng đã đem đến cho cậu một cảm giác tươi mát dưới cái nắng trưa gay gắt này. Cậu đang mê mải đọc thì một ông già đến ngồi cạnh và bắt chuyện.
“Họ làm gì đấy ?” ông già hỏi, tay chỉ những người đi lại hối hả trên bãi chợ.
“Làm việc”, cậu đáp cụt ngủn chủ ý cho thấy mình đang say mê đọc.
Nhưng thật ra cậu đang nghĩ đến việc sẽ xén lông cừu trước mắt cô con gái chủ tiệm để cô thấy cậu giỏi giang, làm được nhiều việc không dễ tí nào. Cậu đã nhiều lần tưởng tượng cảnh ấy và lần nào cô gái cũng sửng sốt khi cậu giải thích cho cô biết rằng phải xén lông cừu từ sau tới trước. Cậu cũng ráng nhớ vài ba giai thoại để có thể vừa làm vừa kể cô nghe. Phần lớn những giai thoại này cậu đọc trong mấy quyển sách nào đó nhưng lại muốn kể như thể chính mình đã chứng kiến. Đàng nào thì cô cũng không biết thực hư được vì cô không biết đọc.
Nhưng ông già không chịu buông. Ông kêu rằng mệt, khát và xin một hớp vang. Cậu đưa ông chai rượu, hi vọng rồi sẽ được để yên.
Nhưng ông già cứ nhất định bắt chuyện. Ông hỏi cậu đang đọc gì đấy. Cậu muốn tỏ ra bất lịch sự và đổi sang ghế khác quá nhưng bố cậu đã dạy phải kính trọng người già cả. Thành ra cậu đưa quyển sách cho ông, vì hai lí do: một là cậu không đọc được đúng tên sách, hai là nếu ông già không biết đọc thì có lẽ ông sẽ xấu hổ và tự sang ngồi ghế khác.
“Hừm…”, ông già ậm ừ rồi săm soi nhìn quyển sách như thể nó là một vật lạ. “Quyển này tuy là một tác phẩm lớn nhưng rất nhàm chán”.
Cậu chăn cừu sửng sốt. Không những ông già biết chữ mà còn đã đọc quyển sách đó rồi nữa. Nếu đúng là nhàm chán như ông già nói thì còn kịp để đổi lấy quyển khác.
“Nó cũng nói về cùng một vấn đề như mọi quyển sách khác thôi”, ông già nói tiếp. “Rằng con người không có khả năng lựa chọn lấy vận mệnh của mình. Và kết thúc rằng ai cũng tin vào cái điều bịp bợm nhất thế gian”.
9🐫
“Điều bịp bợm ấy là gì ?” cậu chăn cừu ngơ ngác hỏi.
“Đó là: vào một lúc nhất định trong đời, chúng ta không làm chủ được vận mệnh của mình nữa và rồi đời mình sẽ do định mệnh đưa đẩy. Đó chính là điều dối trá nhất thế gian!”
“Cháu thì không thế”, cậu đáp. “Người ta muốn cháu trở thành thầy tu nhưng cháu đã quyết định làm kẻ chăn cừu.” “Thế là phải lắm,” ông già nói. “Bởi cậu thích đi đây đi đó nhiều mà.”
“Ông này đọc được ý nghĩ của mình”, cậu ngẫm ngĩ. Trong lúc ấy ông già lần giở sách, không có vẻ gì muốn trả lại cả. Cậu chăn cừu nhìn bộ quần áo khác thường ông già mặc trên người. Trông ông như một người Arập, điều không có gì lạ ở vùng này. Châu Phi chỉ cách Tarifa có vài giờ đường thôi; chỉ cần dùng thuyền nhỏ vượt eo biển (Châu Phi cách Tây Ban Nha bởi eo biển Gibraltar) hẹp là tới. Người Arập thường đến thành phố này mua sắm và ngày nào cũng nhiều lần lâm râm đọc những bài kinh lạ tai của họ.
“Ông từ đâu đến?” cậu hỏi.
“Từ nhiều nơi.”
“Không ai có thể đến cùng lúc từ nhiều nơi khác nhau được”, cậu nói. “Cháu là kẻ chăn cừu và biết nhiều nơi nhưng đến thì chỉ từ một thành phố thôi; nó ở gần một nơi thành cổ. Cháu sinh ra ở đấy.”
“Thế thì có thể nói sinh quán ta ở Salem.”
Cậu chăn cừu không biết Salem ở đâu, nhưng không hỏi tiếp để khỏi bị xem là dối nát. Cậu nhìn những người lăng xăng đi lại trên bãi chợ một lúc lâu, người nào cũng có vẻ rất bận rộn.
“Salem giờ ra sao ?”, cậu hỏi, mong tìm được chút manh mối.
“Vẫn thường”.
Chẳng lần ra được chút gì. Cậu chỉ biết Salem không ở trong vùng Andalusia, bởi nếu có thì cậu đã nghe nói tới rồi.
“Thế ông làm gì ở Salem?” cậu hỏi tới.
“Ta làm gì ư ?” Ông già bật cười ha hả. “Ta là vua xứ Salem !”
‘Người ta cứ hay nói những chuyện lạ lùng’, cậu nghĩ thầm. “Đôi khi chơi với lũ cừu còn thích hơn vì chúng câm, chỉ biết tìm thức ăn và nước uống. Sách cũng giúp ta đỡ buồn bằng cách kể ta nghe những chuyện hay ho mỗi khi ta muốn nghe. Nhưng khi trò chuyện với người thì có thể họ sẽ nói những điều quái lạ khiến ta chịu không biết phải tiếp tục nói gì.”
“Tên ta là Melchisedek”, ông già nói. “Cậu có bao nhiêu cừu ?”
“Tạm đủ”, cậu nghi ngại đáp. Ông này muốn biết quá nhiều về cậu.
“Thế thì phiền lắm đấy vì ta sẽ không giúp cậu được gì nếu cậu cho rằng có đủ cừu”.
Đến đây thì cậu bực mình thực sự. Cậu có cầu được giúp đỡ gì đâu; ông già xin cậu rượu vang, bắt chuyện và mượn sách đấy chứ.
“Ông cho cháu xin lại quyển sách. Cháu phải trở lại chỗ bầy cừu rồi dẫn chúng đi tiếp.”
“Nếu cậu trả thù lao cho ta một phần mười số cừu của cậu thì ta sẽ chỉ cậu cách đến được cái kho tàng chôn giấu bí mật đó”, ông già nói.
Đến đây cậu chợt nhớ lại giấc mơ và bỗng thấy mọi sự như sáng tỏ. Mụ già giải mộng tuy không đòi gì hết nhưng bây giờ lão già này, có thể là chồng mụ lắm, sẽ lấy của cậu đổi lại một lời chỉ dẫn vô giá trị về một kho tàng không hề có. Chắc hẳn lão cũng là dân Zigeuner thôi.
Cậu chưa kịp mở miệng thì ông già đã cúi nhặt một cây que rồi viết trên mặt cát. Khi cúi như thế, có gì đó lóe sáng trên ngực ông làm cậu lóa mắt. Nhưng ông già, bằng một động tác phải nói là quá nhanh nhẹn ở vào tuổi ông, vội kéo áo khoác che lên. Khi mắt không còn lóa nữa, cậu đọc những gì ông già vừa viết.
Trên mặt cát bãi chợ là tên bố mẹ cậu. Cậu đọc về cuộc đời mình, những trò chơi thua nhỏ. Những đêm lạnh lẽo trong chủng viện; cậu đọc tên con gái chủ tiệm vải mà chính cậu còn chưa biết. Cậu đọc những chuyện của mình mà cậu chưa từng thổ lộ cùng ai – như vụ cậu lấy trộm súng của bố để đi săn hươu, chuyện lần đầu tiên trong đời tự thân tìm biết dục tính là gì.
10🐫
“Ta là vua xứ Salem”, ông già dõng dạc nói.
“Tại sao một vị vua lại đi trò chuyện với một kẻ chăn cừu tầm thường nhỉ?” cậu thắc mắc hỏi, có hơi xấu hổ về xuất thân của mình.
“Có nhiều lí do. Nhưng lí do chính là cậu đã thành công trong sự đeo đuổi vận mệnh của mình.”
Cậu chăn cừu chẳng hiểu thế nào là vận mệnh.
“Vận mệnh chính là điều mà anh luôn luôn muốn đạt được. Khi còn trẻ ai ai cũng biết vận mệnh của mình là gì.
Trong đoạn đời này mọi sự đều đơn giản và người ta dám mơ mộng đủ thứ về những điều họ muốn làm trong đời. Nhưng rồi, theo thời gian, một sức mạnh thần bí sẽ tìm cách thuyết phục ta rằng con đường đời như ta mơ ước sẽ không thể nào thực hiện được đâu.”
Cậu chăn cừu chẳng hiểu gì lắm những gì ông già nói. Tuy thế, cậu vẫn muốn biết sức mạnh thần bí kia nghĩa là gì. Rồi cô gái con chủ tiệm vải sẽ tròn xoe mắt nghe cậu giảng cho mà xem.
“Đó là một lực thần bí xem ra có vẻ không tốt lành nhưng trong thực tế lại giúp chúng ta đi hết con đường đời của mình. Lực thần bí này chuẩn bị cho tinh thần và ý chí ta sẵn sàng, bởi sự thật vĩ đại trên hành tinh này chính là: bất kể anh là ai, anh làm gì, khi anh thật tâm mong muốn điều gì thì điều mong muốn đó sẽ được hình thành trong cõi Tâm linh vũ trụ (Weltenseele; Soul of the Universe). Đó sẽ là nhiệm vụ của anh trên trái đất.”
“Ngay cả khi chỉ là mong muốn được đi đây đi đó hay là được lấy con gái nhà buôn vải hay sao ?”
“Hoặc mơ ước tìm kho báu chẳng hạn. Tâm linh vũ trụ được nuôi dưỡng bởi hạnh phúc của con người, bởi cả sự bất hạnh, tị hiềm và ghen tuông nữa. Nhiệm vụ duy nhất của mỗi chúng ta là thực hiện con đường mình đã chọn. Tất cả chỉ là một. Rồi khi anh quyết chí muốn điều gì thì toàn vũ trụ sẽ chung sức để anh đạt được điều ấy.”
Cả hai ngồi lặng thinh hồi lâu, quan sát người qua kẻ lại trên bãi chợ. Rồi ông già lên tiếng trước.
“Tại sao cậu chọn nghề chăn cừu ?”
“Vì cháu thích đi đây đi đó.”
Ông già chỉ vào một người bán kem với chiếc xe kéo màu đỏ hai bánh đậu ở một góc bãi chợ. “Khi còn nhỏ người bán kem kia cũng muốn đi đây đi đó lắm. Nhưng mà anh ta thấy nên mua một xe kem để kiếm tiền và dành dụm đã. Khi nào đủ tiền anh ta sẽ sang châu Phi chơi một tháng. Anh ta không hề hiểu rằng người ta lúc nào cũng có thể thực hiện được ước mơ của mình.”
“Lẽ ra anh ta nên làm kẻ chăn cừu”, cậu buột miệng nói to.
“Anh ta quả cũng có nghĩ thế đấy”, ông già nói. “Nhưng mà nghề bán kem được coi trọng hơn là chăn cừu. Họ có nhà cửa, còn người chăn cừu phải ngủ ngoài đồng trống. Thiên hạ thích gả con gái cho người bán kem hơn cho gã chăn cừu.”
Chàng trai thấy tim mình đau nhói khi nghĩ đến con gái chủ tiệm vải. Chắc hẳn trong thành phố của cô cũng có một người bán kem.
“Nói cho cùng con người coi việc kẻ khác đánh giá anh bán kem hay cậu chăn cừu quan trọng hơn là thực hiện điều thâm tâm mình muốn.”
Nói đến đây ông già lật sách, đọc qua loa. Chàng chăn cừu đợi một lúc rồi mới lên tiếng cắt ngang, giống như lúc đầu cậu bị cắt ngang. “Tại sao ông nói với cháu về những điều này?”
“Vì chính cậu đã cố gắng đi theo tiếng gọi của thâm tâm và giờ đây sắp bỏ cuộc.”
“Lúc nào ông cũng xuất hiện vào đúng giây phút quyết đinh sao ?”
“Không phải lúc nào cũng dưới hình dáng này, nhưng ta luôn luôn xuất hiện, dưới một dạng nào đó. Đôi khi dưới dạng một giải pháp tốt, một ý kiến xuất thần. Có lần, vào lúc quyết định, ta tạo hoàn cảnh thuận lợi hơn. Vân vân. Nhưng phần lớn người ta không nhận ra điều ấy.”
Ông già kể rằng tuần trước ông, dưới dạng một viên đá, đã đến với một người tìm đá quý. Người đó đã bỏ tất cả để tìm ngọc lục bảo. Ông ta đã làm việc ròng rã năm năm ở một con sông và đã đập viên đá chỉ để tìm lấy một viên ngọc lục bảo. Bấy giờ người tìm ngọc đã định bỏ cuộc rồi, trong khi chỉ cần một hòn đá nữa thôi, một hòn đá duy nhất nữa, là sẽ tìm được ngọc. Chính vì người này đã tin theo tiếng gọi của thâm tâm nên ông già quyết định ra tay giúp. Ông biến thành một viên đá lăn tới chân người nọ. Người này, với tất cả phẫn nộ và tuyệt vọng của năm năm mất trắng, liệng viên đá ra thật xa. Ông ta ném mạnh đến nỗi nó làm vỡ toang một hòn đá khác, làm lộ ra viên ngọc lục bảo đẹp nhất thế gian.
“Con người nhận thức rất sớm họ sống trên đời để làm gì”, ông già nói, giọng nhuốm vẻ chua chát. “Có thể chính vì thế mà họ lại bỏ cuộc sớm. Đành thôi.”
Lúc ấy cậu chăn cừu mới nhắc ông rằng hai người bắt đầu bằng câu chuyện kho tàng bị chôn giấu.
“Kho tàng được dòng sông đưa lên mặt nước rồi lại vùi xuống đáy”, ông già nói. “Nếu cậu muốn biết gì về kho tàng của mình thì phải chịu trả ta một phần mười số cừu của cậu”.
“Ông không thích nhận một phần mười kho tàng hơn à?”
Ông già tỏ vẻ không hài lòng. “Nếu cậu hứa trả bằng cái mình chưa sở hữu thì rồi sẽ có lúc cậu mất đi ý chí đạt được nó đấy.”
Nghe thế cậu chăn cừu bèn thú thật đã hứa trả một phần mười kho tàng cho bà già Zigeuner rồi.
“Phải, người Zigeuner khôn lắm”, ông già nói. “Dù sao thì cũng tốt vì cậu đã học được rằng ở đời mọi thứ đều có giá của chúng cả. Đó chính là điều mà chúng ta, những sứ thần đem ánh sáng đến soi rọi (Lichtbote; Warrior of the Light), muốn truyền đạt.”
Ông già đưa trả cậu quyển sách.
“Ngày mai giờ này cậu đem một phần mười số cừu đến cho ta. Ta sẽ chỉ cho cậu con đường tìm đến được kho tàng. Tạm biệt.”
Rồi ông già bỏ đi, biến mất sau một góc tường.
11🐫
Chàng trai cố đọc tiếp nhưng không tập trung nổi nữa. Cậu thấp thỏm và căng thẳng vì biết những gì ông già nói là đúng sự thật. Cậu lại xe kem mua một cây kem rồi cân nhắc xem có nên kể cho người bán kem những gì ông già vừa nói không. “Đôi khi nên để yên cho mọi sự tiếp diễn là khôn ngoan hơn”, cậu nghĩ và bình tâm lại. Nếu cậu nói ra thì biết đâu người bán kem sẽ băn khoan suốt vài ba ngày liền, rằng có nên tung hê hết tất cả không, mà anh ta lại đã quá quen với cái xe kem rồi. Cậu thấy đừng nên làm người bán kem phải lo nghĩ nữa. Thế là cậu đi lang thang thơ thẩn trên đường phố, ra đến bến cảng. Ở đây có một ngôi nhà nhỏ với quầy bán vé đi châu Phi. Ai Cập ở bên châu Phi mà!
“Cậu cần gì ?” người đàn ông ngồi ở quầy hỏi.
“Mai hẵng hay”, cậu đáp rồi vội vã đi ra. Chỉ cần bán đi một con cừu là đủ tiền qua eo biển thôi mà. Ý nghĩ này khiến cậu băn khoăn.
“Lại một tay mơ mộng vẩn vơ”, gã ngồi quầy nói với đồng nghiệp trong lúc cậu đi ra. “Hắn cóc có tiền mua vé đâu.”
Lúc đứng ở quầy vé, cậu chăn cừu nhớ tới lũ cừu của mình và chợt thấy cần phải về với chúng. Trong vòng hai năm cậu đã học được hết mọi việc của nghề chăn cừu; cậu xén lông được này, săn sóc các con có mang này, bảo vệ chúng trước chó sói này. Và cậu cũng biết rành mọi đồng cỏ vùng Andalusia. Cậu biết cả giá mua và bán của từng con một.
Cậu chọn con đường vòng vo xa nhất để về chuồng của người bạn. Thành phố này cũng có ngôi thành cổ, thế là cậu quyết định leo hết bậc thang đá, lên chỗ cao nhất để ra ngồi nơi công sự. Có ai đó đã giải thích cho cậu rằng người Mauren đã qua eo biển này chiếm cứ gần hết Tây Ban Nha trong nhiều năm. Cậu căm ghét người Mauren, vì chính họ đã đưa người Zigeuner đến đây.
Từ trên cao này cậu nhìn thấy gần hết thành phố, cả cái bãi chợ nơi cậu trò chuyện với ông già. “Cái giây phút đã xui khiến ta gặp gỡ lão già kia thật là đáng nguyền rủa”, cậu ngẫm nghĩ trong tuyệt vọng. Cậu chỉ muốn tìm mụ già giải mộng thôi. Thế mà cả mụ lẫn lão già đều chẳng cần biết cho rằng cậu là một gã chăn cừu. Hẳn họ là những người rất cô đơn, chẳng còn tin gì vào cuộc đời nữa nên không hiểu rằng người chăn cừu gắn bó với lũ vật của mình như thế nào. Cậu biết rõ đặc điểm của từng con một: con nào đi cà nhắc, con nào hai tháng nữa sẽ đẻ và con nào lười nhất hạng. Cậu cũng biết phải xén lông thế nào, phải mổ thịt chúng ra sao. Nếu cậu bỏ chúng mà đi thì chúng sẽ khốn khổ thôi.
Một làn gió nhẹ thổi. Cậu biết loại gió này; người ta gọi nó là gió Levante (Levante: vùng đất trải từ đông Địa Trung Hải tới sông Euphrat, sông Nil và bờ biển vùng Tiểu Á), vì đám Mauren xưa đã từ phương Đông theo gió này mà tới đây. Trước khi đến Tarifa cậu không hề biết rằng châu Phi gần đến thế. Nhưng cũng là mối nguy lớn đấy, vì bất cứ lúc nào người Mauren cũng có thể lại tấn công sang được.
Gió thổi mạnh hơn.
“Mình kẹt giữa một bên là lũ cừu và một bên là cái kho tàng”, cậu nghĩ. Cậu phải chọn giữa một bên là những gì quen thuộc, gần gũi và một bên là cái cậu muốn sở hữu. Còn cô gái nữa chứ, nhưng cô không cần được cậu lo cho bằng bầy cừu vì cô không lệ thuộc vào cậu. Có thể cô không còn cả nhớ cậu là ai nữa. Cậu dám chắc rằng nếu hai ngày nữa cậu không xuất hiện ở đó thì cô cũng chẳng biết. Với cô thì một ngày như mọi ngày; và khi ngày nào cũng như ngày nấy thì con người cũng chẳng nhận biết được những việc hay ho xảy đến trong đời.
“Mình đã giã từ cha mẹ và ngôi thành cổ của quê hương ra đi. Cha mẹ và ngôi thành cổ đã quen với chuyện ấy rồi, giống như mình cũng đã quen vậy. Thế thì lũ cừu cũng sẽ quen với sự vắng mặt của mình thôi”, cậu ngẫm nghĩ.
Từ chỗ cao này cậu nhìn rất rõ bãi chợ. Người bán kem vẫn còn đó. Một đôi trai gái còn trẻ ngồi trao nhau nụ hôn dài trên cái ghế cậu và ông già đã ngồi.
“Chà, người bán kem”, cậu buột miệng rồi không nói tiếp vì gió Levante thổi thốc vào mặt. Gió này tuy mang theo người Mauren thật, nhưng đưa đến cả mùi thơm của sa mạc và hương thơm của các phụ nữ đeo khăn che mặt (phụ nữ nhiều nước theo đạo Hồi thường đeo khăn che kín mặt, chỉ để hở hai mắt). Nó đem theo cả mùi mồ hôi và giấc mơ của những người đàn ông một ngày nào đó đã lên đường vào chốn vô định để tìm vàng, tìm sự phiêu lưu, tìm cả Kim Tự Tháp nữa. Cậu chợt ganh tị với ngọn gió tự do kia và thấy rằng mình cũng có thể được tự do không kém. Chẳng có gì ngăn cản được cậu, trừ chính cậu ra. Bầy cừu, cô con gái chủ tiệm vải, những cánh đồng cỏ vùng Andalusia chỉ là những chặng trên con đường đời của cậu thôi.
12🐫
Hôm sau, cậu chăn cừu dẫn theo sáu con cừu đến gặp ông già.
- Cháu ngạc nhiên lắm, - cậu nói , - vì bạn cháu chịu mua ngay số cừu kia. Anh ta bảo rằng đã từ lâu mơ ước được thành người chăn cừu và đây quả là dấu hiệu tốt cho anh ấy.
- Bao giờ cũng thế cả, - ông già đáp. – Cái đó gọi là nguyên lí thuận lợi (Guenstige Prinzip; Principle of favorability). Lần đầu tiên khi ta liều chơi đỏ đen thì thường là ta thắng. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ mà. (Tạm dịch “Anfaengerglueck; beginner’’s luck” cho dễ hiểu).
- Nhưng tại sao mới được chứ ?
- Tại vì cuộc đời muốn rằng ta mãi đi theo con đường mình chọn.
Rồi ông xem xét lũ cừu, phát hiện một con bị què. Cậu cả quyết rằng thật chẳng đáng kể vì con cừu nọ thông minh nhất và cho nhiều lông nhất.
“Thế kho tàng ở đâu hở ông ?” cậu hỏi.
“Ở Kim Tự Tháp bên Ai Cập”.
Cậu thót cả người. Bà già kia cũng nói y như thế mà chẳng đòi gì hết.
“Để đến được đó thì cậu phải lần theo các dấu hiệu. Chúa vạch đường để người người theo. Chỉ cần cậu biết nhận ra Người dùng dấu hiệu gì để vạch đường cho cậu”.
Cậu chưa kịp nói gì thì có một con bướm bay lượn giữa cậu và ông già, làm cậu nhớ đến ông nội của cậu. Hồi cậu còn nhỏ ông nội cậu bảo rằng bướm mang lại điềm lành, tương tự như dế, cỏ ba lá bốn cánh và móng ngựa (Cỏ ba lá mà lại bốn cánh rất hiếm. Móng ngựa được dân nhiều nước châu Âu treo trong nhà hoặc gắn trên xe, coi đó là biểu tượng cho may mắn).
“Đúng thế”, ông già nói vì đọc được cậu đang nghĩ gì. “Nó giống như ông nội cậu đã dạy cậu vậy. Chúng cũng là những dấu hiệu đấy.”
Rồi ông mở áo khoác. Cậu nhìn mà thán phục và nhớ tới ánh rực rỡ đã thấy hôm qua: ông già đeo giáp che ngực bằng vàng ròng, gắn đầy đá quý đủ màu.
Nhất định ông phải là vua thật rồi. Chắc ông khoác thêm áo ngoài là để tránh bị cướp thôi.
“Cậu hãy cầm lấy”, ông già nói và rứt từ giữa áo giáp bằng vàng kia một viên đá trắng và một viên đen. “Hai viên đá này tên là Urim và Thummim. Viên đen nghĩa là có, viên trắng nghĩa là không. Nếu cậu không tự mình nhận ra được dấu hiệu thì hai viên đá này hữu ích cho cậu đấy. Phải luôn luôn đặt câu hỏi khách quan.
Song tốt nhất là cậu tự quyết định lấy. Kho tàng nằm ở Kim Tự Tháp, cậu đã biết rồi. Nhưng nhờ có ta cậu mới quyết định, nên cậu phải trả sáu con cừu.”
Cậu nhét hai viên đá vào bị. Trong tương lai cậu sẽ tự mình quyết định lấy mọi chuyện.
“Đừng bao giờ quên rằng tất cả là một tổng thể. Cũng đừng quên ngôn ngữ của dấu hiệu. Nhất là đừng quên đi cho hết con đường mình tự chọn. Trước khi chia tay ta muốn kể cho cậu nghe một câu chuyện:
Một ngày nọ, một thương nhân gửi con trai của mình đến một nhà thông thái bậc nhất không ai bằng để nhờ ông dạy cho người con bí quyết đạt được hạnh phúc. Anh con trai đi ròng rã bốn mươi ngày xuyên qua sa mạc mới đến được tòa lâu đài nguy nga ngự trên núi cao. Nhà thông thái anh muốn tìm đang ở đó.
Thay vì gặp một vị thánh thì anh lại vào một gian phòng đầy người sinh hoạt tất bật. Thương nhân hết đến rồi đi, người khác túm tụm ở các góc phòng bàn tán, một dàn nhạc chơi các ca khúc lảnh lót, lại có cả một bàn tiệc đầy sơn hào hải vị cùng đó. Nhà thông thái chuyện vãn với từng người một và anh ta phải chờ suốt hai tiếng mới đến lượt mình được tiếp.
Nhà thông thái lắng nghe anh ta trình bày rồi đáp rằng hiện ông không rảnh để chỉ dạy anh bí quyết của hạnh phúc. Ông bảo anh hãy đi xem khắp lâu đài rồi hai tiếng sau trở lại.
“Nhưng ta yêu cầu anh làm hộ một điều”, nhà thông thái nói rồi đưa cho anh một muỗng con có hai giọt dầu. “Trong lúc đi xem thì anh cầm theo muỗng này và nhớ giữ đừng làm sánh dầu nhé.”
Anh ta lên lầu, xuống lầu mắt không rời cái muỗng. Sau hai giờ anh quay lại gặp nhà thông thái.
“Sao”, ông hỏi, “anh đã thấy các tấm thảm Ba Tư quý giá trong phòng ăn của ta chưa ? Cả cái vườn tráng lệ mà người làm vườn đã phải khổ công mười năm xây dựng ? và những cuộn giấy da tuyệt hảo trong thư viện của ta nữa ?”
Anh ta ngượng ngùng thú nhận rằng chẳng hề để mắt đến gì khác vì cứ phải chăm chăm ngó nhìn muỗng dầu đã được giao phó.
“Thế thì anh hãy đi thêm lần nữa và ngắm cho kĩ những thứ tuyệt mĩ trong thế giới của ta”, nhà thông thái nói. “Không thể đặt tin tưởng vào một người khi mình không hề biết người ấy sống trong một ngôi nhà như thế nào.”
Yên dạ hơn, anh ta lại cầm muỗng đi một vòng. Lần này anh chăm chú xem xét những vật quý treo trên tường và trên trần nhà. Anh ngắm khu vườn có núi vây quanh, với đủ thứ hoa thơm cỏ lạ và mỗi tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ đều được để đúng chỗ thích hợp. Trở lại gặp nhà thông thái anh kể chi tiết tất cả những gì đã nhìn thấy.
- Thế còn hai giọt dầu ta nhờ anh giữ đâu rồi? – nhà thông thái hỏi.
Nhìn cái muỗng, anh ta hốt hoảng thấy mình đã làm sánh mất rồi.
- Đây là điều duy nhất mà ta có thể khuyên anh, - nhà thông thái nhất thế gian nói. “Bí quyết của hạnh phúc là biết ngắm nhìn mọi thứ tuyệt mỹ trên thế gian này mà không hề quên hai giọt dầu trên muỗng.”“
Cậu chăn cừu không nói gì cả. Cậu hiểu ý nghĩa câu chuyện ông vua vừa kể. Người chăn cừu thích đi, đi mãi nhưng không bao giờ bỏ quên bầy cừu của mình.
Ông già thân mật nhìn cậu rồi xòe cả hai bàn tay làm vài động tác lạ lùng trên đầu cậu. Sau đó ông dẫn bầy cừu đi.
13🐫
Phía trên cao thành phố Tarifa có một ngôi thành cổ do người Mauren xây. Ngồi trên tường thành có thể trông thấy bãi chợ, người bán kem và một mẩu của châu Phi. Xế trưa hôm ấy, Melchisedek, vua xứ Salem, ngồi trên chỗ tường thành nhô ra, hứng gió Levante. Lũ cừu ở cạnh ông ngọ nguậy mãi vì lo sợ trước ông chủ mới và những đổi thay vừa xảy ra. Bởi chúng vốn chỉ cần ăn và uống thôi mà.
Melchisedek nhìn theo con tàu nhỏ chạy bằng hơi nước vừa rời bến. Ông sẽ không bao giờ gặp lại cậu chăn cừu, cũng như ông đã không hề gặp lại Abraham (phải chăng Coelho muốn ám chỉ “giao ước” giữa Đức Chúa Trời và Abraham về tương lai dân Do Thái (Cựu Ước) ?) sau khi đã nhận một phần mười. Đó là phần việc của ông.
Thần thánh không nên có mơ ước gì, bởi họ không tùy thuộc định mệnh. Tuy thế ông vua xứ Salem vẫn thầm mong cậu chăn cừu sẽ thành công.
“Tiếc rằng rồi cậu ấy sẽ sớm quên mất tên ta”, ông thầm nghĩ. “Lẽ ra ta phải nhắc đi nhắc lại tên ta thường hơn để sau này cậu ấy sẽ kể về Melchisedek, vua xứ Salem.” Rồi ông nhìn trời, nói với vẻ ăn năn: “Đúng là có cao ngạo thật đấy, nhưng mà một ông vua già thỉnh thoảng cũng được phép tự hào về mình đấy chứ nhỉ.”
14🐫
“Châu Phi thật lạ lùng,” cậu chăn cừu thầm nghĩ.
Cậu ngồi trong một quán nước giống như nhiều quán nước khác mà cậu thấy nhan nhản dọc các con đường hẹp của thành phố. Mấy người đàn ông hút chung một cái ống điếu to xù, chuyền từ người này sang người khác. Chỉ trong vài giờ từ khi đến nơi cậu đã được chứng kiến bao điều lạ: đàn ông nắm tay nhau đi ngoài đường phố, phụ nữ dùng khăn che mặt và các thầy tu leo lên các tháp cao nghêu, ê a đọc kinh như hát trong lúc mọi người quanh đấy quỳ lạy xì xụp, vập trán xuống nền đất.
“Đây là tập tục của người ngoại đạo”, cậu tự nhủ. Thửa nhỏ cậu vẫn hay ngắm nhìn trong ngôi nhà thờ ở nguyên quán pho tượng thánh Santiago de Compostela tay vung thanh kiếm to bản, phóng ngựa qua những hình người trông giống như người dân ở đây. Cậu thấy bất an và cô độc quá chừng. Những người ngoại đạo trông mới dễ sợ làm sao.
Nhất là do vội vã lên đường, cậu quên bẵng một điều - điều cỏn con duy nhất thôi - khiến cậu có thể còn lâu mới đến được kho tàng: ở đất nước này người ta nói tiếng Arập.
Khi chủ quán lại gần, cậu chỉ vào một thứ thức uống trên bàn bên cạnh. Đó là thứ trà đắng ngắt. Uống vang thú hơn nhiều.
Nhưng cậu thấy không nên bận tâm vì chuyện ấy, mà chỉ nên nghĩ tới kho tàng thôi, bằng cách nào và đi đường nào đến đấy. Cậu bán bầy cừu được khối tiền và cậu biết rằng tiền như có ma thuật. Có tiền thì không đơn độc bao giờ. Không lâu đâu, có khi chỉ vài ngày nữa thôi, cậu sẽ có mặt ở Kim Tự Tháp cho mà xem. Một ông già đầy vàng trên ngực cần gì phải lừa cậu lấy sáu con cừu chứ.
Ông già từng nói về dấu hiệu. Lúc ngồi trên tàu qua eo biển cậu đã ngẫm nghĩ về thứ dấu hiệu này. Phải, cậu biết ý ông nói về cái gì chứ: hồi còn rong ruổi trên các cánh đồng cỏ Andalusia cậu vẫn tập thói quen nhìn đất, nhìn trời tìm dấu hiệu xem nên đi hướng nào. Cậu nghiệm ra rằng có một giống chim báo hiệu có rắn ở gần đấy và một loại bụi cây cho biết quanh đấy có nước. Tất cả là do lũ cừu dạy cho cậu đấy.
“Khi Chúa đã dẫn dắt bầy cừu đi đúng đường thì Người cũng sẽ hướng dẫn con người y như vậy”, cậu ngẫm nghĩ và yên dạ, thấy trà như bớt đắng hơn.
“Anh là ai?” cậu nghe có người hỏi ngay bên cạnh bằng tiếng Tây Ban Nha. Cậu nhẹ cả người. Cậu vừa nghĩ đến dấu hiệu, thế là có người xuất hiện ngay.
“Do đâu mà anh biết tiếng Tây Ban Nha?” cậu hỏi. Anh chàng kia còn trẻ, mặc âu phục, tuy màu da giống người bản xứ hơn. Khổ người và tuổi anh ta trạc như cậu.
“Ở đây hầu như ai cũng nói được tiếng Tây Ban Nha cả. Đây tới đó chỉ mất ngót ngét hai tiếng thôi mà.”
“Anh ngồi xuống đây và gọi thức uống, tôi trả tiền”, cậu bảo anh ta. “Gọi cho tôi một ly vang. Tôi ghét thứ trà này quá”.
“Ở đây không có vang đâu”, anh kia đáp. “Đạo Hồi không cho phép uống rượu.”
Cậu bèn kể rằng mình phải tới Kim Tự Tháp. Suýt tí nữa thì cậu buột miệng kể luôn về kho tàng, nhưng kịp thôi vì nếu cậu kể ra thì nhất định anh chàng Arập kia sẽ đòi chia chác mới chịu dẫn cậu đi. Cậu nhớ đến lời cảnh báo của ông già rằng không nên hứa trả ai cái gì mình chưa thật có.
“Nếu được thì tôi yêu cầu anh đi cùng tôi đến đó. Tất nhiên tôi trả tiền dẫn đạo”.
“Anh đã mường tượng sẽ đi đến đó như thế nào chưa ?”.
Cậu để ý thấy chủ quán đứng gần đấy dỏng tai nghe lỏm. Sự có mặt của ông làm cậu bực mình. Nhưng đã tìm được người dẫn đường rồi thì cậu không bỏ lỡ dịp được.
“Anh phải băng qua sa mạc Sahara; muốn thế anh phải có nhiều tiền. Tôi muốn biết anh có đủ tiền không đã.”
Cậu thấy câu hỏi thật lạ lùng. Nhưng cậu tin tưởng ở lời ông già, khi ông quả quyết rằng nếu ta quyết tâm thì cả vũ trụ sẽ cùng chung sức.
Thế là cậu moi bị lấy tiền cho anh chàng nọ xem. Chủ quán cũng xích lại nhìn. Rồi hai người lớn tiếng với nhau bằng tiếng Arập.
“Mình đi thôi”, anh chàng kia nói. “Hắn không muốn bọn mình ngồi đây”.
Cậu chăn cừu như trút được gánh nặng, đứng dậy trả tiền; nhưng chủ quán túm tay cậu, cao giọng nói một tràng dài đầy vẻ giận dữ. Cậu tuy sức trai nhưng ở trên đất lạ thành thử đành phải để người bạn mới gỡ hộ thế bí, đẩy chủ quán sang một bên, kéo cậu ra đường.
“Hắn muốn lấy tiền của anh đó”, chàng kia nói. “Thành phố Tanger (Tanger : thành phố cảng ở Bắc Marốc) này không như những nơi khác của châu Phi đâu. Đây là một phố cảng mà cảng nào thì cũng đầy trộm cắp cả.”
Anh bạn này thật đáng tin quá đi chứ. Chẳng gì anh ta cũng đã cứu cậu thoát cảnh khó xử vừa rồi. Cậu đem tiền ra đếm.
“Ngày mai bọn mình đã có thể đến Kim Tự Tháp rồi”, anh chàng kia nói rồi cầm tiền. “Nhưng tôi phải tìm mua hai con lạc đà đã”.
Thế là cả hai đi vòng vèo qua những ngõ ngách của Tanger. Đâu đâu cũng thấy bày hàng quán. Cuối cùngt họ đến một bãi chợ to. Cả nghìn người đang mặc cả, mua, bán. Rau quả xếp bên cạnh gươm dao. Thảm bày bên đủ loại ống điếu thuốc lào. Cậu không rời mắt khỏi người bạn mới. Anh ta cầm trọn số tiền cậu có. Cậu muốn đòi lại quá, nhưng sợ rằng như thế sẽ bất lịch sự. Dẫu sao cậu chưa biết gì về phong tục của đất nước lạ này.
“Mình chỉ cần coi chừng hắn thôi”, cậu tự trấn an; hơn nữa cậu to khỏe hơn anh chàng kia mà.
Chợt cậu nhìn thấy giữa đống rau quả một thanh kiếm tuyệt đẹp. Bao kiếm bằng bạc, chuôi kiếm màu đen cẩn đá đủ màu. Cậu nhất quyết khi từ Ai Cập về sẽ mua thanh kiếm này.
“Anh hỏi hộ người bán hàng xem thanh kiếm giá bao nhiêu”, cậu định nói với anh chàng kia như thế thì mới hỡi ôi ! Trong lúc ngắm nhìn thanh kiếm cậu đã để gã kia lọt khỏi tầm mắt, dù chỉ có hai giây thôi. Tim cậu thót lại. Cậu sợ phải quay đầu tìm vì trực giác cho cậu biết điều gì đã xảy ra. Cậu đăm đăm nhìn thanh kiếm thêm một lúc nữa đến lúc đủ can đảm nhìn quanh.
Quanh cậu là chợ với biết bao kẻ buôn, người bán lớn tiếng rao hàng, mặc cả; thảm bày cạnh trái phỉ, rau sống chen giữa mâm bạc, đàn ông nắm tay nhau, đàn bà che mặt, mùi thơm ngào ngạt của các món ăn lạ. Còn người bạn kia đã biệt tăm, chẳng để lại chút dấu vết gì.
Mới đầu cậu còn cố tin rằng hai người sơ ý mà lạc nhau nên đứng nán lại đó một lúc, chờ gã nọ. Một lát sau có người leo lên tòa tháp kia ngân nga đọc kinh. Mọi người quỳ vập trán xuống đất, ngân nga theo. Sau đó họ - cần mẫn như đàn kiến - gỡ quầy hàng, rời khỏi chợ.
Mặt trời dần lặn. Cậu nhìn theo cho đến khi mặt trời xuống khuất sau những ngôi nhà màu trắng dựng quanh chợ. Cậu hồi tưởng rằng mới đó, khi mặt trời mọc, mình còn ở một châu lục khác, còn là một gã chăn cừu, chủ một bầy cừu sáu mươi con và có hẹn với một cô gái. Sáng nay, trên cánh đồng cỏ, cậu còn điểm qua một lần suốt các chặng đường của cuộc đời mình. Thế mà giờ đây, khi mặt trời lặn, cậu đứng trên một đất nước xa lạ, không hiểu nổi cả tiếng người ta nói. Cậu không còn là gã chăn cừu nữa; trắng tay; ngay cả vài đồng lẻ để quay về, lần nữa làm lại cuộc đời cũng không có nốt.
“Mọi sự diễn ra chỉ từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn thôi”, cậu quá nản chí. Cậu thấy thương thân vì đôi khi cuộc đời thay đổi hẳn chỉ trong khoảnh khắc, nhanh đến nỗi không hiểu chuyện gì đã xảy đến với mình.
Thật ra cậu rất xấu hổ khi phải khóc. Không bao giờ cậu khóc trước bầy cừu cả. Nhưng giờ đây cậu đứng giữa chợ không một bóng người, quê nhà xa tít tắp. Cậu khóc. Khóc vì Chúa thật bất công nên mới bắt một người vững tin vào giấc mơ của mình phải chịu số phận này.
“Khi còn chăn cừu thì mình rất hạnh phúc và đem lại niềm vui cho mọi người chung quanh. Người ta mong mình đến và tiếp đón ân cần. Bây giờ mình buồn nản và bất hạnh. Phải làm sao đây? Mình sẽ giận và hoài nghi hết mọi người chỉ vì có một kẻ đã lừa gạt mình. Mình sẽ thù ghết tất cả những kẻ tìm được kho tàng vì mình không tìm được kho tàng của mình. Và rồi đây mình sẽ ôm rịt lấy chút của cải có được, vì mình quá hèn mọn không thể chinh phục thế giới.”
Cậu mở bị, xem thử còn những gì. Biết đâu khi ăn trên tàu còn sót lại chút bánh mì. Nhưng cậu chỉ tìm thấy quyển sách dày, cái áo khoác và hai viên đá ông già cho.
Nhìn hai viên đá cậu thấy nhẹ cả người. Cậu đã đổi sáu con cừu lấy hai viên đá quý từ cái áo giáp bằng vàng. Cậu có thể bán lấy tiền mua vé về nước. “Từ nay mình phải khôn hơn”, cậu tự nhủ rồi nhặt hai viên đá ra khỏi bị để đút túi quần. Đây là một phố cảng và gã kia nói đúng ở một điểm: cảng lúc nào cũng đầy kẻ cắp. Bây giờ thì cậu chợt hiểu vì sao người chủ quán nổi giận: ông chỉ muốn nói cho cậu hiểu rằng đừng nên tin gã kia.
“Mình như mọi người thôi: nhìn thế giới và thấy theo ý mình muốn chứ không phải như trong thực tế.”
Cậu ngắm nghía hai viên đá, gượng nhẹ sờ, tay cảm nhiệt độ và mặt láng của chúng. Chúng là tất cả gia tài của cậu. Chỉ cần sờ chúng là cậu thấy lòng thanh thản dần. Chúng gợi nhớ đến ông già.
“Chỉ cần cậu tha thiết muốn thì cả vũ trụ sẽ tác động để cậu đạt được”, ông già đã nói thế.
Cậu suy nghĩ thật lung tung để hiểu ý ông. Cậu đang đứng giữa một bãi chợ vắng tanh, không tiền, không cừu. Nhưng hai viên đá rõ ràng là một bằng cớ cậu đã gặp một ông vua mà ông vua này biết về chuyện đời cậu, biết về khẩu súng của bố cậu và về kinh nghiệm tình dục lần đầu của cậu nữa.
“Hai viên đá này dùng để dự báo. Chúng tên là Urim và Thummim.” Cậu nhét đá vào bị và muốn thử một lần xem sao. Ông già bảo rằng phải đặt cậu hỏi thật rõ ràng vì đá chỉ hữu ích khi ta biết ta muốn cái gì. Thế là cậu hỏi: ông già còn tiếp tục phù hộ cậu không ?
Cậu lấy ra một viên. Câu trả lời là “Có”.
“Tôi có tìm được kho tàng không ?” cậu hỏi tiếp rồi lại thò tay vào bị, định lấy ra một viên đá thì cả hai viên đều rơi xuống đất, qua một lỗ thủng. Cậu không biết bị của mình thủng. Cậu cúi xuống định nhặt lên. Song khi thấy chúng nằm trên nền đất cậu lại nhớ đến một câu nói khác của ông già : “Hãy học cách nhận ra dấu hiệu và đi theo nó”.
Đây hẳn lại là một dấu hiệu. Cậu cười nhẹ nhõm rồi nhặt đá lên, nhét vào bị. Cậu sẽ không vá bị; hai viên đá cứ việc rơi. Cậu hiểu rằng có những điều không nên hỏi để khỏi lẩn tránh số phận. “Vả lại mình đã muốn là sẽ tự quyết định mà”, cậu nhớ lại.
Dẫu sao hai viên đá cũng đã cho cậu biết rằng ông già vẫn phù hộ cậu, khiến cậu thêm vững tâm. Cậu lại nhìn quanh bãi chợ vắng tanh, nhưng không còn thấy tuyệt vọng như lúc nãy nữa. Đây không phải là một thế giới lạ, chỉ mới thôi. Vả lại đó chính là điều cậu vẫn ước ao : được biết những chân trời mới. Cho dù cậu không bao giờ tới được Kim Tự Tháp đi nữa thì thế này cũng đã là đi xa hơn bất cứ người chăn cừu nào cậu quen biết rồi. Chà, nếu họ biết được rằng chỉ cách hai giờ tàu biển thôi mà có bao nhiêu là điều lạ. Tuy thế giới mới của cậu lúc này mới chỉ là bãi chợ vắng tanh thôi, nhưng cậu đã được biết lúc chợ đông như thế nào rồi và sẽ không bao giờ quên. Giờ cậu nhớ đến thanh gươm. Quả đấy là một giá rất đắt cậu đã phải trả để ngắm nghía nó, nhưng trước kia cậu chưa từng được thấy thanh kiếm nào đẹp như thế cả. Chợt cậu thấy rằng mình có thể nhìn cả thế giới hoặc với con mắt của một kẻ khốn khổ bị cướp sạch hoặc của một kẻ phiêu lưu trên đường đi tìm kho tàng. “Ta là một kẻ phiêu lưu đi tìm kho tàng”, cậu còn nghĩ như thế trước khi thiếp đi vì mệt.
15🐫
Cậu bừng mắt vì có ai đó thúc vào người. Hóa ra cậu nằm ngủ ngay giữa chợ, giờ lại đang tấp nập.
Cậu ngơ ngác nhìn quanh tìm lũ cừu của mình rồi sực nhớ ra mình đang ở một thế giới khác. Song thay vì buồn phiền cậu lại thấy sung sướng. Bây giờ cậu không cần tìm cỏ và nước nữa mà có thể đi tìm kho tàng. Không có tí tiền nào trong túi nhưng cậu tin vào cuộc sống. Chiều tối hôm trước cậu đã quyết định thành một kẻ phiêu lưu, giống như những nhân vật anh hùng cậu đọc trong sách.
Cậu thong thả đi dạo trên bãi chợ. Các nhà buôn dựng quầy của họ. Cậu giúp một người bán bánh kẹo dựng quầy. Khuôn mặt rạng rỡ nụ cười cho thấy ông ta vui vẻ, yêu đời và sẵn sàng bắt đầu một ngày làm việc mới. Nụ cười này có nét gì đó làm cậu nhớ đến ông già, vị vua đầy bí ẩn mà cậu đã gặp.
“Ông già buôn này chắc chắn không phải bán bánh kẹo vì muốn sẽ có một ngày đi du lịch hay vì muốn cưới được con gái một thương nhân. Ông làm bánh kẹo chỉ vì ông thích”, cậu thầm nghĩ và thấy rằng mình cũng làm được điều ông vua già hồi đó đã từng làm: nhận ra được một người đang đi gần hay đang xa rời con đường sống của họ. Chỉ qua quan sát thôi. “Thật đơn giản, thế mà trước đây mình không hề biết”.
Khi quầy đã dựng xong, nhà buôn nọ đưa cậu cái kẹo đầu tiên ông làm ra. Cậu ăn, cám ơn rồi đi tiếp. Đi được một quãng cậu mới chợt nhớ rằng quầy hàng nọ vừa do một người nói tiếng Arập và một người nói tiếng Tây Ban Nha cùng dựng lên.
Và hai người rất là hiểu nhau.
“Có một thứ nằm ngoài câu chữ”, cậu nghĩ. “Trước đây mình đã nghiệm thấy như thế với lũ cừu, giờ đây với cả con người”.
Cậu học nhiều điều mới. Có những điều đã từng biết nhưng giờ đây thấy như mới vì trước kia cậu không hề quan tâm. Và sở dĩ cậu không để tâm đến vì quá quen với chúng. “Nếu mình học được cách giải đoán thứ ngôn ngữ không lời này thì mình sẽ giải đoán được thế giới”.
“Tất cả chỉ là một”, ông già đã nói.
Cậu quyết định đi thong thả, chậm rãi qua các con đường hẹp của Tanger. Chỉ như thế thì cậu mới nhận ra được dấu hiệu. Phải kiên nhẫn vô cùng, đó chính là đức tính đầu tiên kẻ chăn cừu phải học. Cậu lại chợt nghiệm ra rằng mình đang áp dụng vào trong thế giới mới lạ này những bài học mà lũ cừu đã dạy mình. “Tất cả chỉ là một”, ông già đã nói.
16🐫
Người bán hàng pha lê nhìn mặt trời lên rồi, như mọi buổi sáng, thấy lòng phiền muộn. Ông đã ở nơi này suốt gần ba mươi năm nay, mở một cửa hàng nằm tận đỉnh dốc, nơi chỉ có ít người qua lại. Bây giờ mà đổi thay, làm nghề gì khác thì đã quá muộn màng. Cả đời ông học chỉ có mỗi một việc là mua và bán pha lê. Có một thời cửa hàng ông đông khách lắm: khách thương Arập này, các nhà địa chất Anh và Pháp này, lính Đức này, tất cả đều tiền đầy túi. Hồi đó nghề bán bình pha lê thật tuyệt và ông hả hê hình dung mình sẽ giàu sụ, rồi khi về già được sống giữa các bà vợ đẹp.
Nhưng rồi thành phố Ceutar phát triển mạnh hơn Tanger và việc buôn bán bị xoay chiều. Xóm giềng dọn đi gần hết, vẫn còn một ít cửa hàng vẫn còn trụ lại bên sườn núi. Nhưng ai rỗi hơi leo tuốt lên cao chỉ vì vài ba hàng quán cơ chứ?
Nhưng người bán pha lê không còn con đường nào khác. Ba mươi năm nay ông chỉ buôn và bán hàng pha lê thì chọn nghề khác bây giờ là quá muộn.
Suốt buổi sáng ông nhìn ra con đường lèo tèo hàng quán. Ông nhìn như thế hàng năm rồi nên biết rõ giờ giấc từng cửa hàng một. Bỗng đâu trước giờ nghỉ trưa ít phút có một gã ngoại quốc trẻ đứng trước tủ kính cửa hàng ông. Gã ăn mặc bình thường, nhưng với đôi mắt lão luyện ông biết gã không có tiền. Tuy thế ông vẫn nấn ná chưa đi ăn, định chờ thêm một lúc cho gã đi khỏi đã.
17🐫
Tấm biển treo trước cửa cho biết chủ tiệm này nói được nhiều thứ tiếng. Cậu nhìn người đàn ông sau quầy hàng.
“Cháu có thể chùi sạch những bình này, nếu ông muốn”, cậu nói. “Như thế này thì chẳng ai thèm mua đâu”.
Người bán hàng pha lê nhìn cậu không nói gì.
“Cháu chỉ xin ông trả một bữa ăn thôi.”
Ông ta vẫn lặng thinh, còn cậu thấy phải tự quyết định. Trong bị có cái áo khoác, chắc cậu sẽ không cần đến nó trên sa mạc. Thế là cậu lôi áo ra, dùng để lau chùi ngay những li với bình hoa. Sau nữa giờ cậu lau sạch hết mọi thứ bầy trong tủ kính, trong lúc đó có hai người khách đến mua vài cái li pha lê. Lau chùi xong, cậu xin ông ta cho mình ăn.
“Ta đi ăn chung”, người bán hàng pha lê nói.
Ông ta treo một tấm biển trước cửa rồi hai người đi tới một cái quán nhỏ xíu trên sườn núi. Khi họ đã ngồi vào cái bàn duy nhất trong quán, ông ta mới cười.
“Lẽ ra cậu không cần phải lau chùi gì hết”, ông nói. “Điều răn của kinh Koran buộc chúng tôi cho người đói ăn”
“Thế tại sao ông lại cứ để cháu lau chùi?”. Cậu hỏi.
“Vì những li, bình ấy bụi bặm bẩn thỉu. Hai chúng ta, cậu cũng như ta, đều phải gột sạch những tư tưởng xấu trong đầu.”
Ăn xong, người bán hàng pha lê nói với cậu: “Ta muốn cậu giúp việc cho ta. Hôm nay, trong lúc cậu lau chùi thì có hai người đến mua hàng; đó là điềm lành”.
“Người ta nói quá nhiều về điềm này, điềm nọ”, cậu thầm nghĩ. “Nhưng họ không ý thức điều họ nói. Giống như mình không ý thức rằng đã từ lâu mình với lũ cừu giao cảm với nhau bằng một thứ ngôn ngữ nằm ngoài tiếng nói.”
“Cậu ưng làm việc cho ta chứ?”. Ông ta hỏi tới.
“Được, cháu sẽ làm nốt ngày hôm nay”, cậu đáp. “Đến sáng sớm mai cháu sẽ lau chùi hết mọi món hàng pha lê trong tiệm ông. Đổi lại cháu muốn có được đủ tiền để đi Ai Cập ngay buổi sáng mai”.
Nghe thế người bán pha lê bật cười. “Dù cậu có lau chùi số hàng của ta suốt một năm và ngay cả khi cậu có được tiền hoa hồng kha khá do bán được hàng thì cậu vẫn còn phải vay thêm tiền thì mới đến được Ai Cập. Giữa Tanger và Kim Tự Tháp là cả nghìn cây số sa mạc”.
Tất cả như chết lặng đi trong giây lát, như thể thành phố này chìm sâu trong giấc ngủ. Không còn hàng quán nữa, không còn những nhà buôn mặc cả nữa, không còn những người ngân nga trên tháp giáo đường, không còn cây kiếm báu với cán cẩn đá quí. Không còn hi vọng và phiêu lưu nữa, hết luôn cả những ông vua già và những đường đời tự vạch, hết luôn những kho tàng và Kim Tự Tháp. Cả thế giới như nín lặng bởi vì tâm hồn cậu câm nín. Không đau đớn, không khổ, không thất vọng. Chỉ có một cái nhìn trống không qua cửa quán ăn và một khát khao được chết, muốn rằng tất cả chấm dứt ngay giây phút ấy.
Người bán hàng pha lê lo lắng nhìn cậu. Tất cả sự vui sống mới đây ông thấy ở cậu như chợt biến đâu mất hết.
”Ta có thể cho cậu tiền để về nước”, ông an ủi. Cậu vẫn lặng thinh, rồi chợt đứng phắt lên, kéo quần ngay ngắn, cầm lấy bị.
“Cháu sẽ làm việc cho ông”, cậu đáp. Sau một lát, cậu nói tiếp: “Cháu cần tiền để mua dăm ba con cừu”.
➖➖➖
Bản tiếng Anh
The Alchemist
Translated by Clifford E. Landers
TEN YEARS ON
I REMEMBER RECEIVING A LETTER FROM THE AMERICAN publisher Harper Collins that said that: “reading The Alchemist was like getting up at dawn and seeing the sun rise while the rest of the world still slept.” I went outside, looked up at the sky, and thought to myself: “So, the book is going to be published in English!” At the time, I was struggling to establish myself as a writer and to follow my path despite all the voices telling me it was impossible.
And little by little, my dream was becoming reality. Ten, a hundred, a thousand, a million copies sold in America. One day, a Brazilian journalist phoned to say that President Clinton had been photographed reading the book. Some time later, when I was in Turkey, I opened the magazine Vanity Fair and there was Julia Roberts declaring that she adored the book. Walking alone down a street in Miami, I heard a girl telling her mother: “You must read The Alchemist!”
The book has been translated into fifty-six languages, has sold more than twenty million copies, and people are beginning to ask: What’s the secret behind such a huge success?
The only honest response is: I don’t know. All I know is that, like Santiago the shepherd boy, we all need to be aware of our personal calling. What is a personal calling? It is God’s blessing, it is the path that God chose for you here on Earth. Whenever we do something that fills us with enthusiasm, we are following our legend. However, we don’t all have the courage to confront our own dream.
Why?
There are four obstacles. First: we are told from childhood onward that everything we want to do is impossible. We grow up with this idea, and as the years accumulate, so too do the layers of prejudice, fear, and guilt. There comes a time when our personal calling is so deeply buried in our soul as to be invisible. But it’s still there.
If we have the courage to disinter dream, we are then faced by the second obstacle: love. We know what we want to do, but are afraid of hurting those around us by abandoning everything in order to pursue our dream. We do not realize that love is just a further impetus, not something that will prevent us going forward. We do not realize that those who genuinely wish us well want us to be happy and are prepared to accompany us on that journey.
Once we have accepted that love is a stimulus, we come up against the third obstacle: fear of the defeats we will meet on the path. We who fight for our dream, suffer far more when it doesn’t work out, because we cannot fall back on the old excuse: “Oh, well, I didn’t really want it anyway.” We do want it and know that we have staked everything on it and that the path of the personal calling is no easier than any other path, except that our whole heart is in this journey. Then, we warriors of light must be prepared to have patience in difficult times and to know that the Universe is conspiring in our favor, even though we may not understand how.
I ask myself: are defeats necessary?
Well, necessary or not, they happen. When we first begin fighting for our dream, we have no experience and make many mistakes. The secret of life, though, is to fall seven times and to get up eight times.
So, why is it so important to live our personal calling if we are only going to suffer more than other people?
Because, once we have overcome the defeats—and we always do—we are filled by a greater sense of euphoria and confidence. In the silence of our hearts, we know that we are proving ourselves worthy of the miracle of life. Each day, each hour, is part of the good fight. We start to live with enthusiasm and pleasure. Intense, unexpected suffering passes more quickly than suffering that is apparently bearable; the latter goes on for years and, without our noticing, eats away at our soul, until, one day, we are no longer able to free ourselves from the bitterness and it stays with us for the rest of our lives.
Having disinterred our dream, having used the power of love to nurture it and spent many years living with the scars, we suddenly notice that what we always wanted is there, waiting for us, perhaps the very next day. Then comes the fourth obstacle: the fear of realizing the dream for which we fought all our lives.
Oscar Wilde said: “Each man kills the thing he loves.” And it’s true. The mere possibility of getting what we want fills the soul of the ordinary person with guilt. We look around at all those who have failed to get what they want and feel that we do not deserve to get what we want either. We forget about all the obstacles we overcame, all the suffering we endured, all the things we had to give up in order to get this far. I have known a lot of people who, when their personal calling was within their grasp, went on to commit a series of stupid mistakes and never reached their goal—when it was only a step away.
This is the most dangerous of the obstacles because it has a kind of saintly aura about it: renouncing joy and conquest. But if you believe yourself worthy of the thing you fought so hard to get, then you become an instrument of God, you help the Soul of the World, and you understand why you are here.
Paulo Coelho
Rio de Janeiro
November 2002
Translated by Margaret Jull Costa
PROLOGUE
Translated by Clifford E. Landers
THE ALCHEMIST PICKED UP A BOOK THAT SOMEONE IN THE caravan had brought. Leafing through the pages, he found a story about Narcissus.
The alchemist knew the legend of Narcissus, a youth who knelt daily beside a lake to contemplate his own beauty. He was so fascinated by himself that, one morning, he fell into the lake and drowned. At the spot where he fell, a flower was born, which was called the narcissus.
But this was not how the author of the book ended the story.
He said that when Narcissus died, the goddesses of the forest appeared and found the lake, which had been fresh water, transformed into a lake of salty tears.
“Why do you weep?” the goddesses asked.
“I weep for Narcissus,” the lake replied.
“Ah, it is no surprise that you weep for Narcissus,” they said, “for though we always pursued him in the forest, you alone could contemplate his beauty close at hand.”
“But…was Narcissus beautiful?” the lake asked.
“Who better than you to know that?” the goddesses said in wonder. “After all, it was by your banks that he knelt each day to contemplate himself!”
The lake was silent for some time. Finally, it said:
“I weep for Narcissus, but I never noticed that Narcissus was beautiful. I weep because, each time he knelt beside my banks, I could see, in the depths of his eyes, my own beauty reflected.”
“What a lovely story,” the alchemist thought.
-
PART ONE
THE BOY’S NAME WAS SANTIAGO. DUSK WAS FALLING AS the boy arrived with his herd at an abandoned church. The roof had fallen in long ago, and an enormous sycamore had grown on the spot where the sacristy had once stood.
He decided to spend the night there. He saw to it that all the sheep entered through the ruined gate, and then laid some planks across it to prevent the flock from wandering away during the night. There were no wolves in the region, but once an animal had strayed during the night, and the boy had had to spend the entire next day searching for it.
He swept the floor with his jacket and lay down, using the book he had just finished reading as a pillow. He told himself that he would have to start reading thicker books: they lasted longer, and made more comfortable pillows.
It was still dark when he awoke, and, looking up, he could see the stars through the half-destroyed roof.
I wanted to sleep a little longer, he thought. He had had the same dream that night as a week ago, and once again he had awakened before it ended.
He arose and, taking up his crook, began to awaken the sheep that still slept. He had noticed that, as soon as he awoke, most of his animals also began to stir. It was as if some mysterious energy bound his life to that of the sheep, with whom he had spent the past two years, leading them through the countryside in search of food and water. “They are so used to me that they know my schedule,” he muttered. Thinking about that for a moment, he realized that it could be the other way around: that it was he who had become accustomed to their schedule.
But there were certain of them who took a bit longer to awaken. The boy prodded them, one by one, with his crook, calling each by name. He had always believed that the sheep were able to understand what he said. So there were times when he read them parts of his books that had made an impression on him, or when he would tell them of the loneliness or the happiness of a shepherd in the fields. Sometimes he would comment to them on the things he had seen in the villages they passed.
But for the past few days he had spoken to them about only one thing: the girl, the daughter of a merchant who lived in the village they would reach in about four days. He had been to the village only once, the year before. The merchant was the proprietor of a dry goods shop, and he always demanded that the sheep be sheared in his presence, so that he would not be cheated. A friend had told the boy about the shop, and he had taken his sheep there.
“I NEED TO SELL SOME WOOL,” THE BOY TOLD THE merchant.
The shop was busy, and the man asked the shepherd to wait until the afternoon. So the boy sat on the steps of the shop and took a book from his bag.
“I didn’t know shepherds knew how to read,” said a girl’s voice behind him.
The girl was typical of the region of Andalusia, with flowing black hair, and eyes that vaguely recalled the Moorish conquerors.
“Well, usually I learn more from my sheep than from books,” he answered. During the two hours that they talked, she told him she was the merchant’s daughter, and spoke of life in the village, where each day was like all the others. The shepherd told her of the Andalusian countryside, and related the news from the other towns where he had stopped. It was a pleasant change from talking to his sheep.
“How did you learn to read?” the girl asked at one point.
“Like everybody learns,” he said. “In school.”
“Well, if you know how to read, why are you just a shepherd?”
The boy mumbled an answer that allowed him to avoid responding to her question. He was sure the girl would never understand. He went on telling stories about his travels, and her bright, Moorish eyes went wide with fear and surprise. As the time passed, the boy found himself wishing that the day would never end, that her father would stay busy and keep him waiting for three days. He recognized that he was feeling something he had never experienced before: the desire to live in one place forever. With the girl with the raven hair, his days would never be the same again.
But finally the merchant appeared, and asked the boy to shear four sheep. He paid for the wool and asked the shepherd to come back the following year.
AND NOW IT WAS ONLY FOUR DAYS BEFORE HE WOULD BE back in that same village. He was excited, and at the same time uneasy: maybe the girl had already forgotten him. Lots of shepherds passed through, selling their wool.
“It doesn’t matter,” he said to his sheep. “I know other girls in other places.”
But in his heart he knew that it did matter. And he knew that shepherds, like seamen and like traveling salesmen, always found a town where there was someone who could make them forget the joys of carefree wandering.
The day was dawning, and the shepherd urged his sheep in the direction of the sun. They never have to make any decisions, he thought. Maybe that’s why they always stay close to me.
The only things that concerned the sheep were food and water. As long as the boy knew how to find the best pastures in Andalusia, they would be his friends. Yes, their days were all the same, with the seemingly endless hours between sunrise and dusk; and they had never read a book in their young lives, and didn’t understand when the boy told them about the sights of the cities. They were content with just food and water, and, in exchange, they generously gave of their wool, their company, and—once in a while—their meat.
If I became a monster today, and decided to kill them, one by one, they would become aware only after most of the flock had been slaughtered, thought the boy. They trust me, and they’ve forgotten how to rely on their own instincts, because I lead them to nourishment.
The boy was surprised at his thoughts. Maybe the church, with the sycamore growing from within, had been haunted. It had caused him to have the same dream for a second time, and it was causing him to feel anger toward his faithful companions. He drank a bit from the wine that remained from his dinner of the night before, and he gathered his jacket closer to his body. He knew that a few hours from now, with the sun at its zenith, the heat would be so great that he would not be able to lead his flock across the fields. It was the time of day when all of Spain slept during the summer. The heat lasted until nightfall, and all that time he had to carry his jacket. But when he thought to complain about the burden of its weight, he remembered that, because he had the jacket, he had withstood the cold of the dawn.
We have to be prepared for change, he thought, and he was grateful for the jacket’s weight and warmth.
The jacket had a purpose, and so did the boy. His purpose in life was to travel, and, after two years of walking the Andalusian terrain, he knew all the cities of the region. He was planning, on this visit, to explain to the girl how it was that a simple shepherd knew how to read. That he had attended a seminary until he was sixteen. His parents had wanted him to become a priest, and thereby a source of pride for a simple farm family. They worked hard just to have food and water, like the sheep. He had studied Latin, Spanish, and theology. But ever since he had been a child, he had wanted to know the world, and this was much more important to him than knowing God and learning about man’s sins. One afternoon, on a visit to his family, he had summoned up the courage to tell his father that he didn’t want to become a priest. That he wanted to travel.
“PEOPLE FROM ALL OVER THE WORLD HAVE PASSED through this village, son,” said his father. “They come in search of new things, but when they leave they are basically the same people they were when they arrived. They climb the mountain to see the castle, and they wind up thinking that the past was better than what we have now. They have blond hair, or dark skin, but basically they’re the same as the people who live right here.”
“But I’d like to see the castles in the towns where they live,” the boy explained.
“Those people, when they see our land, say that they would like to live here forever,” his father continued.
“Well, I’d like to see their land, and see how they live,” said his son.
“The people who come here have a lot of money to spend, so they can afford to travel,” his father said. “Amongst us, the only ones who travel are the shepherds.”
“Well, then I’ll be a shepherd!”
His father said no more. The next day, he gave his son a pouch that held three ancient Spanish gold coins.
“I found these one day in the fields. I wanted them to be a part of your inheritance. But use them to buy your flock. Take to the fields, and someday you’ll learn that our countryside is the best, and our women are the most beautiful.”
And he gave the boy his blessing. The boy could see in his father’s gaze a desire to be able, himself, to travel the world—a desire that was still alive, despite his father’s having had to bury it, over dozens of years, under the burden of struggling for water to drink, food to eat, and the same place to sleep every night of his life.
THE HORIZON WAS TINGED WITH RED, AND SUDDENLY THE sun appeared. The boy thought back to that conversation with his father, and felt happy; he had already seen many castles and met many women (but none the equal of the one who awaited him several days hence). He owned a jacket, a book that he could trade for another, and a flock of sheep. But, most important, he was able every day to live out his dream. If he were to tire of the Andalusian fields, he could sell his sheep and go to sea. By the time he had had enough of the sea, he would already have known other cities, other women, and other chances to be happy. I couldn’t have found God in the seminary, he thought, as he looked at the sunrise.
Whenever he could, he sought out a new road to travel. He had never been to that ruined church before, in spite of having traveled through those parts many times. The world was huge and inexhaustible; he had only to allow his sheep to set the route for a while, and he would discover other interesting things. The problem is that they don’t even realize that they’re walking a new road every day. They don’t see that the fields are new and the seasons change. All they think about is food and water.
Maybe we’re all that way, the boy mused. Even me—I haven’t thought of other women since I met the merchant’s daughter. Looking at the sun, he calculated that he would reach Tarifa before midday. There, he could exchange his book for a thicker one, fill his wine bottle, shave, and have a haircut; he had to prepare himself for his meeting with the girl, and he didn’t want to think about the possibility that some other shepherd, with a larger flock of sheep, had arrived there before him and asked for her hand.
It’s the possibility of having a dream come true that makes life interesting, he thought, as he looked again at the position of the sun, and hurried his pace. He had suddenly remembered that, in Tarifa, there was an old woman who interpreted dreams.
THE OLD WOMAN LED THE BOY TO A ROOM AT THE BACK of her house; it was separated from her living room by a curtain of colored beads. The room’s furnishings consisted of a table, an image of the Sacred Heart of Jesus, and two chairs.
The woman sat down, and told him to be seated as well. Then she took both of his hands in hers, and began quietly to pray.
It sounded like a Gypsy prayer. The boy had already had experience on the road with Gypsies; they also traveled, but they had no flocks of sheep. People said that Gypsies spent their lives tricking others. It was also said that they had a pact with the devil, and that they kidnapped children and, taking them away to their mysterious camps, made them their slaves. As a child, the boy had always been frightened to death that he would be captured by Gypsies, and this childhood fear returned when the old woman took his hands in hers.
But she has the Sacred Heart of Jesus there, he thought, trying to reassure himself. He didn’t want his hand to begin trembling, showing the old woman that he was fearful. He recited an Our Father silently.
“Very interesting,” said the woman, never taking her eyes from the boy’s hands, and then she fell silent.
The boy was becoming nervous. His hands began to tremble, and the woman sensed it. He quickly pulled his hands away.
“I didn’t come here to have you read my palm,” he said, already regretting having come. He thought for a moment that it would be better to pay her fee and leave without learning a thing, that he was giving too much importance to his recurrent dream.
“You came so that you could learn about your dreams,” said the old woman. “And dreams are the language of God. When he speaks in our language, I can interpret what he has said. But if he speaks in the language of the soul, it is only you who can understand. But, whichever it is, I’m going to charge you for the consultation.”
Another trick, the boy thought. But he decided to take a chance. A shepherd always takes his chances with wolves and with drought, and that’s what makes a shepherd’s life exciting.
“I have had the same dream twice,” he said. “I dreamed that I was in a field with my sheep, when a child appeared and began to play with the animals. I don’t like people to do that, because the sheep are afraid of strangers. But children always seem to be able to play with them without frightening them. I don’t know why. I don’t know how animals know the age of human beings.”
“Tell me more about your dream,” said the woman. “I have to get back to my cooking, and, since you don’t have much money, I can’t give you a lot of time.”
“The child went on playing with my sheep for quite a while,” continued the boy, a bit upset. “And suddenly, the child took me by both hands and transported me to the Egyptian pyramids.”
He paused for a moment to see if the woman knew what the Egyptian pyramids were. But she said nothing.
“Then, at the Egyptian pyramids,”—he said the last three words slowly, so that the old woman would understand—“the child said to me, ‘If you come here, you will find a hidden treasure.’ And, just as she was about to show me the exact location, I woke up. Both times.”
The woman was silent for some time. Then she again took his hands and studied them carefully.
“I’m not going to charge you anything now,” she said. “But I want one-tenth of the treasure, if you find it.”
The boy laughed—out of happiness. He was going to be able to save the little money he had because of a dream about hidden treasure!
“Well, interpret the dream,” he said.
“First, swear to me. Swear that you will give me one-tenth of your treasure in exchange for what I am going to tell you.”
The shepherd swore that he would. The old woman asked him to swear again while looking at the image of the Sacred Heart of Jesus.
“It’s a dream in the language of the world,” she said. “I can interpret it, but the interpretation is very difficult. That’s why I feel that I deserve a part of what you find.
“And this is my interpretation: you must go to the Pyramids in Egypt. I have never heard of them, but, if it was a child who showed them to you, they exist. There you will find a treasure that will make you a rich man.”
The boy was surprised, and then irritated. He didn’t need to seek out the old woman for this! But then he remembered that he wasn’t going to have to pay anything.
“I didn’t need to waste my time just for this,” he said.
“I told you that your dream was a difficult one. It’s the simple things in life that are the most extraordinary; only wise men are able to understand them. And since I am not wise, I have had to learn other arts, such as the reading of palms.”
“Well, how am I going to get to Egypt?”
“I only interpret dreams. I don’t know how to turn them into reality. That’s why I have to live off what my daughters provide me with.”
“And what if I never get to Egypt?”
“Then I don’t get paid. It wouldn’t be the first time.”
And the woman told the boy to leave, saying she had already wasted too much time with him.
So the boy was disappointed; he decided that he would never again believe in dreams. He remembered that he had a number of things he had to take care of: he went to the market for something to eat, he traded his book for one that was thicker, and he found a bench in the plaza where he could sample the new wine he had bought. The day was hot, and the wine was refreshing. The sheep were at the gates of the city, in a stable that belonged to a friend. The boy knew a lot of people in the city. That was what made traveling appeal to him—he always made new friends, and he didn’t need to spend all of his time with them. When someone sees the same people every day, as had happened with him at the seminary, they wind up becoming a part of that person’s life. And then they want the person to change. If someone isn’t what others want them to be, the others become angry. Everyone seems to have a clear idea of how other people should lead their lives, but none about his or her own.
He decided to wait until the sun had sunk a bit lower in the sky before following his flock back through the fields. Three days from now, he would be with the merchant’s daughter.
He started to read the book he had bought. On the very first page it described a burial ceremony. And the names of the people involved were very difficult to pronounce. If he ever wrote a book, he thought, he would present one person at a time, so that the reader wouldn’t have to worry about memorizing a lot of names.
When he was finally able to concentrate on what he was reading, he liked the book better; the burial was on a snowy day, and he welcomed the feeling of being cold. As he read on, an old man sat down at his side and tried to strike up a conversation.
“What are they doing?” the old man asked, pointing at the people in the plaza.
“Working,” the boy answered dryly, making it look as if he wanted to concentrate on his reading.
Actually, he was thinking about shearing his sheep in front of the merchant’s daughter, so that she could see that he was someone who was capable of doing difficult things. He had already imagined the scene many times; every time, the girl became fascinated when he explained that the sheep had to be sheared from back to front. He also tried to remember some good stories to relate as he sheared the sheep. Most of them he had read in books, but he would tell them as if they were from his personal experience. She would never know the difference, because she didn’t know how to read.
Meanwhile, the old man persisted in his attempt to strike up a conversation. He said that he was tired and thirsty, and asked if he might have a sip of the boy’s wine. The boy offered his bottle, hoping that the old man would leave him alone.
But the old man wanted to talk, and he asked the boy what book he was reading. The boy was tempted to be rude, and move to another bench, but his father had taught him to be respectful of the elderly. So he held out the book to the man—for two reasons: first, that he, himself, wasn’t sure how to pronounce the title; and second, that if the old man didn’t know how to read, he would probably feel ashamed and decide of his own accord to change benches.
“Hmm…” said the old man, looking at all sides of the book, as if it were some strange object. “This is an important book, but it’s really irritating.”
The boy was shocked. The old man knew how to read, and had already read the book. And if the book was irritating, as the old man had said, the boy still had time to change it for another.
“It’s a book that says the same thing almost all the other books in the world say,” continued the old man. “It describes people’s inability to choose their own Personal Legends. And it ends up saying that everyone believes the world’s greatest lie.”
“What’s the world’s greatest lie?” the boy asked, completely surprised.
“It’s this: that at a certain point in our lives, we lose control of what’s happening to us, and our lives become controlled by fate. That’s the world’s greatest lie.”
“That’s never happened to me,” the boy said. “They wanted me to be a priest, but I decided to become a shepherd.”
“Much better,” said the old man. “Because you really like to travel.”
“He knew what I was thinking,” the boy said to himself. The old man, meanwhile, was leafing through the book, without seeming to want to return it at all. The boy noticed that the man’s clothing was strange. He looked like an Arab, which was not unusual in those parts. Africa was only a few hours from Tarifa; one had only to cross the narrow straits by boat. Arabs often appeared in the city, shopping and chanting their strange prayers several times a day.
“Where are you from?” the boy asked.
“From many places.”
“No one can be from many places,” the boy said. “I’m a shepherd, and I have been to many places, but I come from only one place—from a city near an ancient castle. That’s where I was born.”
“Well then, we could say that I was born in Salem.”
The boy didn’t know where Salem was, but he didn’t want to ask, fearing that he would appear ignorant. He looked at the people in the plaza for a while; they were coming and going, and all of them seemed to be very busy.
“So, what is Salem like?” he asked, trying to get some sort of clue.
“It’s like it always has been.”
No clue yet. But he knew that Salem wasn’t in Andalusia. If it were, he would already have heard of it.
“And what do you do in Salem?” he insisted.
“What do I do in Salem?” The old man laughed. “Well, I’m the king of Salem!”
People say strange things, the boy thought. Sometimes it’s better to be with the sheep, who don’t say anything. And better still to be alone with one’s books. They tell their incredible stories at the time when you want to hear them. But when you’re talking to people, they say some things that are so strange that you don’t know how to continue the conversation.
“My name is Melchizedek,” said the old man. “How many sheep do you have?”
“Enough,” said the boy. He could see that the old man wanted to know more about his life.
“Well, then, we’ve got a problem. I can’t help you if you feel you’ve got enough sheep.”
The boy was getting irritated. He wasn’t asking for help. It was the old man who had asked for a drink of his wine, and had started the conversation.
“Give me my book,” the boy said. “I have to go and gather my sheep and get going.”
“Give me one-tenth of your sheep,” said the old man, “and I’ll tell you how to find the hidden treasure.”
The boy remembered his dream, and suddenly everything was clear to him. The old woman hadn’t charged him anything, but the old man—maybe he was her husband—was going to find a way to get much more money in exchange for information about something that didn’t even exist. The old man was probably a Gypsy, too.
But before the boy could say anything, the old man leaned over, picked up a stick, and began to write in the sand of the plaza. Something bright reflected from his chest with such intensity that the boy was momentarily blinded. With a movement that was too quick for someone his age, the man covered whatever it was with his cape. When his vision returned to normal, the boy was able to read what the old man had written in the sand.
There, in the sand of the plaza of that small city, the boy read the names of his father and his mother and the name of the seminary he had attended. He read the name of the merchant’s daughter, which he hadn’t even known, and he read things he had never told anyone.
“I’M THE KING OF SALEM,” THE OLD MAN HAD SAID.
“Why would a king be talking with a shepherd?” the boy asked, awed and embarrassed.
“For several reasons. But let’s say that the most important is that you have succeeded in discovering your Personal Legend.”
The boy didn’t know what a person’s “Personal Legend” was.
“It’s what you have always wanted to accomplish. Everyone, when they are young, knows what their Personal Legend is.
“At that point in their lives, everything is clear and everything is possible. They are not afraid to dream, and to yearn for everything they would like to see happen to them in their lives. But, as time passes, a mysterious force begins to convince them that it will be impossible for them to realize their Personal Legend.”
None of what the old man was saying made much sense to the boy. But he wanted to know what the “mysterious force” was; the merchant’s daughter would be impressed when he told her about that!
“It’s a force that appears to be negative, but actually shows you how to realize your Personal Legend. It prepares your spirit and your will, because there is one great truth on this planet: whoever you are, or whatever it is that you do, when you really want something, it’s because that desire originated in the soul of the universe. It’s your mission on earth.”
“Even when all you want to do is travel? Or marry the daughter of a textile merchant?”
“Yes, or even search for treasure. The Soul of the World is nourished by people’s happiness. And also by unhappiness, envy, and jealousy. To realize one’s Personal Legend is a person’s only real obligation. All things are one.
“And, when you want something, all the universe conspires in helping you to achieve it.”
They were both silent for a time, observing the plaza and the townspeople. It was the old man who spoke first.
“Why do you tend a flock of sheep?”
“Because I like to travel.”
The old man pointed to a baker standing in his shop window at one corner of the plaza. “When he was a child, that man wanted to travel, too. But he decided first to buy his bakery and put some money aside. When he’s an old man, he’s going to spend a month in Africa. He never realized that people are capable, at any time in their lives, of doing what they dream of.”
“He should have decided to become a shepherd,” the boy said.
“Well, he thought about that,” the old man said. “But bakers are more important people than shepherds. Bakers have homes, while shepherds sleep out in the open. Parents would rather see their children marry bakers than shepherds.”
The boy felt a pang in his heart, thinking about the merchant’s daughter. There was surely a baker in her town.
The old man continued, “In the long run, what people think about shepherds and bakers becomes more important for them than their own Personal Legends.”
The old man leafed through the book, and fell to reading a page he came to. The boy waited, and then interrupted the old man just as he himself had been interrupted. “Why are you telling me all this?”
“Because you are trying to realize your Personal Legend. And you are at the point where you’re about to give it all up.”
“And that’s when you always appear on the scene?”
“Not always in this way, but I always appear in one form or another. Sometimes I appear in the form of a solution, or a good idea. At other times, at a crucial moment, I make it easier for things to happen. There are other things I do, too, but most of the time people don’t realize I’ve done them.”
The old man related that, the week before, he had been forced to appear before a miner, and had taken the form of a stone. The miner had abandoned everything to go mining for emeralds. For five years he had been working a certain river, and had examined hundreds of thousands of stones looking for an emerald. The miner was about to give it all up, right at the point when, if he were to examine just one more stone—just one more—he would find his emerald. Since the miner had sacrificed everything to his Personal Legend, the old man decided to become involved. He transformed himself into a stone that rolled up to the miner’s foot. The miner, with all the anger and frustration of his five fruitless years, picked up the stone and threw it aside. But he had thrown it with such force that it broke the stone it fell upon, and there, embedded in the broken stone, was the most beautiful emerald in the world.
“People learn, early in their lives, what is their reason for being,” said the old man, with a certain bitterness. “Maybe that’s why they give up on it so early, too. But that’s the way it is.”
The boy reminded the old man that he had said something about hidden treasure.
“Treasure is uncovered by the force of flowing water, and it is buried by the same currents,” said the old man. “If you want to learn about your own treasure, you will have to give me one-tenth of your flock.”
“What about one-tenth of my treasure?”
The old man looked disappointed. “If you start out by promising what you don’t even have yet, you’ll lose your desire to work toward getting it.”
The boy told him that he had already promised to give one-tenth of his treasure to the Gypsy.
“Gypsies are experts at getting people to do that,” sighed the old man. “In any case, it’s good that you’ve learned that everything in life has its price. This is what the Warriors of the Light try to teach.”
The old man returned the book to the boy.
“Tomorrow, at this same time, bring me a tenth of your flock. And I will tell you how to find the hidden treasure. Good afternoon.”
And he vanished around the corner of the plaza.
THE BOY BEGAN AGAIN TO READ HIS BOOK, BUT HE WAS NO longer able to concentrate. He was tense and upset, because he knew that the old man was right. He went over to the bakery and bought a loaf of bread, thinking about whether or not he should tell the baker what the old man had said about him. Sometimes it’s better to leave things as they are, he thought to himself, and decided to say nothing. If he were to say anything, the baker would spend three days thinking about giving it all up, even though he had gotten used to the way things were. The boy could certainly resist causing that kind of anxiety for the baker. So he began to wander through the city, and found himself at the gates. There was a small building there, with a window at which people bought tickets to Africa. And he knew that Egypt was in Africa.
“Can I help you?” asked the man behind the window.
“Maybe tomorrow,” said the boy, moving away. If he sold just one of his sheep, he’d have enough to get to the other shore of the strait. The idea frightened him.
“Another dreamer,” said the ticket seller to his assistant, watching the boy walk away. “He doesn’t have enough money to travel.”
While standing at the ticket window, the boy had remembered his flock, and decided he should go back to being a shepherd. In two years he had learned everything about shepherding: he knew how to shear sheep, how to care for pregnant ewes, and how to protect the sheep from wolves. He knew all the fields and pastures of Andalusia. And he knew what was the fair price for every one of his animals.
He decided to return to his friend’s stable by the longest route possible. As he walked past the city’s castle, he interrupted his return, and climbed the stone ramp that led to the top of the wall. From there, he could see Africa in the distance. Someone had once told him that it was from there that the Moors had come, to occupy all of Spain.
He could see almost the entire city from where he sat, including the plaza where he had talked with the old man. Curse the moment I met that old man, he thought. He had come to the town only to find a woman who could interpret his dream. Neither the woman nor the old man was at all impressed by the fact that he was a shepherd. They were solitary individuals who no longer believed in things, and didn’t understand that shepherds become attached to their sheep. He knew everything about each member of his flock: he knew which ones were lame, which one was to give birth two months from now, and which were the laziest. He knew how to shear them, and how to slaughter them. If he ever decided to leave them, they would suffer.
The wind began to pick up. He knew that wind: people called it the levanter, because on it the Moors had come from the Levant at the eastern end of the Mediterranean.
The levanter increased in intensity. Here I am, between my flock and my treasure, the boy thought. He had to choose between something he had become accustomed to and something he wanted to have. There was also the merchant’s daughter, but she wasn’t as important as his flock, because she didn’t depend on him. Maybe she didn’t even remember him. He was sure that it made no difference to her on which day he appeared: for her, every day was the same, and when each day is the same as the next, it’s because people fail to recognize the good things that happen in their lives every day that the sun rises.
I left my father, my mother, and the town castle behind. They have gotten used to my being away, and so have I. The sheep will get used to my not being there, too, the boy thought.
From where he sat, he could observe the plaza. People continued to come and go from the baker’s shop. A young couple sat on the bench where he had talked with the old man, and they kissed.
“That baker…” he said to himself, without completing the thought. The levanter was still getting stronger, and he felt its force on his face. That wind had brought the Moors, yes, but it had also brought the smell of the desert and of veiled women. It had brought with it the sweat and the dreams of men who had once left to search for the unknown, and for gold and adventure—and for the Pyramids. The boy felt jealous of the freedom of the wind, and saw that he could have the same freedom. There was nothing to hold him back except himself. The sheep, the merchant’s daughter, and the fields of Andalusia were only steps along the way to his Personal Legend.
The next day, the boy met the old man at noon. He brought six sheep with him.
“I’m surprised,” the boy said. “My friend bought all the other sheep immediately. He said that he had always dreamed of being a shepherd, and that it was a good omen.”
“That’s the way it always is,” said the old man. “It’s called the principle of favorability. When you play cards the first time, you are almost sure to win. Beginner’s luck.”
“Why is that?”
“Because there is a force that wants you to realize your Personal Legend; it whets your appetite with a taste of success.”
Then the old man began to inspect the sheep, and he saw that one was lame. The boy explained that it wasn’t important, since that sheep was the most intelligent of the flock, and produced the most wool.
“Where is the treasure?” he asked.
“It’s in Egypt, near the Pyramids.”
The boy was startled. The old woman had said the same thing. But she hadn’t charged him anything.
“In order to find the treasure, you will have to follow the omens. God has prepared a path for everyone to follow. You just have to read the omens that he left for you.”
Before the boy could reply, a butterfly appeared and fluttered between him and the old man. He remembered something his grandfather had once told him: that butterflies were a good omen. Like crickets, and like grasshoppers; like lizards and four-leaf clovers.
“That’s right,” said the old man, able to read the boy’s thoughts. “Just as your grandfather taught you. These are good omens.”
The old man opened his cape, and the boy was struck by what he saw. The old man wore a breastplate of heavy gold, covered with precious stones. The boy recalled the brilliance he had noticed on the previous day.
He really was a king! He must be disguised to avoid encounters with thieves.
“Take these,” said the old man, holding out a white stone and a black stone that had been embedded at the center of the breastplate. “They are called Urim and Thummim. The black signifies ‘yes,’ and the white ‘no.’ When you are unable to read the omens, they will help you to do so. Always ask an objective question.
“But, if you can, try to make your own decisions. The treasure is at the Pyramids; that you already knew. But I had to insist on the payment of six sheep because I helped you to make your decision.”
The boy put the stones in his pouch. From then on, he would make his own decisions.
“Don’t forget that everything you deal with is only one thing and nothing else. And don’t forget the language of omens. And, above all, don’t forget to follow your Personal Legend through to its conclusion.
“But before I go, I want to tell you a little story.
“A certain shopkeeper sent his son to learn about the secret of happiness from the wisest man in the world. The lad wandered through the desert for forty days, and finally came upon a beautiful castle, high atop a mountain. It was there that the wise man lived.
“Rather than finding a saintly man, though, our hero, on entering the main room of the castle, saw a hive of activity: tradesmen came and went, people were conversing in the corners, a small orchestra was playing soft music, and there was a table covered with platters of the most delicious food in that part of the world. The wise man conversed with everyone, and the boy had to wait for two hours before it was his turn to be given the man’s attention.
“The wise man listened attentively to the boy’s explanation of why he had come, but told him that he didn’t have time just then to explain the secret of happiness. He suggested that the boy look around the palace and return in two hours.
“‘Meanwhile, I want to ask you to do something,’ said the wise man, handing the boy a teaspoon that held two drops of oil. ‘As you wander around, carry this spoon with you without allowing the oil to spill.’
“The boy began climbing and descending the many stairways of the palace, keeping his eyes fixed on the spoon. After two hours, he returned to the room where the wise man was.
“‘Well,’ asked the wise man, ‘did you see the Persian tapestries that are hanging in my dining hall? Did you see the garden that it took the master gardener ten years to create? Did you notice the beautiful parchments in my library?’
“The boy was embarrassed, and confessed that he had observed nothing. His only concern had been not to spill the oil that the wise man had entrusted to him.
“‘Then go back and observe the marvels of my world,’ said the wise man. ‘You cannot trust a man if you don’t know his house.’
“Relieved, the boy picked up the spoon and returned to his exploration of the palace, this time observing all of the works of art on the ceilings and the walls. He saw the gardens, the mountains all around him, the beauty of the flowers, and the taste with which everything had been selected. Upon returning to the wise man, he related in detail everything he had seen.
“‘But where are the drops of oil I entrusted to you?’ asked the wise man.
“Looking down at the spoon he held, the boy saw that the oil was gone.
“‘Well, there is only one piece of advice I can give you,’ said the wisest of wise men. ‘The secret of happiness is to see all the marvels of the world, and never to forget the drops of oil on the spoon.’”
The shepherd said nothing. He had understood the story the old king had told him. A shepherd may like to travel, but he should never forget about his sheep.
The old man looked at the boy and, with his hands held together, made several strange gestures over the boy’s head. Then, taking his sheep, he walked away.
AT THE HIGHEST POINT IN TARIFA THERE IS AN OLD FORT, built by the Moors. From atop its walls, one can catch a glimpse of Africa. Melchizedek, the king of Salem, sat on the wall of the fort that afternoon, and felt the levanter blowing in his face. The sheep fidgeted nearby, uneasy with their new owner and excited by so much change. All they wanted was food and water.
Melchizedek watched a small ship that was plowing its way out of the port. He would never again see the boy, just as he had never seen Abraham again after having charged him his one-tenth fee. That was his work.
The gods should not have desires, because they don’t have Personal Legends. But the king of Salem hoped desperately that the boy would be successful.
It’s too bad that he’s quickly going to forget my name, he thought. I should have repeated it for him. Then when he spoke about me he would say that I am Melchizedek, the king of Salem.
He looked to the skies, feeling a bit abashed, and said, “I know it’s the vanity of vanities, as you said, my Lord. But an old king sometimes has to take some pride in himself.”
HOW STRANGE AFRICA IS, THOUGHT THE BOY.
He was sitting in a bar very much like the other bars he had seen along the narrow streets of Tangier. Some men were smoking from a gigantic pipe that they passed from one to the other. In just a few hours he had seen men walking hand in hand, women with their faces covered, and priests that climbed to the tops of towers and chanted—as everyone about him went to their knees and placed their foreheads on the ground.
“A practice of infidels,” he said to himself. As a child in church, he had always looked at the image of Saint Santiago Matamoros on his white horse, his sword unsheathed, and figures such as these kneeling at his feet. The boy felt ill and terribly alone. The infidels had an evil look about them.
Besides this, in the rush of his travels he had forgotten a detail, just one detail, which could keep him from his treasure for a long time: only Arabic was spoken in this country.
The owner of the bar approached him, and the boy pointed to a drink that had been served at the next table. It turned out to be a bitter tea. The boy preferred wine.
But he didn’t need to worry about that right now. What he had to be concerned about was his treasure, and how he was going to go about getting it. The sale of his sheep had left him with enough money in his pouch, and the boy knew that in money there was magic; whoever has money is never really alone. Before long, maybe in just a few days, he would be at the Pyramids. An old man, with a breastplate of gold, wouldn’t have lied just to acquire six sheep.
The old man had spoken about signs and omens, and, as the boy was crossing the strait, he had thought about omens. Yes, the old man had known what he was talking about: during the time the boy had spent in the fields of Andalusia, he had become used to learning which path he should take by observing the ground and the sky. He had discovered that the presence of a certain bird meant that a snake was nearby, and that a certain shrub was a sign that there was water in the area. The sheep had taught him that.
If God leads the sheep so well, he will also lead a man, he thought, and that made him feel better. The tea seemed less bitter.
“Who are you?” he heard a voice ask him in Spanish.
The boy was relieved. He was thinking about omens, and someone had appeared.
“How come you speak Spanish?” he asked. The new arrival was a young man in Western dress, but the color of his skin suggested he was from this city. He was about the same age and height as the boy.
“Almost everyone here speaks Spanish. We’re only two hours from Spain.”
“Sit down, and let me treat you to something,” said the boy. “And ask for a glass of wine for me. I hate this tea.”
“There is no wine in this country,” the young man said. “The religion here forbids it.”
The boy told him then that he needed to get to the Pyramids. He almost began to tell about his treasure, but decided not to do so. If he did, it was possible that the Arab would want a part of it as payment for taking him there. He remembered what the old man had said about offering something you didn’t even have yet.
“I’d like you to take me there if you can. I can pay you to serve as my guide.”
“Do you have any idea how to get there?” the newcomer asked.
The boy noticed that the owner of the bar stood nearby, listening attentively to their conversation. He felt uneasy at the man’s presence. But he had found a guide, and didn’t want to miss out on an opportunity.
“You have to cross the entire Sahara desert,” said the young man. “And to do that, you need money. I need to know whether you have enough.”
The boy thought it a strange question. But he trusted in the old man, who had said that, when you really want something, the universe always conspires in your favor.
He took his money from his pouch and showed it to the young man. The owner of the bar came over and looked, as well. The two men exchanged some words in Arabic, and the bar owner seemed irritated.
“Let’s get out of here,” said the new arrival. “He wants us to leave.”
The boy was relieved. He got up to pay the bill, but the owner grabbed him and began to speak to him in an angry stream of words. The boy was strong, and wanted to retaliate, but he was in a foreign country. His new friend pushed the owner aside, and pulled the boy outside with him. “He wanted your money,” he said. “Tangier is not like the rest of Africa. This is a port, and every port has its thieves.”
The boy trusted his new friend. He had helped him out in a dangerous situation. He took out his money and counted it.
“We could get to the Pyramids by tomorrow,” said the other, taking the money. “But I have to buy two camels.”
They walked together through the narrow streets of Tangier. Everywhere there were stalls with items for sale. They reached the center of a large plaza where the market was held. There were thousands of people there, arguing, selling, and buying; vegetables for sale amongst daggers, and carpets displayed alongside tobacco. But the boy never took his eye off his new friend. After all, he had all his money. He thought about asking him to give it back, but decided that would be unfriendly. He knew nothing about the customs of the strange land he was in.
“I’ll just watch him,” he said to himself. He knew he was stronger than his friend.
Suddenly, there in the midst of all that confusion, he saw the most beautiful sword he had ever seen. The scabbard was embossed in silver, and the handle was black and encrusted with precious stones. The boy promised himself that, when he returned from Egypt, he would buy that sword.
“Ask the owner of that stall how much the sword costs,” he said to his friend. Then he realized that he had been distracted for a few moments, looking at the sword. His heart squeezed, as if his chest had suddenly compressed it. He was afraid to look around, because he knew what he would find. He continued to look at the beautiful sword for a bit longer, until he summoned the courage to turn around.
All around him was the market, with people coming and going, shouting and buying, and the aroma of strange foods…but nowhere could he find his new companion.
The boy wanted to believe that his friend had simply become separated from him by accident. He decided to stay right there and await his return. As he waited, a priest climbed to the top of a nearby tower and began his chant; everyone in the market fell to their knees, touched their foreheads to the ground, and took up the chant. Then, like a colony of worker ants, they dismantled their stalls and left.
The sun began its departure, as well. The boy watched it through its trajectory for some time, until it was hidden behind the white houses surrounding the plaza. He recalled that when the sun had risen that morning, he was on another continent, still a shepherd with sixty sheep, and looking forward to meeting with a girl. That morning he had known everything that was going to happen to him as he walked through the familiar fields. But now, as the sun began to set, he was in a different country, a stranger in a strange land, where he couldn’t even speak the language. He was no longer a shepherd, and he had nothing, not even the money to return and start everything over.
All this happened between sunrise and sunset, the boy thought. He was feeling sorry for himself, and lamenting the fact that his life could have changed so suddenly and so drastically.
He was so ashamed that he wanted to cry. He had never even wept in front of his own sheep. But the marketplace was empty, and he was far from home, so he wept. He wept because God was unfair, and because this was the way God repaid those who believed in their dreams.
When I had my sheep, I was happy, and I made those around me happy. People saw me coming and welcomed me, he thought. But now I’m sad and alone. I’m going to become bitter and distrustful of people because one person betrayed me. I’m going to hate those who have found their treasure because I never found mine. And I’m going to hold on to what little I have, because I’m too insignificant to conquer the world.
He opened his pouch to see what was left of his possessions; maybe there was a bit left of the sandwich he had eaten on the ship. But all he found was the heavy book, his jacket, and the two stones the old man had given him.
As he looked at the stones, he felt relieved for some reason. He had exchanged six sheep for two precious stones that had been taken from a gold breastplate. He could sell the stones and buy a return ticket. But this time I’ll be smarter, the boy thought, removing them from the pouch so he could put them in his pocket. This was a port town, and the only truthful thing his friend had told him was that port towns are full of thieves.
Now he understood why the owner of the bar had been so upset: he was trying to tell him not to trust that man. “I’m like everyone else—I see the world in terms of what I would like to see happen, not what actually does.”
He ran his fingers slowly over the stones, sensing their temperature and feeling their surfaces. They were his treasure. Just handling them made him feel better. They reminded him of the old man.
“When you want something, all the universe conspires in helping you to achieve it,” he had said.
The boy was trying to understand the truth of what the old man had said. There he was in the empty marketplace, without a cent to his name, and with not a sheep to guard through the night. But the stones were proof that he had met with a king—a king who knew of the boy’s past.
“They’re called Urim and Thummim, and they can help you to read the omens.” The boy put the stones back in the pouch and decided to do an experiment. The old man had said to ask very clear questions, and to do that, the boy had to know what he wanted. So, he asked if the old man’s blessing was still with him.
He took out one of the stones. It was “yes.”
“Am I going to find my treasure?” he asked.
He stuck his hand into the pouch, and felt around for one of the stones. As he did so, both of them pushed through a hole in the pouch and fell to the ground. The boy had never even noticed that there was a hole in his pouch. He knelt down to find Urim and Thummim and put them back in the pouch. But as he saw them lying there on the ground, another phrase came to his mind.
“Learn to recognize omens, and follow them,” the old king had said.
An omen. The boy smiled to himself. He picked up the two stones and put them back in his pouch. He didn’t consider mending the hole—the stones could fall through any time they wanted. He had learned that there were certain things one shouldn’t ask about, so as not to flee from one’s own Personal Legend. “I promised that I would make my own decisions,” he said to himself.
But the stones had told him that the old man was still with him, and that made him feel more confident. He looked around at the empty plaza again, feeling less desperate than before. This wasn’t a strange place; it was a new one.
After all, what he had always wanted was just that: to know new places. Even if he never got to the Pyramids, he had already traveled farther than any shepherd he knew. Oh, if they only knew how different things are just two hours by ship from where they are, he thought. Although his new world at the moment was just an empty marketplace, he had already seen it when it was teeming with life, and he would never forget it. He remembered the sword. It hurt him a bit to think about it, but he had never seen one like it before. As he mused about these things, he realized that he had to choose between thinking of himself as the poor victim of a thief and as an adventurer in quest of his treasure.
“I’m an adventurer, looking for treasure,” he said to himself.
HE WAS SHAKEN INTO WAKEFULNESS BY SOMEONE. HE had fallen asleep in the middle of the marketplace, and life in the plaza was about to resume.
Looking around, he sought his sheep, and then realized that he was in a new world. But instead of being saddened, he was happy. He no longer had to seek out food and water for the sheep; he could go in search of his treasure, instead. He had not a cent in his pocket, but he had faith. He had decided, the night before, that he would be as much an adventurer as the ones he had admired in books.
He walked slowly through the market. The merchants were assembling their stalls, and the boy helped a candy seller to do his. The candy seller had a smile on his face: he was happy, aware of what his life was about, and ready to begin a day’s work. His smile reminded the boy of the old man—the mysterious old king he had met. “This candy merchant isn’t making candy so that later he can travel or marry a shopkeeper’s daughter. He’s doing it because it’s what he wants to do,” thought the boy. He realized that he could do the same thing the old man had done—sense whether a person was near to or far from his Personal Legend. Just by looking at them. It’s easy, and yet I’ve never done it before, he thought.
When the stall was assembled, the candy seller offered the boy the first sweet he had made for the day. The boy thanked him, ate it, and went on his way. When he had gone only a short distance, he realized that, while they were erecting the stall, one of them had spoken Arabic and the other Spanish.
And they had understood each other perfectly well.
There must be a language that doesn’t depend on words, the boy thought. I’ve already had that experience with my sheep, and now it’s happening with people.
He was learning a lot of new things. Some of them were things that he had already experienced, and weren’t really new, but that he had never perceived before. And he hadn’t perceived them because he had become accustomed to them. He realized: If I can learn to understand this language without words, I can learn to understand the world.
Relaxed and unhurried, he resolved that he would walk through the narrow streets of Tangier. Only in that way would he be able to read the omens. He knew it would require a lot of patience, but shepherds know all about patience. Once again he saw that, in that strange land, he was applying the same lessons he had learned with his sheep.
“All things are one,” the old man had said.
THE CRYSTAL MERCHANT AWOKE WITH THE DAY, AND FELT the same anxiety that he felt every morning. He had been in the same place for thirty years: a shop at the top of a hilly street where few customers passed. Now it was too late to change anything—the only thing he had ever learned to do was to buy and sell crystal glassware. There had been a time when many people knew of his shop: Arab merchants, French and English geologists, German soldiers who were always well-heeled. In those days it had been wonderful to be selling crystal, and he had thought how he would become rich, and have beautiful women at his side as he grew older.
But, as time passed, Tangier had changed. The nearby city of Ceuta had grown faster than Tangier, and business had fallen off. Neighbors moved away, and there remained only a few small shops on the hill. And no one was going to climb the hill just to browse through a few small shops.
But the crystal merchant had no choice. He had lived thirty years of his life buying and selling crystal pieces, and now it was too late to do anything else.
He spent the entire morning observing the infrequent comings and goings in the street. He had done this for years, and knew the schedule of everyone who passed. But, just before lunchtime, a boy stopped in front of the shop. He was dressed normally, but the practiced eyes of the crystal merchant could see that the boy had no money to spend. Nevertheless, the merchant decided to delay his lunch for a few minutes until the boy moved on.
A CARD HANGING IN THE DOORWAY ANNOUNCED THAT several languages were spoken in the shop. The boy saw a man appear behind the counter.
“I can clean up those glasses in the window, if you want,” said the boy. “The way they look now, nobody is going to want to buy them.”
The man looked at him without responding.
“In exchange, you could give me something to eat.”
The man still said nothing, and the boy sensed that he was going to have to make a decision. In his pouch, he had his jacket—he certainly wasn’t going to need it in the desert. Taking the jacket out, he began to clean the glasses. In half an hour, he had cleaned all the glasses in the window, and, as he was doing so, two customers had entered the shop and bought some crystal.
When he had completed the cleaning, he asked the man for something to eat. “Let’s go and have some lunch,” said the crystal merchant.
He put a sign on the door, and they went to a small café nearby. As they sat down at the only table in the place, the crystal merchant laughed.
“You didn’t have to do any cleaning,” he said. “The Koran requires me to feed a hungry person.”
“Well then, why did you let me do it?” the boy asked.
“Because the crystal was dirty. And both you and I needed to cleanse our minds of negative thoughts.”
When they had eaten, the merchant turned to the boy and said, “I’d like you to work in my shop. Two customers came in today while you were working, and that’s a good omen.”
People talk a lot about omens, thought the shepherd. But they really don’t know what they’re saying. Just as I hadn’t realized that for so many years I had been speaking a language without words to my sheep.
“Do you want to go to work for me?” the merchant asked.
“I can work for the rest of today,” the boy answered. “I’ll work all night, until dawn, and I’ll clean every piece of crystal in your shop. In return, I need money to get to Egypt tomorrow.”
The merchant laughed. “Even if you cleaned my crystal for an entire year…even if you earned a good commission selling every piece, you would still have to borrow money to get to Egypt. There are thousands of kilometers of desert between here and there.”
There was a moment of silence so profound that it seemed the city was asleep. No sound from the bazaars, no arguments among the merchants, no men climbing to the towers to chant. No hope, no adventure, no old kings or Personal Legends, no treasure, and no Pyramids. It was as if the world had fallen silent because the boy’s soul had. He sat there, staring blankly through the door of the café, wishing that he had died, and that everything would end forever at that moment.
The merchant looked anxiously at the boy. All the joy he had seen that morning had suddenly disappeared.
“I can give you the money you need to get back to your country, my son,” said the crystal merchant.
The boy said nothing. He got up, adjusted his clothing, and picked up his pouch.
“I’ll work for you,” he said.
And after another long silence, he added, “I need money to buy some sheep.”
➖➖➖