Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 244 đăng ngày 2024-06-15
***
Thời đại sắt đá (3) [Age of Iron]
Tác giả: J. M. Coetzee
Dịch giả: Anh Thư

J. M. Coetzee

(Giải Nobel Văn học 2003)

-:-


Chương 3

Khuya đêm qua bỗng có chuông điện thoại vang lên, giọng đàn bà hớt hải, như giọng một người béo phì không thở được “Tôi muốn gặp Florence”.

- Cô ấy đang ngủ. Mọi người đang ngủ.

- Vâng, bà gọi giùm.

Trời mưa không to lắm. Tôi gõ cửa phòng Florence. Cửa mở liền, y như cô ta đã đứng chờ sẵn. Sau cửa tôi nghe tiếng trẻ lầu bầu trong giấc ngủ. Tôi bảo “Cô có điện thoại”.

Năm phút sau cô ta đến phòng tôi. Không đội nón, để đầu trần, mặc áo ngủ dài trắng, trông cô ta trẻ ra hơn.

Cô ta nói “Lại có chuyện rắc rối”.

- Bheki hả?

- Vâng, tôi phải đi thôi.

- Nó đang ở đâu?

- Phải đi Guguletu trước, rồi sau đó mới đến Công trường C.

- Tôi không hiểu Công trường C ở đâu.

Cô ta nhìn tôi, chưa hiểu thế nào.

Tôi bảo “Ý tôi nói nếu cô chỉ đường, tôi sẽ lái xe đưa cô đi”.

Cô ta ngập ngừng đáp “Vâng, nhưng tôi không thể bỏ bọn trẻ”.

“Thì cho chúng đi theo.”

Cô ta đáp “Vâng”. Chưa bao giờ thấy cô ta lưỡng lự như vậy.

Tôi nói “Còn Vercueil. Phải gọi anh ta đi giúp, để còn đẩy xe nữa”.

Cô ta lắc đầu.

Tôi nằng nặc “Thế nào cũng phải để anh ta cùng đi”.

Con chó nằm cạnh Vercueil, thấy tôi đến, nó chỉ đập đuôi xuống sàn, không đứng dậy.

- Ông Vercueil – tôi gọi to. Anh ta mở mắt. Tôi đứng lùi ra xa. Anh ta càu nhàu – Tôi phải đưa Florence đi Guguletu. Việc rất gấp, phải đi ngay bây giờ, ông cùng đi có được không?

Anh ta không trả lời, quay nằm nghiêng. Con chó vẫy đuôi.

Tôi chĩa đèn vào anh ta gọi “Ông Vercueil!”

Anh ta lẩm bẩm “Mặc kệ bà!”

Tôi nói lại với Florence “Tôi không gọi anh ta được thì phải có người nào đẩy xe chứ?”

Cô ta nói “Để tôi đẩy”.

Florence để hai đứa nhỏ trùm chăn ấm ngồi ghế sau rồi lại đẩy xe. Chúng tôi lên đường. Hơi thở trong xe làm mờ kính, tôi phải cố nhìn, cho xe đi từ từ lên dốc On Waal, bị lạc một lúc ở phố Claremont, rồi tìm ra đường Landsdowne. Những chuyến xe buýt đầu tiên trong ngày đã thấy xuất hiện, đèn sáng trưng, chở đầy khách. Lúc này chưa đến năm giờ.

Chúng tôi đi qua những ngôi nhà cuối cùng, những ngọn đèn cuối cùng, cho xe chạy trong cơn mưa tầm tã lên phía tây bắc, chỉ biết nhìn vào ánh đèn vàng từ đèn pha chiếu mà đi.

Florence nói “Nếu có ai vẫy xe hoặc gặp chuyện gì trên đường, bà đừng có ngừng lại, cứ phải đi tiếp tục”.

Tôi nói “Tôi sẽ không làm thế đâu. Lẽ ra cô phải nói trước. Florence, phải nói để cô biết nếu gặp chuyện gì rắc rối tôi sẽ quay đầu xe về ngay”.

“Tôi không bảo là có chuyện rắc rối. Chỉ nói thế thôi”.

Tôi cho xe đi liều trong đêm tối. Không có ai chặn đường, không có ai vẫy xe, dọc đường cũng không có chuyện gì. Hình như chuyện rắc rối còn chưa xảy ra mà chỉ chuẩn bị cho trận sau. Mọi khi vào giờ này hai bên đường đã có hàng nghìn người làm việc, còn bây giờ thì vắng tanh. Những đám mây mù lởn vởn quệt ngang rồi bay đi. Như có cả ma quỷ nữa. Chỗ này là Amern, nơi không có chim chóc. Tôi rùng mình, bắt gặp cái nhìn của Florence. Tôi hỏi “Còn bao xa?”

“Không xa lắm đâu”.

“Trên điện thoại họ nói thế nào?”

- Hôm qua lại bắn nhau. Họ cấp vũ khí cho quân witdoeke bắn.

- Guguletu có bắn nhau không?

- Không, họ bắn nhau trong rừng.

- Florence, nếu gặp rắc rối là tôi quay về đấy. Chúng ta tới thăm Bheki thôi, ngoài ra không làm gì khác, rồi tôi về. Cô không bao giờ nên thả cho nó đi nữa.

- Vâng, nhưng ở đây bà phải rẽ trái.

Tôi quay xe. Đi được một trăm mét thấy rào chắn giữa đường, đèn nhấp nháy, xe cộ đỗ dọc hai bên, cảnh sát cầm súng. Tôi dừng lại, một viên cảnh sát tiến tới.

Anh ta hỏi “Đến đây làm gì?”

Tôi nói “Tôi đưa người giúp việc về nhà”. Tôi ngạc nhiên thấy sao có thể bình tĩnh mà nói dối như thế được.

Anh ta liếc nhìn bọn trẻ nằm ngủ ở ghế sau. “Nhà cô ta ở đâu?”

Tôi đáp “Ở năm mươi bảy.”

- Bà có thể cho cô ta xuống đây đi bộ, không xa lắm.

Tôi cương quyết “Trời đang mưa, cô ta lại có trẻ nhỏ, tôi không thể để cho cô ta đi bộ một mình”.

Anh ta ngập ngừng, rồi vẫy đèn cho tôi đi tiếp. Đứng trên mui xe gần đó có một thanh niên mặc quần áo dã chiến, tay lăm lăm khẩu súng chĩa vào bóng tối.

Tôi thấy trong không khí có mùi tro ướt, cao su cháy. Chúng tôi cho xe chạy từ từ trên con đường rộng phẳng lát đá, hai bên là những ngôi nhà như hộp diêm. Tôi liếc chiếc xe cảnh sát bọc lưới thép chạy qua. Florence nói “Đến đây bà rẽ phải đi, rẽ phải nữa, rồi dừng lại”.

Cô ta bế đứa con nhỏ, tay dắt đứa kia còn ngái ngủ loạng choạng đi vào con đường nhỏ đến số nhà 218 rồi gõ cửa vào. Hope và Beauty mở mắt ngỡ ngàng. Tôi ngồi bên ngoài, vẫn để xe nổ máy.

Chiếc xe cảnh sát khi nãy đến bên, chiếu đèn thấu vào chỗ tôi. Tôi phải đưa tay che mắt. Xe ấy lại chạy đi tiếp.

Florence bước ra, trùm áo nhựa lên người và đứa bé, ngồi vào sau xe. Một người đội mưa chạy ra theo, không phải Bheki, mà một ông khoảng ba bốn chục tuổi, có râu mép, vẻ nhanh nhẹn. Ông ta ngồi cạnh tôi. Florence nói “Đây là ông Thabane, anh họ tôi. Ông ấy sẽ chỉ đường”.

Tôi hỏi “Hope đâu?”

- Tôi gởi lại để bà chị trông giùm.

- Còn Bheki đâu?

Im lặng.

Người đàn ông nói “Tôi cũng không rõ lắm”. Giọng ông ta nhỏ nhẹ. “Sáng hôm qua nó có đến đây, để đồ đạc rồi đi ngay. Từ đó đến giờ không thấy nó đâu nữa. Nó không về đây ngủ. Nhưng tôi biết các bạn nó ở đâu. Bây giờ chúng ta phải đến đó tìm”.

Tôi hỏi “Florence, có phải cô muốn tìm nó không?”

Florence đáp “Phải tìm nó chứ. Chẳng có cách nào khác”.

Người kia nói “Bà để tôi lái cho. Dù sao như vậy cũng tốt hơn, phải không?”

Tôi vào ngồi sau xe, bên cạnh Florence. Mưa bắt đầu nặng hạt. Xe lõm bõm qua những vũng nước trên con đường gồ ghề. Rẽ trái, rẽ phải, xe vòng một quãng dưới ánh đèn đường tù mù màu da cam rồi đỗ lại. Tôi nói với ông Thabane, anh họ của Florence “Cẩn thận, đừng tắt máy”.

Ông ta bước ra, gõ cửa sổ, nói chuyện khá lâu với người nào đó tôi không trông rõ. Lúc quay ra, người ông ta ướt sũng, lạnh run. Ông ta lóng ngóng rút bao thuốc lá, định châm hút. Tôi bảo “Đừng hút trong xe”. Ông ta và Florence đều có vẻ khó chịu.

Tất cả ngồi im lặng. Tôi hỏi “Ta còn chờ gì nữa?”

- Họ sắp cử người đến chỉ đường.

Một chú bé đội chiếc mũ to hơn người từ trong nhà chạy ra. Cậu ta cười chào mọi người, vẻ tự tin, nhảy vào trong xe chỉ đường. Cậu ta chỉ độ mười tuổi là cùng. Một chú bé của thời đại, đã quen với cảnh bạo lực. Nghĩ đến thời trẻ, tôi chỉ nhớ những buổi chiều dài nắng gắt, nhớ mùi thơm của bạch đàn trên đại lộ, nhớ tiếng nước róc rách bên đường, tiếng chim bồ câu rúc rích. Tuổi ấu thơ chỉ biết ngủ, khúc dạo đầu của cuộc sống không biết đến phiền muộn, êm ả đi tới Niết bàn. Ít ra thì tuổi trẻ của chúng ta, tuổi trẻ của thời đã qua, cũng được phép đi lên Niết bàn chứ? Tôi không tin điều đó. Nếu như có công lý thì chúng ta đã được chặn lại ở ngưỡng cửa Âm phủ rồi. Như đám côn trùng trắng bệch, sống nhung nhúc, chúng ta sẽ được họ gởi theo những linh hồn trẻ con trẻ mãi mãi ê a tiếng khóc. Màu trắng của ta bị bỏ quên. Cát trắng, đá trắng, ánh sáng trắng tràn ngập khắp phía, mãi mãi nằm ngoài bãi biển trong ngày Chủ Nhật vô tận giữa hàng ngàn đồng loại trì trệ ngủ gật, với tiếng sóng vỗ êm ru. Trước hết là nằm ở ngưỡng cửa cái chết, ngưỡng cửa của cái sống, là những sinh vật do biển vứt lên, chui xuống cát, vô định, không biết chắc điều gì, chẳng nóng cũng chẳng lạnh, chẳng phải cá cũng không phải chim.

Chúng tôi qua mấy ngôi nhà cuối cùng. Xe chạy qua ánh sáng mờ qua vùng đất cháy, cây cỏ đen sì. Một chiếc xe tải chạy qua, ba người ngồi sau chui dưới vải bạt. Đến đoạn đường sau chúng tôi theo kịp họ. Họ lặng lẽ nhìn chúng tôi trong khi chờ kiểm tra. Viên cảnh sát vẫy cho họ đi, rồi vẫy cho chúng tôi đi.

Chúng tôi quay lên phía bắc, bỏ xa rặng núi, rồi qua đường cao tốc đến một quãng đường đá sắp biến thành cát. Ông Thabane dừng xe lại nói “Chúng ta không thể đi xa hơn được, nguy hiểm lắm”. Rồi chỉ tay vào đèn đỏ nhấp nháy ở xe nói tiếp “Ổ điện của bà có vấn đề”.

Tôi nói “Tôi để nó hỏng đấy”. Tôi không muốn giải thích gì thêm.

Ông ta tắt máy. Chúng tôi ngồi một lúc lâu nghe mưa rơi thình thình trên mui xe. Rồi Florence và chú bé bước ra. Con nhỏ đèo trên lưng cô ta vẫn ngủ yên. Ông Thabane nói “Bà nên đóng cửa vào thì hơn”.

“Các người đi bao lâu?”

- Không thể biết được, nhưng chúng tôi sẽ cố mau về.

Tôi lắc đầu nói “Tôi không ngồi ở đây được”.

Tôi không có mũ, không có dù. Mưa hắt vào mặt, tóc bết vào da đầu, chảy xuống cổ. Tôi nghĩ đi thế này có thể bị cảm lạnh. Chú bé dẫn đường đã đi một quãng xa. Ông Thabane đưa cho tôi chiếc áo mưa “Bà đội cái này lên đầu đi”.

Tôi nói “Không cần, mưa nhỏ không sao đâu”.

Ông ta nằng nặc “Bà cứ đội lên đi”. Tôi làm theo.

Chung quanh toàn những cồn cát xám hoang vắng, đều thuộc giống Cảng Jackson, những đống rác và tro bụi. Những mảnh nhựa, sắt vụn, thuỷ tinh, xương động vật rải rác hai bên đường. Tôi đã bắt đầu run vì lạnh, nhưng đi nhanh hơn thì tim đập rất khó chịu. Tôi tụt lại sau. Florence có dừng lại nghỉ không? Không. Lòng mẹ khiến cô ta không dừng lại vô ích.

Đến một ngã ba, ông Thabane dừng lại chờ. Tôi hổn hển nói “Cám ơn, ông rất tốt bụng, xin lỗi phải để ông chờ. Tôi có chỗ đau ở bên hông”.

Ông ta nói “Bà hãy dựa vào tay tôi”.

Nhiều người nối nhau đi qua, họ có râu, mặt lầm lì, tay cầm gậy. Ông Thabane tránh sang bên đường. Tôi phải bám chặt lấy ông ta.

Đường rộng dần, cuối cùng đến một cái ao to, bên kia bờ ao là một dẫy nhà lụp xụp, những nhà thấp đều ngập nước. Một số nhà có khung gỗ và sắt, những nhà khác chỉ có vải nhựa bọc khung gỗ, nằm ngả nghiêng trên cồn cát.

Đến bờ ao tôi đứng lại. Ông Thabane nói “Bà cứ theo tôi”. Tôi bám ông ta đi, nước ngập đến mắt cá chân. Một chiếc giày của tôi bị nước hút đi đâu mất. Ông ta dặn “Coi chừng mảnh chai”. Tôi tìm lại được chiếc giày.

Ở cổng vào chỉ có một bà già đứng đó trễ miệng, chẳng có đèn đóm gì. Đi sâu vào trong nghe có tiếng ù ù, lúc đầu tưởng là gió và mưa, nghe dần thành tiếng kêu, tiếng hét, tiếng gọi nhau, trên nền đất thấp những tiếng đó giống như tiếng thở dài. Tiếng thở dài của bàn dân thiên hạ.

Rồi chú bé dẫn đường lại xuất hiện, nắm lấy ống tay áo ông Thabane, nói vội vã. Hai người bỏ đi. Tôi cố theo họ đi qua những cồn cát.

Chúng tôi đứng phía sau một đám đông hàng trăm người, nhìn xuống cảnh tàn phá dưới kia. Những túp lều bị đốt trụi, có chỗ còn đang cháy, toả khói đen. Bàn ghế, giường tủ, đồ vật trong nhà, vứt lổng chổng dưới mưa. Mấy tốp người ra sức cứu những thứ còn lại trong túp lều cháy, dập từng đám lửa. Tôi chợt nghe không hiểu họ cứu lửa hay đốt lửa, vì tôi tưởng như họ không chiến đấu với lửa mà chiến đấu với mưa.

Tiếng thở dài là từ những người đứng ngoài cồn cát. Như những người đưa tang, họ đứng dưới mưa, đàn ông, đàn bà, trẻ con, người nào người nấy sũng nước, chẳng che đậy gì, chỉ biết nhìn cảnh tàn phá.

Một người mặc áo choàng đen vung chiếc rìu đập vỡ cửa sổ, rồi đạp cửa chính cho bật vào trong. Một bà ôm con nhỏ chạy ù ra như vừa được sổ lồng, ba đứa nhỏ đi chân đất chạy theo. Ông ta để họ đi qua rồi đập nhát nữa vào khung cửa, túp nhà kêu răng rắc.

Một người nữa bước vào trong, tay mang chiếc bô. Người đàn bà chạy vào theo, đem ra một bọc khăn trải giường. Bà ta định vào nữa nhưng bị đuổi ra ngoài.

Từ trong đám đông, một hòn đá ném lên nóc nhà đang cháy kêu cạch một tiếng, một hòn khác ném vào tường, một hòn khác nữa ném cạnh chân người đang cầm rìu. Ông ta hét một tiếng hăm doạ. Rồi ông ta cùng hơn chục người nữa dừng tay, giơ gậy gộc tiến đến đám đông. Họ kêu hét bỏ chạy. Tôi cũng bỏ chạy nhưng bị hút vào cát không nhấc chân lên được. Tim tôi đập mạnh, ngực đau nhói. Tôi dừng lại thở, nghĩ bụng: mình gặp chuyện này ở đây thật sao? Mình ở đây làm gì thế? Dường như tôi trông thấy chiếc xe màu xanh lục lặng lẽ chờ bên đường. Tôi không mong gì khác hơn là ngồi vào xe của tôi, đóng chặt cửa, chạy thoát khỏi cái thế giới điên rồ và bạo lực này.

Một bé gái, rất to béo, huých vào vai tôi bắn sang một bên. Tôi ngã xuống mắng nó “Đồ quỷ!”. Nó hung hãn chửi lại “Đồ quỷ! Cút đi! Cút đi!” rồi nó chạy lên cồn cát, ngúng nguẩy cái lưng to béo.

Tôi nằm úp mặt xuống cát nghĩ bụng chỉ một chút nữa là mình đi đứt. Những loại người như nó có thể đánh nữa, mà tôi thì yếu ớt như con sâu.

Tiếng chân đi lạo xạo bên cạnh. Tôi chợt nhìn thấy chiếc ủng da nâu, mũi quặp xuống, gót buộc dây. Tôi bị ngã nhưng chưa hề gì.

Tôi đứng dậy. Phía trái hình như còn đang đánh nhau. Đám người bỏ chạy vào rừng trước đây một phần bỗng kéo lại. Một người đàn bà hét rất to. Tôi không biết có thể chạy khỏi chỗ khủng khiếp này bằng cách nào. Cái ao tôi lội qua lúc nãy không biết bây giờ ở đâu, đường đi ra xe ở đâu? Chỗ nào cũng thấy ao, hồ, vũng nước, những lối nhỏ này đi ra đâu không biết.

Tôi nghe rõ tiếng súng nổ. Một tiếng, hai tiếng, ba tiếng, không gần lắm, nhưng cũng không xa.

Một giọng nói vang lên. Ông Thabane vừa đến. “Đi thôi!” “Vâng!” Tôi cám ơn, cố chạy theo không kịp.

Tôi gọi “Xin ông đi chậm lại cho!” Ông ta chờ. Chúng tôi quay lại cái ao khi nãy và ra đến đường cũ.

Một thanh niên đến bên cạnh chúng tôi, mắt đỏ lè. Anh ta nói “Các người đi đâu?” Tôi chẳng biết phải trả lời thế nào.

Tôi đáp “Tôi đang bỏ chạy. Chẳng biết đây là nơi nào”.

Ông Thabane nói “Chúng tôi đi tìm xe”.

Anh ta nói “Chúng tôi cần đến chiếc xe đó”.

Tôi nói “Tôi không cho bất cứ ai lấy xe của tôi”.

Ông Thabane nói “Anh này là bạn của Bheki”.

Tôi mặc kệ, tôi không cho anh ta lấy xe.

Anh thanh niên này chưa phải là người lớn, thật ra chỉ ăn mặc như người lớn, cử chỉ như người lớn, làm một động tác hơi lạ. Anh ta giơ một tay lên ngang đầu, tay kia đánh vào tay này bốp một tiếng. Thế nghĩa là gì? Động tác ấy có nghĩa gì chứ?

Lưng tôi đau muốn chết vì đi bộ. Tôi đi chậm rồi đứng lại nói “Tôi phải về nhà ngay!”. Tôi nói như van lơn, giọng run run.

Ông Thabane nói “Bà đã thấy đủ chưa?” Giọng ông có vẻ nhẹ hơn.

“Tôi thấy đủ rồi. Tôi không đến để xem gì hết. Tôi chỉ đi tìm Bheki thôi”.

“Và bây giờ bà muốn về nhà?”

“Phải, tôi muốn về. Tôi đang đau lắm, tôi mệt lắm rồi”.

Ông ta quay người đi tiếp. Tôi tập tễnh bước theo.

Rồi ông ta dừng lại nói “Bà muốn về nhà ư? Còn những người ở đây thì sao? Họ muốn về nhà tức là về đây thôi. Bà nghĩ sao?”

Chúng tôi đứng giữa đường, dưới cơn mưa nhìn nhau. Những người đi qua cũng dừng lại, họ tò mò nhìn tôi. Việc của tôi cũng là việc của họ, việc của tất cả.

Tôi nói “Tôi chẳng biết nói thế nào. Kinh khủng quá”.

Ông ta nói “Không chỉ kinh khủng thôi đâu. Đó là tội ác. Khi bà thấy tận mắt một tội ác, thì sẽ nói gì nào? Bà có thể nói “tôi thấy đủ rồi, tôi không đến để xem, tôi muốn về nhà” được không?”

Tôi lắc đầu thất vọng.

Ông ta nói “Không, bà không nói thế đâu, đúng không? Vậy bà nói thế nào? Bà đã thấy tội ác gì? Tên tội ác đó là gì?”

Ông ta là một nhà giáo, tôi nghĩ thế. Cho nên ông ta nói khá giỏi. Những gì ông ta vừa làm đều đã thực hành ở trường. Một cái mẹo thường dùng để người ta tưởng như trẻ con cũng trả lời được. Cách nói từ trong bụng ấy là di sản của Socrates, được áp đặt ở Châu Phi cũng như ở Athens.

Tôi nói “Ông Thabane, có rất nhiều điều tôi có thể nói được. Nhưng phải đúng là những lời từ tôi mà ra. Ông nên biết, khi người ta bị buộc phải nói thì ít khi nói ra sự thật”.

Ông ta định trả lời nhưng tôi ngăn lại.

- Khoan đã, ông hãy chờ đấy. Tôi không né tránh câu hỏi của ông đâu. Ở đây đang diễn ra những chuyện khủng khiếp. Nhưng tôi nghĩ gì về những chuyện đó thì tôi phải nói theo cách của tôi.

- Vậy xin bà cho nghe bà định nói thế nào! Chúng tôi nghe đây! Chúng tôi đang chờ đây!

Ông ta giơ tay cho mọi người im lặng. Đám đông lẩm bẩm tán thành.

Tôi thủng thẳng nhắc lại “Đây là những cảnh khủng khiếp. Phải lên án những cảnh đó. Nhưng tôi không thể lên án bằng những lời của người khác được. Tôi phải có những lời lẽ của riêng tôi. Nếu đó không phải là sự thật. Bây giờ tôi chỉ nói thế thôi”.

Một người trong đám đông lên tiếng “Bà này nói bậy” Anh ta nhìn quanh rồi nhắc lại “Nói bậy”. Không ai phản đối anh ta. Vài người bỏ đi.

Tôi nói “Phải, anh có lý. Điều anh vừa nói là đúng đấy”.

Anh ta nhìn tôi như nhìn một người điên.

Tôi nói tiếp “Nhưng anh tưởng thế nào? Nếu nói về những cái này” – tôi chỉ tay vào bụi cây, vào đám khói, vào đống rác rưởi vứt bên đường – “Anh phải cần đến ngôn ngữ của thánh nhân”.

Anh ta lại lớn tiếng thách thức “Bậy!”

Ông Thanbane quay lưng bỏ đi. Tôi lết theo sau. Đám đông cũng bỏ đi. Lát sau chú bé cũng chạy vội bên tôi. Tôi trông thấy chiếc xe.

Ông Thabane nói “Xe của bà là chiếc Hillman phải không? Trên đường chẳng còn mấy chiếc xe này nữa đâu”.

Tôi ngạc nhiên. Sau bao nhiêu chuyện vừa rồi, tôi tưởng như đã có sự ngăn cách giữa ông ta và tôi. Nhưng hình như ông ta không giận.

Tôi đáp “Từ hồi những chiếc xe của Anh được coi là tốt nhất đấy. Tôi xin lỗi vì đã làm ông phật ý”.

Ông ta không để tâm, hỏi lại “Đồ của Anh vẫn là tốt nhất sao?”

- Không, tất nhiên không. Đó chỉ là khẩu hiệu của thời gian sau chiến tranh mà thôi. Ông chẳng nhớ được gì đâu vì hồi đó ông còn trẻ.

Ông ta nói “Tôi sinh năm 1943. Nay đã bốn mươi ba tuổi. Bà không tin à?” Ông ta quay lại cho tôi nhìn kỹ. Cũng tầm thường thôi, tầm thường nhưng có chỗ hấp dẫn.

Tôi khởi động xe. Ắc quy không chạy. Ông Thabane và chú bé đứng ra đẩy, chân cắm chặt xuống cát. Cuối cùng máy nổ. Chú bé nói “Đi luôn đi!” Tôi nghe theo.

Tôi hỏi ông Thabane “Ông là nhà giáo phải không?”

- Trước kia là nhà giáo. Nhưng tôi tạm bỏ nghề, cho đến khi nào thuận tiện. Hiện nay tôi bán giày.

Tôi quay sang hỏi chú bé “Còn chú?”

Nó lẩm bẩm câu gì tôi không nghe rõ.

Ông Thabane quay hỏi nó “Chú cũng là thiếu niên thất nghiệp, phải thế không?”

Nó mỉm cười rồi bảo “Rẽ đây, ngay sau cửa hàng kia”.

Ba cửa hàng nằm chơ vơ giữa khoảng đất hoang cháy xém, một hàng có biển đề HÃNG BHAWOODEN, tôi còn đọc được.

Ông Thabane nói “Lâu rồi, từ năm ngoái cơ”.

Chúng tôi ra đường đất rộng hơn. Phía trái có một căn nhà sạch sẽ hơn, tường gạch, mái xi măng đúc, có cả lò sưởi. Xa đó một chút quanh đó là những ngôi nhà lụp xụp.

Chú bé chỉ tay “Nhà kia kìa”.

Nhà này dài và thấp, có lẽ là phòng họp hay trường học gì đó, chung quanh có hàng rào lưới. Nhiều chỗ đã bị dẫm bẹp, chỉ còn vài bức tường khói đen. Một đám đông đã đứng trước nhà. Một số quay ra nhìn chiếc xe Hillman của tôi đang đến.

Tôi hỏi “Có nên tắt máy không?”

Ông Thabane nói “Bà cứ tắt máy đi, không có gì phải sợ”.

Tôi bảo “Tôi không sợ”. Thật không? Kể ra sau vụ vừa rồi cũng sợ chứ, nhưng tôi không quan tâm mấy nữa.

Ông ta bảo “Dù sao cũng chẳng đáng sợ”. Rồi chỉ tay nói “Đám trẻ ở đây sẽ bảo vệ cho bà”.

Tôi trông thấy ba đứa mặc quần áo kaki lính, đội mũ sắt, đứng sau đám cây ở cuối đường, hình chúng hiện rõ trên nền trời.

Ông ta lại nói “Nếu bà tưởng đây là xung đột giữa đám da đen với nhau thì không phải đâu. Kìa, nhìn cô em tôi kìa”.

Ông ta gọi là cô em tôi, chứ không gọi là Florence. Có lẽ trên đời này chỉ mình tôi gọi cô ta là Florence. Gọi cô ta bằng bí danh. Bây giờ tôi sẽ có thể biết được sự thật của họ.

Cô ta đứng tựa lưng vào tường tránh mưa, trông giống một phụ nữ đáng kính khoác áo màu nho chín, được viền trắng. Chúng tôi đi về phía đó. Cô ta không có biểu hiện gì nhưng tôi chắc cô ta đã thấy tôi. Tôi gọi “Florene!” Cô ta nhìn lên, vẻ buồn bã. “Cô tìm thấy nó chưa?”

Cô ta gật, hất đầu vào phía trong rồi quay đi, không trả lời tôi. Ông Thabane len qua đám người vào bên trong. Tôi lúng túng ngồi chờ. Mọi người đi qua đây đều đến gần nhìn tôi như có vẻ không bằng lòng.

Một cô bé mặc váy học sinh màu táo xanh tiến về chỗ tôi giơ tay lên như muốn tát vào mặt. Tôi rụt người lại nhưng cô bé chỉ đùa. Chưa biết chừng cô ta định làm như thế thật.

Ông Thabane chạy ra, thở hồng hộc “Có lẽ bà nên vào xem”. Ông ta đến chỗ Florence, ôm cô ta vào lòng. Cô ta bỏ kính, gục đầu vào vai ông ta khóc.

Trong nhà chất đầy gạch đá gậy gộc. Cuối phòng chỗ tránh mưa tốt nhất có năm xác người được xếp nằm gọn ghẽ. Cái xác nằm giữa chính là Bheki, con của Florence. Nó vẫn còn mặc quần nỉ màu xám, sơ mi trắng, áo lên cộc tay màu nâu đậm của trường học, nhưng chân không đi giày. Mắt nó mở trừng trừng và miệng há to. Nó và các bạn đều đã phải dưới mưa hàng giờ, không chỉ ở đây mà nhiều chỗ khác trước khi chết. Quần áo, tóc tai cả bọn đều xơ xác. Đuôi mắt và miệng của Bheki còn có cả những hạt cát. Một người nắm lấy cánh tay tôi. Tôi ngỡ ngàng, nhìn mặt một cô bé gái, nghiêm nghị mở to mắt. Cô bé gọi “Bà ơi..” rồi không nói gì nữa.

Một bà đứng gần đó mỉm cười giải thích “Nó muốn hỏi bà có phải là một trong số nữ tu không đấy”.

Lúc này tôi không muốn ai đưa tôi đi đâu. Tôi lắc đầu.

Bà kia nói “Nó muốn hỏi bà có phải là một trong số nữ tu của Giáo hội Cơ đốc không”. Bà ta lại quay sang tôi rồi nói tiếng Anh với nó “Không, bà ấy không phải là nữ tu đâu”. Rồi nhấc tay nó ra khỏi tay áo tôi.

Một đám người quây chung quanh Florence.

Tôi hỏi ông Thabane “Để chúng nằm dưới mưa như thế này sao?”

- Chúng phải nằm đó để cho mọi người được thấy.

- Nhưng ai gây ra chuyện này?

Khắp người tôi run rẩy, cả tay nữa. Tôi nghĩ đến đôi mắt thằng bé mở trừng trừng. Không biết lần cuối cùng nó thấy gì trên đời này? Đây là điều tệ hại nhất tôi được chứng kiến. Rồi tôi nghĩ bụng: bây giờ mình đã mở mắt rồi, sẽ không bao giờ có thể nhắm mắt được nữa.

Ông Thabane nói “Ai gây ra ư? Nếu bà lấy được những viên đạn trong người chúng thì tôi hoan nghênh. Nhưng tôi nói trước để bà biết. “Chế tạo tại Nam Phi đã được SABS duyệt”. Đó là những gì bà sẽ thấy”.

Tôi nói “Xin ông hãy nghe đây. Tôi không liên quan với…cuộc chiến tranh này đâu. Sao tôi có thể bàng quan được? Chẳng gì chúng tôi ngăn được điều này”. Tôi cảm thấy muốn khóc nhưng ở đây, bên cạnh Florence, tôi không có quyền khóc. Tôi nói khẽ “Điều đó sống trong tôi, và tôi cũng sống trong lòng nó”.

Ông Thabane nhún vai. Trông ông ta càng xấu xí. Chắc chắn bây giờ tôi cũng xấu hơn. Sự biến dạng làm cho lời nói của ta nặng nề, cảm nghĩ của ta tê dại, biến ta thành thú vật. Liệu trên đất này cây cỏ có thể mọc ở đâu để giúp cho ta thoát khỏi tình trạng ấy?

Mẹ kể lại cho con câu chuyện sáng nay, bụng vẫn nhớ rằng người kể chuyện có cái quyền chính đáng của mình. Phải qua con mắt của mẹ con mới thấy được chuyện đó. Tiếng nói trong đầu óc con là tiếng nói của mẹ. Chỉ có qua mẹ con mới đến được đây để nhìn những căn nhà hoang vắng, ngửi thấy khói, nhìn thấy xác chết, nghe thấy tiếng khóc, thấy người ta phơi mình dưới mưa. Điều con nghĩ là ý nghĩ của mẹ, điều con cảm thấy là nỗi thất vọng của mẹ, cũng như mong chờ bất cứ điều gì có thể chấm dứt ý nghĩ muốn ngủ đi, chờ chết. Tình cảm của con tràn trong lòng mẹ, trái tim cùng nhịp đập với trái tim mẹ.

Này con, da thịt của da thịt mẹ, cái tốt đẹp nhất của mẹ, mẹ yêu cầu con hãy trở lại đi. Mẹ kể chuyện này chẳng phải để con thông cảm với mẹ, mà để con biết câu chuyện là thế nào. Mẹ biết sẽ dễ cho con hơn nếu như câu chuyện do người khác kể lại, tiếng con nghe được là tiếng của người xa lạ. Nhưng sự thật là không có ai khác, duy nhất chỉ có mẹ. Mẹ là người viết ra những điều này. Mẹ yêu cầu con hãy nghĩ đến những gì viết ra, đừng nghĩ đến mẹ. Nếu những lời ấy là nói dối, kêu ca một cách vô cớ, con cũng cứ nghe. Đừng bỏ qua, đừng dễ dàng tha thứ. Con hãy đọc hết, dù mẹ khẩn thiết yêu cầu bằng con mắt lạnh lùng.

Có ai đó ném đá vào kính chắn gió. Cục đá to bằng đầu đứa trẻ nằm lặng im trên ghế xe giữa những mảnh kính vỡ, y như nó là chủ chiếc xe vậy. Tôi nghĩ không biết tìm đâu được tấm kính chắn gió cho xe Hillman bây giờ đây? Rồi nghĩ cũng may mà mọi thứ cùng chấm dứt một lúc!

Tôi cầm cục đá trên ghế vứt ra ngoài, nhặt những mảnh vỡ. Bây giờ có việc làm nên tôi bình tĩnh hơn, càng bình tĩnh hơn nữa vì tôi không còn quan tâm đến chuyện mình còn sống hay không. Cái gì có thể xảy đến với tôi không còn quan trọng nữa. Tôi nghĩ đời mình cũng là bỏ đi rồi. Ta bắn giết những người đó vì họ là đồ bỏ đi, nhưng cuối cùng thì chính cuộc sống và bản thân ta cũng không đáng sống.

Tôi nghĩ đến năm cái xác to lớn nằm lồ lộ trước ngôi nhà bị cháy rụi. Tôi nghĩ hồn ma của họ chưa bay đi và sẽ không bỏ đi. Hồn ma của họ còn ngồi vững vàng ở đó, còn chiếm lĩnh họ.

Nếu ai đào cho tôi nấm mồ ở đây, đào trong cát và chỉ chỗ tôi, tôi sẽ lặng lẽ chui vào đó nằm, khoanh tay trên ngực, không nói một lời nào. Rồi khi cát phủ vào miệng, vào mắt, tôi sẽ không hề nhấc một ngón tay mà phủi đi.

Con đừng vì cảm tình mà đọc những dòng này. Trái tim con cùng đập với trái tim mẹ.

Tôi giơ một đồng tiền ra ngoài cửa xe. Người lớn tranh nhau chạy đến. Trẻ con xô đẩy nhau. Máy xe nổ. Tôi dốc cả túi tiền vào những bàn tay chìa tới.

Qua quãng đường cây cối rậm rạp đến một chỗ có nhiều xe quân sự. Tôi đếm, không chỉ có ba mà những năm xe. Bằng con mắt trẻ thơ, đội mũ che mưa, tôi bước ra khỏi xe, quần áo ướt thấm lạnh khiến tôi tưởng như mình đang trần trụi.

Tôi đã hy vọng những gì cần nói sẽ bật ra, nhưng chẳng nói được gì. Tôi chìa tay, lật ngửa bàn tay, bàn tay bảo tôi không nói được.

Wag in die motor, ek sal die polisie skakel” (tiếng Afrikaans: Đợi trong xe, tôi sẽ gọi cảnh sát), chú bé kêu lên. Cậu ta có má lúm đồng tiền, làm ra vẻ quan trọng, muốn chơi trò chết người. “Bà cứ ngồi chờ trong xe đi, để tôi gọi cảnh sát cho”. Tôi lắc đầu, lắc đầu mãi. Cậu ta như đang nói với ai đó ngồi bên mà tôi không trông thấy. Cậu ta cười. Chắc họ đã quan sát tôi từ trước và có nhận xét gì về tôi rồi. Họ cho tôi là một bà già điên khùng có thiện chí đang bị kẹt trong mưa, một con gà mái ủ rũ. Họ nói đúng chăng? Tôi là người có thiện chí ư? Không đâu, tôi chưa thấy mình làm gì tốt cả. Hay tôi điên khùng thật? Đúng đấy, tôi điên khùng. Nhưng họ cũng điên khùng. Tất cả chúng ta đều điên khùng, bị ma ám. Khi sự điên khùng đã lên ngôi, thử hỏi còn ai trên đất nước này không bị nhiễm?

Tôi bảo “Đừng gọi cảnh sát, tôi tự lo được”. Nhưng chung quanh vẫn có tiếng rầm rì, có những con mắt liếc nhìn. Có lẽ họ đã nghe đài.

Tôi gọi chú bé hỏi “Cậu định làm gì thế?” Cậu ta mỉm cười. “Cậu định làm gì thế?” Tôi lại quát lên, giọng the thé. Cậu ta chưng hửng nhìn xuống. Chưng hửng vì bị một bà người da trắng quát tháo, một người có cái tuổi có thể là bà ngoại cậu ta được.

Một người mặc đồ dã chiến từ chiếc xe đỗ phía sau đi tới. Anh ta nhìn tôi. “Wat is die moekikheid?” (tiếng Afrikaans: Rắc rối gì thế)? Anh ta hỏi chú bé ngồi trong xe quân sự. “Nee, niks moeilikheid nie” (tiếng Afrikaans: Không có vấn đề). Không có vấn đề. “Net hierdie dame wat wil weet wat aangaan” (tiếng Afrikaans: Chỉ là người phụ nữ này muốn biết chuyện gì đang xảy ra).

Anh ta quay sang tôi nói “Chỗ này nguy hiểm lắm, thưa bà”. Rõ ràng anh ta là một sĩ quan. “Ở đây có thể xảy ra nhiều chuyện. Để tôi cho người hộ tống, đưa bà trở lại đường cũ”.

Tôi lắc đầu. Tôi đã tự làm chủ được mình. Tôi không chảy nước mắt nữa, tuy biết không để chuyện gì làm mình sụp đổ vào bất cứ lúc nào.

Tôi muốn gì chứ? Bà già này muốn gì? Điều tôi muốn là nói ra hết với họ, nói bất cứ gì có thể nói được vào lúc này, ở chỗ này. Điều tôi muốn, trước khi bị họ tống khứ, là phô bày vết sẹo, vết thương, bắt họ phải tận mắt nhìn thấy. Vết sẹo nào cũng được, vết sẹo của tất cả sự đau khổ, vì đó là vết sẹo của chính tôi, vết sẹo duy nhất tôi có thể mang theo. Tôi đã đưa tay lên định cởi khuy áo nhưng ngón tay tôi bỗng tê dại hẳn đi.

Tôi hỏi bằng một giọng khàn khàn “Các anh đã nhìn thấy gì trong ngôi nhà kia chưa?” Nước mắt tôi bắt đầu ứa ra.

Viên sĩ quan vứt điếu thuốc lá xuống đất, chân dí vào mặt cát ướt.

Anh ta nhẹ nhàng nói “Trong hai mươi bốn giờ qua đơn vị này chưa bắn một viên đạn nào. Tôi đề nghị với bà thế này: bà đừng thất vọng trước khi bà biết rõ mình nói gì. Những người trong đó không phải là những người duy nhất bị chết đâu. Những cuộc bắn giết lúc nào cũng có. Họ chỉ là những xác nhặt về từ chiều hôm qua. Hiện nay chuyện đánh nhau đã giảm bớt, nhưng tạnh mưa sẽ lại bùng lên ngay. Tôi không hiểu bà làm sao đến đây được – lẽ ra họ đã chắn đường – nhưng chỗ này không tiện đâu, bà không nên ở đây. Chúng tôi sẽ điện báo cho cảnh sát, họ có thể hộ tống bà ra khỏi chỗ này”.

Chú bé trong xe quân sự nói “Ek het reeds geskakel!” (tiếng Afrikaans: Tôi đã gọi rồi!)

Tôi bảo “Tại sao các anh không bỏ súng xuống mà về nhà đi, về tất cả đi. Vì chắc chắn là không có gì tệ hơn những việc các anh làm ở đây. Ý tôi muốn nói là tệ hại cho tâm hồn của các anh”.

Anh ta đáp “Không”. Tôi đã tưởng anh ta không hiểu, nhưng không, anh ta rất hiểu tôi nói gì. “Bây giờ chúng ta sẽ rõ hết”.

Khắp người tôi ớn lạnh. Ngón tay tôi cụp vào, không duỗi ra được nữa. Gió thổi quần áo dính vào da thịt tôi.

Tôi nói “Tôi biết một trong những đứa trẻ đã chết ấy. Tôi biết nó từ khi nó lên năm tuổi. Mẹ nó giúp việc cho tôi. Tất cả các anh đều quá trẻ để làm những việc này. Tôi ghê tởm, chỉ có vậy thôi”.

Tôi lùi xe vào trong nhà, ngồi trên xe đợi. Họ đã mang mấy cái xác ra ngoài. Tôi cảm thấy đám đông nhìn tôi như bực bội, căm ghét, thậm chí thù hận. Nếu như tôi không nói gì với đám lính kia sẽ khác chăng? Không.

Ông Thabane bước đến xem tôi cần gì. Tôi nói “Tôi xin lỗi, nhưng tôi không chắc có biết đường về không”.

Ông ta đáp gọn “Bà ra đường nhựa, rẽ phải, theo bảng chỉ đường”.

- Phải, nhưng bảng nào?

- Bảng đến chỗ văn minh – nói rồi ông ta quay gót.

Tôi cho xe đi chậm, phần vì gió táp vào mặt, phần vì thể xác và linh hồn tôi tê dại. Tôi lạc vào một vùng ngoại ô chưa nghe nói đến bao giờ, phải mất hai mươi phút đi quanh các phố lạ mới tìm được đường ra. Cuối cùng tôi đến đường Voortrekker. Đến đây, mọi người thấy lạ, chăm chú nhìn xe tôi có tấm kính chắn gió bị vỡ toang. Họ còn nhìn theo tôi đến tận nhà.

Ngôi nhà vừa lạnh vừa xa lạ. Tôi tự nhủ: hãy tắm nước nóng cái đã, rồi nghỉ. Nhưng người tôi bỗng mệt rũ ra, lạnh cứng. Tôi phải cố lê lên gác, cởi hết quần áo ướt, khoác chiếc áo ngủ rồi lên giường. Cát sỏi ở ngoài Mũi Xóm chui vào kẽ chân. Tôi nghĩ bụng mình sẽ chẳng bao giờ còn ấm lên được. Vercueil có con chó để nằm với nó. Vercueil biết sống như thế nào với hoàn cảnh này. Còn tôi, với thằng bé lạnh lẽo sắp đem vùi trong lòng đất ấy, chẳng có con chó nào giúp. Cát đã chui vào miệng nó, đòi mạng nó.

Đã mười sáu năm kể từ khi mẹ không chung giường với một người đàn ông hoặc với một đứa trẻ. Mười sáu năm cô đơn. Con có lấy thế làm lạ không?

Mẹ đã viết, đang viết. Mẹ đi theo cây bút, nó đi đến đâu mẹ đến đấy. Bây giờ mẹ còn gì nữa đâu?

Thức dậy người tôi mỏi nhừ. Vẫn đang đêm. Không thấy ngày đâu.

Trong buồng vệ sinh có đèn sáng. Vercueil ngủ ngồi trên hố xí, quần kéo xuống ngang đầu gối, đầu đội mũ. Tôi nhìn mà ngạc nhiên hết sức.

Anh ta không tỉnh, trái lại, mặc dù đầu lắc lư, miệng há hốc, anh ta vẫn ngủ như đứa trẻ. Đùi anh ta dài ngoẳng, hầu như không có lông chân.

Cửa bếp mở toang, thùng rác đổ kềnh, rác tung toé ở sân. Con chó đùa với mảnh giấy gói đồ cũ. Trông thấy tôi, nó vểnh tai, vẫy đuôi. Tôi lẩm bẩm “Thật quá đáng! Thật quá đáng!” con chó lẻn ra ngoài.

Tôi ngồi vào bàn bật khóc. Không phải vì đầu óc hoang mang, cũng không phải vì cảnh bề bộn trong nhà, mà vì thằng Bheki. Tôi quay nhìn hướng nào cũng nó trước mặt, mắt nó mở to như đứa trẻ ngơ ngác về cái chết. Tôi gục đầu nức nở, thương tiếc nó, thương tiếc những gì đã lấy đi của nó, lấy đi của tôi. Sống thì tốt đẹp biết chừng nào! Sống là ý tưởng tuyệt vời của Chúa! Chưa bao giờ có ý tưởng nào hay hơn thế. Không quà tặng nào hào phóng hơn thế, tự nó lại đổi mới qua các thế hệ. Vậy mà bây giờ Bheki đã bị tước mất, không còn nữa!

Tôi muốn về nhà! – tôi xấu hổ vì đã nói thế với ông Thabane, người bán giày. Câu nói trẻ con của một người già. Về nhà để được an toàn, để ngủ trên chiếc giường của thời niên thiếu. Tôi có bao giờ tỉnh táo đâu? Tôi nên tự hỏi: người chết có biết là mình chết không. Không. Người chết không được biết gì hết. Nhưng trong giấc ngủ như chết, ít nhất ta cũng được báo trước. Tôi được báo trước nhiều hơn mọi ký ức được biết đã có một thời tôi sống, chắc chắn là như vậy. Sống, rồi sau đó cái sống bị đánh cắp. Việc đánh cắp diễn ra từ trong nôi. Đứa trẻ bị lấy đi, thay vào là con búp bê được bú mớm, nuôi nấng, và tôi phải gọi búp bê ấy chính là tôi.

Búp bê? Cuộc sống của búp bê? Phải chăng tôi đã sống như thế? Phải chăng búp bê được ban cho quan niệm như thế? Hay ý nghĩ ấy chỉ đến và đi như báo trước, chớp nhoáng, như mũi tên trí tuệ của thiên thần chọc thủng đám sương mù? Búp bê có thể nhận thức mình là búp bê không? Búp bê có biết chết là gì không? Không, búp bê lớn lên được, biết nói năng đi đứng, biết lang thang trên đường đời. Nó già đi, héo hắt và tàn lụi. Nó bị vứt vào lửa hoặc chôn xuống đất, nhưng nó không chết. Nó mãi mãi tồn tại đúng vào lúc nó bị bất ngờ, sững sờ trước khi nó nhớ ra rằng cái sống đã bị lấy đi, cái sống không phải của nó mà ở chỗ người ta để nó lại như một vật thay thế. Hiểu biết của nó là hiểu biết không có chất, không có sức nặng trần tục, chỉ là một cái đầu búp bê rỗng tuếch, nhẹ tênh. Bản thân nó không phải là đứa trẻ mà chỉ có ý nghĩ của đứa trẻ, tròn hơn, đỏ hơn, mắt xanh hơn chính mắt đứa trẻ, không biết là sống mà chỉ là ý tưởng về cái sống, không đạo lý, không chết, như mọi ý tưởng khác vậy.

Âm phủ, Địa ngục, là lĩnh vực của ý tưởng. Tại sao cần phải lấy địa ngục làm chỗ cho nó trong băng lạnh ở Nam cực hay ở miệng núi lửa? Tại sao địa ngục lại không phải ở dưới chân châu Phi, và tại sao các sinh vật của địa ngục lại không thể đi giữa cái sống?

Đứa trẻ đứng bên giường cha nài hỏi “Cha không thấy con đang bị đốt cháy hay sao?” Nhưng cha nó vẫn ngủ, vẫn mơ, không thấy gì hết.

Đó là cái lý tôi nêu ra để thấy tại sao tôi phải bám chặt vào ký ức về mẹ tôi. Vì nếu không phải bà cho tôi sự sống thì chẳng ai khác cho được. Tôi không chỉ bám vào ký ức về bà mà bám vào người bà, bám vào thân thể bà, bám vào cái đã sinh ra tôi trên đời này. Nhờ có bà và sữa của thân thể bà mà tôi ra đời. Rồi bị đánh cắp và mất đi từ đó đến nay.

Có một tấm ảnh về mẹ, con đã xem rồi và có lẽ không nhớ. Ảnh chụp năm 1918, hồi đó mẹ chưa đầy hai tuổi. Ảnh chụp mẹ đứng với tay đến máy ảnh, bà ngoại quỳ phía sau, tay nắm chiếc đai buộc vào vai mẹ. Đứng bên cạnh là Paul, ông anh mẹ, đầu đội mũ chéo, chẳng nhìn đến mẹ.

Mẹ nheo mắt nhìn vào máy ảnh. Không hiểu lúc đó mẹ liếc nhìn vào ánh nắng, hay như dân man rợ Borneo, mẹ có cảm giác máy ảnh cướp mất tâm hồn mình? Hơn nữa, bà ngoại giữ mẹ lại, không cho đụng vào máy ảnh sợ rơi xuống đất, sợ rằng mẹ cũng như búp bê, không nhìn thấy mình trong máy ảnh. Không biết bà ngoại có hiểu rằng chính bà cũng không có?

Paul chết rồi, vì thế mẹ viết những dòng này. Lúc bác ấy ra đi, mẹ nắm chặt tay, thì thầm bên tai “Anh sẽ được thấy mẹ, cả mẹ và anh sẽ được sung sướng”. Bác thật nhợt nhạt, mắt trắng dã có màu xanh của khoảng trời xa. Mắt không hồn, bác ấy nhìn mẹ như muốn nói nhưng chẳng hiểu gì hết! Không biết Paul đã sống thật sự bao giờ chưa? Có lần bác ấy viết thư cho mẹ nói “đời chỉ là vay mượn”. Cuối cùng chẳng biết bác ấy có biết là mình sai lầm không? Chẳng hiểu đôi mắt đục mờ ấy có thể nhìn thấu mẹ không?

Hôm đó chụp ảnh trong vườn. Sau lưng bồn hoa giống như hoa thục quỳ, phía trái có luống dưa, mẹ nhận ra chỗ này. Đó là Uniondale, ngôi nhà trên phố Nhà Thờ do ông ngoại mua khi đà điều bắt đầu mọc lông. Mỗi năm trong vườn đều có hoa quả, rau cỏ, mọc mầm rồi chết, rồi lại mọc, um tùm như ban lộc cho mọi người. Nhưng có ai chăm sóc đâu? Ai ngắt hoa thục quỳ? Ai gieo hạt giống dưa vào luống đất ẩm ướt? Có phải ông ngoại dậy từ bốn giờ sáng lạnh buốt để mở cống dẫn nước vào vườn? Nếu không phải là ông ngoại thì vườn đo thuộc quyền ai? Ngoài tấm ảnh ra, còn ai là người đào xới chăm bón?

Dies irae, dies illa, (tiếng Afrikaans: Chết đi, chết đi) khi người vắng phải có mặt nhưng hiện tại vắng mặt. Tấm ảnh không còn thấy ai ở trong vườn hôm đó mà lại không có đó. Những năm qua đi khắp nơi trên đất nước tìm chỗ che giấu, trong các tập ảnh, trong ngăn kéo bàn, tấm ảnh này cũng như hàng ngàn tấm khác đều đã trưởng thành, biến dạng. Ảnh không giữ được như cũ, hoặc đã khác đi – ai mà biết đã xảy ra chuyện gì – nhưng chúng đã trở thành âm bản, một loại âm bản mới trong đó ta bắt đầu thấy những gì còn lại bên ngoài nó, bí mật.

Có lẽ vì thế mà lông mày tôi trụi đi, vì thế mà tôi cố vươn tay đến máy ảnh. Phải chăng tôi thầm nghĩ máy ảnh là kẻ thù? Nó không dối trá mà bộc lộ cái thật trong ta: đó là con người búp bê? Phải chăng lúc ấy tôi cố giằng ra khỏi chiếc đai để đập chiếc máy ảnh trong tay ai đó, sợ để chậm sẽ quá muộn? Ai là người cầm máy ảnh? Ai không hình dáng mà lại cố ngả người vào mẹ tôi và hai đứa nhỏ đứng bên kia giường?

Nỗi đau buồn qua đi, chỉ còn biết khóc. Người tôi trống rỗng. Tôi chỉ là cái vỏ. Số phận dành đúng bệnh cho từng người. Bệnh của tôi là thứ bệnh ăn từ trong ăn ra. Nếu mở tung, họ sẽ thấy tôi rỗng ruột như búp bê, búp bê có con cua nằm bên trong, thè lưỡi liếm, ánh sáng làm chói mắt.

Bây giờ nó gặm nhấm xương tuỷ tôi đến nỗi không còn lại chút thịt nào. Nó gặm nhấm xương hông của tôi, gặm nhấm cột sống của tôi, bắt đầu gặm đến đầu gối. Nói thật ra, đám mèo chưa bao giờ thật sự yêu quý tôi. Chỉ có giống này trung thành với tôi đến cùng. Cơn đau đớn là vật cưng của tôi.

Tôi lên gác mở cửa phòng vệ sinh. Vercueil vẫn ngồi đó, ngủ gục. Tôi lay anh ta “Ông Vercueil!” Anh ta mở một mắt. “Lại đây mà nằm”.

Nhưng anh ta không chịu. Tôi nghe anh ta đi từng bậc thang xuống nhà như ông cụ. Rồi nghe cửa sau đóng.

-

Một ngày đẹp trong số những ngày đông yên ắng và mọi chỗ trên bầu trời đều sáng sủa. Vercueil lái xe đưa tôi xuống phố Breda, vào phố Cam. Qua đại lộ Chính Phủ, tôi bảo anh ta đỗ xe.

Tôi nói “Tôi định cho xe đi suốt đại lộ. Qua khỏi chỗ chắn dây xích, sẽ không còn ai chặn xe nữa. Anh nhắm có thể qua được không?”

(Chắc con nhớ. Ở đầu đại lộ chắn dây xích, hai bên có hai cọc sắt to).

Anh ta nói “Được chứ, có thể lách đi được”.

- Sau đó ta có thể đi thẳng tuốt.

Cặp mắt ti hí nhìn tôi hỏi “Bà định làm thế thật ư?”

- Nếu tôi có đủ can đảm.

- Nhưng tại sao? Để làm gì chứ?

Với cái nhìn ấy, tôi khó mà trả lời rõ ràng. Tôi nhắm mắt, hình dung chiếc xe của tôi phóng nhanh, nhả khói ở phía sau, chạy dọc con đường qua đám du khách, người đi bộ, những cặp tình nhân, qua bảo tàng, phòng triển lãm tranh, qua vườn bách thảo, rồi đi chậm lại và đỗ hẳn trước ngôi nhà nhục nhã đang cháy rụi.

Tôi nói “Bây giờ ta có thể quay về. Tôi chỉ muốn xem có thể làm như thế được không thôi”.

Anh ta vào nhà. Tôi mời anh ta uống trà. Con chó nằm dưới chân, vểnh tai nghe chúng tôi nói chuyện. Con chó thật ngoan. Nó có mặt lúc này như một ngôi sao vậy.

Tôi nói “Vừa rồi anh hỏi “để làm gì”, tôi xin trả lời, điều ấy liên quan đến cái sống của tôi. Làm gì với cái sống đó là chuyện không đáng kể nữa. Tôi chỉ định thử xem làm như thế thì được gì”.

Anh ta vuốt ve con chó. Nó nhắm mắt nằm yên. Tôi nghĩ bụng đó là tình yêu, dù không hẳn thế thì điều tôi chứng kiến đó cũng là tình yêu.

Tôi nói tiếp “Có một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nói về một người đàn bà bị buộc tội ngoại tình – xưa kia ngoại tình bị coi là tội ác – họ đem bêu chị ta trước công chúng với chữ A (Adultery – ngoại tình) khâu trên áo. Chị ta mặc áo có chữ A mà không ai hiểu chữ ấy là thế nào. Rồi người ta quên đi, chẳng ai hỏi nữa. Đó chỉ là thứ đeo vào người như chiếc nhẫn hay ghim hoa cài trên áo thôi. Rồi nó trở thành thứ mốt thời trang, viết chữ lên áo. Trong tiểu thuyết không nói thế”.

“Ai mà biết được người ta muốn nói lên cái gì trong những cuộc trình diễn trước công chúng, những cuộc biểu thị như vậy? – đây mới là mấu chốt của câu chuyện. Chẳng hạn một bà già tự thiêu. Tại sao thế? Bà ta bị điên ư? Bà ta thất vọng ư? Bà ta bị ung thư chăng? Tôi đã nghĩ đến việc viết chữ gì đó lên xe để giải thích. Nhưng viết chữ gì? A hay B hay C? Trường hợp của tôi thì viết chữ gì? Mà việc gì phải giải thích chứ? Chuyện riêng của tôi thì có dính gì đến ai đâu?”

Đáng lẽ tôi còn nói nữa nhưng lúc đó có tiếng cạch ngoài cổng và con chó đã gầm gừ. Những hai người đàn bà, một người tôi nhận ra là chị của Florence, tay xách vali bước vào.

Cô chị Florence lên tiếng chào. Tay chị ta cầm chìa khoá “Chúng tôi đến lấy đồ đạc của Florence”.

Tôi đáp “Vâng, được”.

Họ vào phòng Florence. Lát sau tôi theo vào hỏi “Florence vẫn mạnh khoẻ chứ?”

Cô chị đang mở ngăn kéo đứng dậy thở dài. Rõ ràng câu hỏi ngớ ngẩn của tôi làm chị ta nhẹ người.

Chị ta nói “Không ạ, không thể nói là cô ấy mạnh khoẻ được. Không mạnh khoẻ. Làm sao cô ấy có thể mạnh khoẻ được?”

Người đàn bà kia làm như không nghe thấy gì, tiếp tục gói ghém quần áo của bọn trẻ. Trong phòng còn nhiều thứ khác không thể bỏ hết vào hai chiếc vali được.

Tôi nói “Ý tôi không phải thế, nhưng thôi, không sao, tôi có thể nhờ cô đem một thứ cho Florence được không?”

- Được, nếu không cồng kềnh lắm.

Tôi viết một tấm séc.

- Cô nói giùm với Florence là tôi rất tiếc. Nói là tôi rất tiếc, không thể nói gì hơn. Lúc nào tôi cũng nghĩ đến Bheki.

- Bà rất tiếc.

- Vâng.

 

 

Lại một ngày đẹp trời nữa. Vercueil có vẻ kích thích lạ thường. Anh ta hỏi “Hôm nay là ngày đó ư?” Tôi nói “Phải”. Thấy anh ta có ý sốt sắng với vẻ không lành mạnh, tôi định nói thêm “Nhưng việc gì đến anh?”.

Đúng, tôi đã nói hôm nay là ngày đó. Nhưng “cái hôm nay” ấy đã qua rồi, và tôi không làm được như đã hứa. Vì chừng nào còn tiếp tục nói những lời lê thê, chắc chắn tôi chưa thực hiện được điều tôi đã quy định. Thực ra cái chết là kẻ thù lớn cuối cùng của việc viết lách, nhưng viết lách lại cũng là kẻ thù của cái chết. Do đó, viết lách, nắm cái chết trong tay, phải nói là tôi muốn viết cho xong hẳn, muốn nói được nhiều điều. Tôi muốn tắm rửa, mặc quần áo, chuẩn bị cho mình chút tự hào để trở lại cái ngày đó. Nằm ở giường chờ đợi tắt thở hay đi ra ngoài để chấm dứt đời mình, thì có khác gì nhau?

Có thật là tôi muốn làm cho xong việc đó không? Có. Không. Có - Không. Có từ này nhưng chưa bao giờ được đưa vào tự điển. Có-Không: Mỗi người đàn bà đều biết nó có nghĩa như thế nào vì mọi đàn ông đều chịu thua cái từ đó. Vercueil hỏi “Bà có định làm thế không?” Mắt anh ta sáng lên. Lẽ ra tôi đã trả lời “Có-Không”.

Tôi mặc đồ trắng lẫn xanh, bộ đồ xanh trắng, chiếc áo trắng hở cổ. Tôi cẩn thận sửa soạn mặt mũi một lần nữa. Tôi ngồi lì trước gương, người khẽ run rẩy. Tôi không thấy đau chút nào. Con cua trong mình đã thôi gặm nhấm.

Vercueil tò mò theo tôi vào bếp. Anh ta lảng vảng khi tôi đang ăn sáng. Cuối cùng, tôi khó chịu bảo “Xin anh để tôi yên!” Anh ta quay đi, vẻ giận dữ rất trẻ con. Tôi nắm tay áo anh ta kéo lại nói “Tôi không có ý thế đâu. Nhưng anh ngồi xuống đây đã. Tôi chỉ muốn yên nhưng anh làm tôi bực mình. Tôi phải quay ra quay vào mãi. Đến một lúc tôi nghĩ: hãy để tôi kết thúc cho nhanh cuộc sống vô vị này đi. Rồi tôi lại nghĩ: nhưng tội gì tôi chịu khổ như vậy? Tại sao tôi cứ muốn vươn mình lên trên thời buổi của tôi? Phải chăng những gì tôi làm là đáng xấu hổ? Tại sao cái già yếu, cái đau đớn lại cứ rơi vào tôi, khiến tôi phải tự mình cố ngoi lên khỏi cái hố nhục nhã mà không có ai giúp đỡ?

Tôi muốn nổi điên với những ai đã tạo ra thời buổi này. Tôi muốn tố cáo họ đã làm hỏng đời tôi, y như một con gián bò vào làm hỏng thức ăn mà chúng không ăn, chỉ bò vào ngửi và bôi bẩn thôi. Tôi nghĩ bụng: chỉ tay đổ tội cho người khác là trẻ con. Nhưng tại sao tôi lại nhận để cuộc sống của tôi thành vô vị dù cho ai có quyền ở đất nước này cũng thế? Dù sao quyền lực vẫn là quyền lực. Nó xâm chiếm cuộc sống. Tự nhiên phải thế.

Anh muốn biết tôi hiện đang thế nào ư, rồi tôi sẽ nói. Tôi muốn đem bán bản thân tôi, muốn chuộc lại bản thân tôi, nhưng tôi hoàn toàn hoang mang chẳng biết làm thế nào. Có thể nói sự điên rồ đã thấm vào người tôi. Anh chẳng cần ngạc nhiên. Anh đã biết đất nước này thế nào rồi. Không khí ở đây là điên rồ”.

Nghe tôi nói, Vercueil vẫn nheo mắt nhìn với vẻ khó chịu. Bỗng anh ta nói một câu rất lạ “Bà muốn ra xe đi một lúc không?”

- Ông Vercueil, chúng ta không đi được. Có hàng ngàn lý do tại sao không đi được.

- Chúng ta sẽ đi ngắm cảnh, mười hai giờ quay lại đây.

- Chúng ta không thể đi ngắm cảnh bằng cái lỗ hổng ở kính chắn gió. Như vậy kỳ cục lắm.

- Tôi sẽ bỏ kính chắn gió đi. Nó chỉ là mảnh kính. Cần gì đến nó.

Tại sao tôi nghe theo? Có lẽ cuối cùng anh ta đã để ý đến tôi chăng? Anh ta như đứa trẻ trong tuổi đầy phấn khích, phấn khích tình dục, mà tôi lại là đối tượng. Tôi thấy thú vị, dù thế nào cũng thấy khoái. Trong thâm tâm có thể tôi cảm thấy không thích, chẳng qua như con chó đào miếng thịt thối bị chôn sâu mà thôi. Nhưng tôi không thể phân biệt rõ ràng. Tôi muốn lắm chứ? Tôi muốn được treo người lên. Treo lên mà không cần nghĩ ngợi, không đau, không nghi ngờ, không mặc cảm, treo lên cho đến trưa. Cho đến khi súng nổ trên đồi Tín Hiệu với chai xăng để trên ghế cạnh tôi. Hoặc tôi lái, hoặc tôi không lái qua qua chỗ có dây xích trên Đại lộ. Cho đến lúc đó, tôi sẽ chẳng nghĩ ngợi gì, chỉ nghe chim hót, cảm thấy có gió thôi vào người, được nhìn bầu trời. Và được sống.

Thế là tôi nghe theo. Vercueil quấn chiếc khăn quanh tay, đấm mạnh vào mảnh kính, mở một lỗ to đủ cho đứa trẻ chui vào được. Tôi đưa chìa khoá xe. Một nhát đẩy và chúng tôi lên đường.

Như cặp tình nhân đi thăm lại cảnh vật lúc mới tỏ tình lần đầu, chúng tôi leo lên đường ven núi lên Muizenberg. (Tình nhân! Không biết tôi đã nói gì với Vercueil? Bảo anh ta đừng uống rượu. Anh ta nói gì với tôi? Không nói gì hết, có lẽ cả tên thật cũng không nói). Chúng tôi đỗ xe chỗ cũ. Tôi tự nhủ: nào, bây giờ hãy ngắm cảnh một lần cuối đi, móng tay quặp vào lòng bàn tay, tôi nhìn ra vịnh Giả Tạo, vịnh của những hy vọng giả tạo, nhìn về phía nam đang gợn gió mùa đông, nơi bị bỏ quên hơn cả trong các đại dương.

Tôi khẽ nói “Nếu có thuyền, anh có thể đưa tôi ra biển”.

Đi về phía nam. Chỉ có Vercueil và tôi. Chúng tôi đi đến tận những vùng nào có hải âu bay. Đến một nơi anh ta có thể buộc tôi vào tấm ván hay chiếc thùng, cái gì cũng được, để một mình tôi vẫy vùng trên sóng, dưới những cánh chim trắng thật to.

Vercueil quay xe lại. Tôi đoán nhầm, hay là anh ta điều khiển xe nhẹ nhàng hơn tôi?

Tôi nói “Tôi xin lỗi nếu nói không phải. Tôi cố tình mất hướng. Tôi cố tỏ ra khẩn trương, một ý nghĩ khẩn trương vẫn trốn khỏi tôi. Ngồi đây, giữa cảnh đẹp này, hoặc ngồi nhà giữa đồ đạc quen thuộc, hình như tôi thấy khó tin là chung quanh tôi có một vùng giết chóc và làm mất danh dự. Nó như một giấc mơ tồi tệ. Trong tôi như có gì thúc bách, giục giã. Tôi cố không nghĩ, nhưng nó khăng khăng đến. Tôi càng lui, nó càng thúc tới. Tôi đành để mặc, thế là cuộc sống lại bình thường. Tôi yên tâm trở lại bình thường. Tôi lăn lộn trong đó. Tôi mất ý nghĩ xấu hổ, trở thành đứa không biết xấu hổ là gì. Xấu hổ hay không xấu hổ đó là điều tôi không thể quên, điều sau này có thể chịu đựng được. Vì thế tôi phải giữ mình để đi tiếp nếu không tôi sẽ lạc. Anh hiểu không?”

Vercueil gò mình trên tay lái, như người mắt kém. Con mắt diều hâu mà thế. Nhưng anh ta hiểu hay không có quan trọng gì đâu?

Tôi vẫn nói “Y như người ta cố bỏ rượu vậy. Cố mãi, từ đầu đã biết thế nào rồi cũng quay lại. Có chút xấu hổ trong tâm tư riêng ấy, xấu hổ mà nồng ấm, thân mật, dễ chịu, để cảm thấy xấu hổ hơn. Hình như một người cảm thấy xấu hổ không có bờ bến nào hết.

“Nhưng tự giết mình thì khó lắm! Người ta bám lấy cuộc sống! Tôi thấy hình như đến lúc cuối cùng có cái gì đó ngoài ý chí, một cái gì xa lạ, không tư duy, quét mình ra khỏi miệng vực thẳm. Anh phải trở thành một người nào đó khác với mình. Nhưng cái gì chờ tôi bước vào chỗ đó? Tôi tìm người đó ở đâu được?”

Đồng hồ tôi chỉ 10 giờ 20. Tôi nói “Ta phải quay về thôi”.

Verceuil cho xe chậm lại. Anh ta nói “Nếu bà muốn thế, tôi sẽ đưa bà về. Hoặc nếu bà muốn, ta tiếp tục đi. Chúng ta có thể đi quanh bán đảo. Hôm nay đẹp trời mà”.

Đáng lẽ tôi đáp: Không, đưa tôi về ngay. Nhưng tôi ngập ngừng, lúc đó không nói được.

Tôi bảo “Dừng lại đây”.

Verceuil lái xe cạnh đường đỗ lại.

Tôi nói “Tôi muốn nhờ anh một việc. Nhưng anh đừng cười tôi”.

“Tại sao lại cười?”

Phải, bây giờ hoặc sau này.

Anh ta nhún vai.

Bên kia đường có người mặc quần áo rách ngồi cạnh đống củi, chờ bán. Anh ta nhìn chúng tôi rồi quay đi.

Thời gian trôi.

Cuối cùng tôi nói, giọng nhỏ nhẹ “Đã có lần tôi kể cho anh nghe chuyện về mẹ tôi. Chuyện hồi bà còn nhỏ ngủ trong bóng tối, không biết cái gì đang lăn trên người mình, là bánh xe hay là các ngôi sao.

Và đời tôi chỉ nghĩ đến chuyện ấy. Nếu mỗi chúng ta có câu chuyện để nói về mình, hỏi mình là ai và đã ở đâu ra, thì đó chính là câu chuyện của tôi. Đó là câu chuyện tôi đã chọn, hay câu chuyện đó chọn tôi. Tôi là từ đấy mà ra, từ đấy mà bắt đầu.

- Anh hỏi tôi muốn tiếp tục đi hay không. Nếu thực tế có thể, tôi đề nghị chúng ta đi đến tận Mũi Đông, gần dãy núi Outeniqua, đến chỗ đỗ xe ở đỉnh đèo Hoàng tử Alfred. Thậm chí tôi muốn đề nghị ta hãy để bản đồ lại sau, đánh xe đi về phía bắc, phía đông, theo mặt trời, đến nơi đỗ xe tôi sẽ nhận ra, chỗ bắt đầu, chỗ có cái rốn, chỗ tôi ra đời ấy. Anh bỏ tôi xuống bên đèo, rồi anh cứ tiếp tục đi, để tôi ở lại chờ đến đêm, chờ các ngôi sao và bánh xe lăn trên người tôi.

“Nhưng sự thật là có hay không có bản đồ thì tôi cũng không tìm ra chỗ ấy. Tại sao? Vì tôi chợt không muốn nữa. Trước đây một năm hay một tháng thì khác. Ý nghĩ mong muốn, có lẽ là mong muốn sâu sắc nhất đã tràn khỏi người tôi, dẫn tôi đến một nơi trên trái đất. Có lẽ tôi sẽ quỳ xuống đó nói: Đây là mẹ tôi, đây là nơi đã cho tôi cuộc sống. Đó là đất thiêng, không phải nấm mồ, mà là nơi phục sinh thiêng liêng, phục sinh vĩnh viễn từ trái đất.

“Bây giờ mong muốn ấy, điều mà tôi gọi nó là tình yêu, đã đi khỏi tôi rồi. Tôi không còn yêu đất nước này nữa. Đơn giản thế thôi. Tôi như một người bị thiến, bị thiến trong khi đang trưởng thành. Tôi cố hình dung ra một người bị thiến thì sống như thế nào. Tôi tưởng tượng anh ta nhìn những gì trước kia đã yêu, trong ký ức biết rằng còn phải yêu nữa, nhưng không thể gọi tình yêu tự đến. Tình yêu: đó là cái gì thế? Anh ta tự nhủ, lục tìm cảm giác cũ trong ký ức. Nhưng mọi thứ bây giờ bằng phẳng, bất động, yên tĩnh. Anh ta sẽ nghĩ: điều ta từng có đã phản bội ta. Anh ta tập trung, cố nghĩ xem phản bội thì nhức nhối như thế nào. Nhưng sẽ không nhức nhối. Nhức nhối sẽ ra đi, từ bỏ hết. Ngược lại anh ta sẽ thấy mình bị lôi kéo, nhẹ thôi nhưng liên tục, bị đẩy đến chỗ kinh hoàng, tách khỏi mọi thứ. Anh ta tự nhủ, tách ra rồi, và giơ tay sờ thử xem nó sắc đến đâu, nhưng lại thấy nó cùn và mòn. Anh ta nghĩ mọi thứ đều co lại, một tuần nữa, một tháng nữa và anh ta sẽ quên hết. Như người ta ăn từng hạt sen vậy. Vì cuối cùng ta sẽ cảm thấy nỗi đau của sự xa cách, mọi thứ đến với ta chỉ như nỗi buồn thoáng qua.

Ông Vercueil, không biết tôi nói như thế đã rõ chưa. Tôi đang nói đến quyết tâm, cố nắm lấy quyết tâm mà không được. Thú thật là tôi đang chết đuối. Tôi ngồi đây bên cạnh anh mà đang chết đuối”.

Vercueil ngả lưng dựa vào xe. Con chó khẽ kêu ư ử, chồm chân lên ghế, chúi đầu về phía trước như đòi đi nữa. Một phút trôi qua.

Anh ta lấy bao diêm trong túi đưa cho tôi nói “Bây giờ bà làm đi”.

- Làm cái gì?

- Cái đó.

- Anh muốn thế sao?

- Bà làm ngay đi. Tôi ra ngoài xe. Bà làm ngay ở đây đi.

Nước dãi phập phồng ở mép anh ta, tôi nghĩ chắc anh ta điên. Có thể nói anh ta ác độc, điên rồ, như con chó điên.

Anh ta lắc bao diêm trước mặt tôi, chỉ tay vào người đang ngồi bên đống củi “Bà lo cho hắn ư? Hắn sẽ không can thiệp đâu”.

Tôi nói “Ở đây không được”.

- Chúng ta có thể lên ngọn Chapman. Nếu muốn, tôi có thể lái xe đến bờ vực.

Tôi như đang bị kẹt trong xe với một người đàn ông định quyến rũ, rồi nổi giận vì không chịu nghe. Như bị ai đem về những ngày bi đát của thời son trẻ.

Tôi nói “Ta về nhà được không?”

- Tôi tưởng bà muốn làm việc ấy kia mà?

- Anh không hiểu.

- Tôi tưởng bà muốn phóng xe xuống dốc. Để tôi đẩy cho.

Đến bên ngoài khách sạn ở vịnh Hout, anh ta đỗ lại nói “Bà có tiền đấy không?”

Tôi đưa cho anh ta tờ bạc mười rand.

Anh ta vào cửa hàng tự do rồi quay ra với một chai rượu bọc trong túi giấy nâu. Anh ta vặn nút rồi đưa cho tôi “Bà hãy uống một chút”.

- Không, cám ơn. Tôi không thích brandy.

- Không phải brandy, đây là thuốc.

Tôi nhấp một ngụm, định nuốt nhưng sặc, rồi ho, răng muốn rơi ra.

Anh ta nói “Bà cứ ngậm trong miệng thôi”.

Tôi làm ngụm nữa, ngậm trong miệng. Vòm miệng tôi nóng cháy rồi tê đi. Tôi nhắm mắt nuốt. Trong người tôi như có cái gì nhấc bổng tôi lên. Như tấm màn, như đám mây vậy. Tôi tự hỏi, hoá ra là thế? Chỉ có thế thôi ư? Vercueil chỉ đường cho tôi thế sao?

Anh ta quay xe, lái ngược lên đồi, đỗ lại chỗ người ta thường đi chơi dã ngoại nhìn xuống vịnh. Anh ta uống rồi đưa chai cho tôi. Tôi thận trọng uống từng tí một. Tấm màn xám vẫn che đậy các thứ bây giờ sáng lên dần. Tôi nghi hoặc, thấy lạ, rồi tự hỏi: đơn giản thế thật sao, chẳng phải chuyện sống chết một tí nào ư?

Tôi bảo “Thôi được rồi, để tôi nói. Điều làm cho tôi muốn nổ tung không phải tình trạng của tôi, bệnh của tôi mà là một cái gì rất khác”.

Con chó lại kêu ư ử. Vercueil đưa tay ra. Nó liếm bàn tay anh ta.

- Thằng con của Florence bị bắn hôm thứ Ba.

Anh ta gật.

- Tôi trông thấy xác nó.

Tôi nói tiếp rồi nhấp một ngụm rượu nữa, nghĩ bụng sao mình nói lắm thế. Chúa tha tội cho tôi! Tôi nói lắm thì Vercueil cũng sẽ bắt chước tôi? Chẳng lẽ anh ta nói với tôi, hai người cùng ngồi trên xe lại thi nhau nói lắm hay sao?

Tôi nói “Tôi thương cảm. Tôi không dám nói là đau đớn vì không có quyền nói như vậy, điều đó để cho người thân của nó nói. Nhưng đến giờ tôi vẫn còn – nói như thế nào nhỉ - còn thấy rối ruột. Có cái gì đó rất nặng nề trong cái chết của nó, trong người nó. Hình như trong khi chết nó trở thành nặng như chì, hoặc như đống bùn dưới đáy đập nước. Như trong khi chết nó thở dài một lần cuối và sự nhẹ nhõm trong nó đã bay đi hết. Bây giờ nó nằm đè trên người tôi với tất cả sức nặng của nó. Không ép xuống, chỉ nằm thế thôi.

“Cũng giống thằng bạn nó nằm chảy máu hôm ở hè đường. Cũng nặng như thế. Máu cũng đọng như thế. Tôi đã cố gắng ngăn cho máu khỏi chảy xuống đường. Rất nhiều máu. Nếu để chảy ra đầy chậu, chắc tôi không nhấc nổi cái chậu, vì chẳng khác nào bê một chậu đựng đầy chì.

“Ông Vercueil ạ, trước đây tôi chưa từng thấy người da đen khi họ chết. Tôi biết họ chết nhiều lắm, nhưng xảy ra ở đâu ấy. Những người tôi thấy chết đều là người da trắng, họ chết trên giường, chết khô, thanh thoát và nhẹ như tờ giấy. Tôi chắc họ được thiêu, để lại ít tro, rồi gió cũng quét đi. Anh muốn biết tại sao tôi có ý định tự thiêu không? Vì tôi nghĩ tôi sẽ được thiêu tử tế.

“Thế mà Bheki và những người chết kia không được thiêu. Nếu có sẽ chỉ như thiêu những hình hài bằng gang thép hay bằng chì mà thôi. Có thể họ sẽ mất đi hình dáng sắc sảo, nhưng khi tắt lửa rồi họ vẫn còn đó, vẫn nặng như bao giờ. Cứ để đó lâu, họ sẽ có thể chìm đi từng ly một, cho đến khi đất khép kín trên mình họ, và họ sẽ không chìm sâu hơn nữa. Họ vẫn còn ở đó, bên dưới mặt đất. Nếu anh húc mũi giày vào đó sẽ phát hiện ra họ, mặt mũi tai mắt họ đều mở và chứa đầy cát”.

Vecueil đưa chai rượu và nói “Bà uống đi”. Nét mặt của anh ta đổi khác, môi trề ra, mắt ướt, lơ đãng. Như mặt người đàn bà anh ta đưa về hôm trước. Tôi cầm chai rượu, lấy tay áo lau.

Tôi nói tiếp “Anh nên hiểu chuyện rối ruột tôi nói vừa rồi đó là chuyện riêng thôi. Thực ra đó không phải là chuyện riêng. Tôi rất quý thằng Bheki khi nó còn nhỏ, nhưng tôi không bằng lòng với việc nó biến thành ra thế. Nó và các bạn nó bảo đã bỏ lại sau lưng tuổi niên thiếu. Tất nhiên chúng vẫn còn là trẻ con, nhưng đã trở thành cái gì khác? Những đứa trẻ nghiêm nghị, khắt khe, không biết cười, không biết chơi đùa. Vậy việc gì tôi phải đau đớn thay cho nó? Chẳng qua tôi đã nhìn mặt nó thôi. Khi chết nó trở lại là đứa trẻ. Có lẽ chiếc mặt nạ đã rơi xuống trong sự ngạc nhiên của đứa trẻ khi nó thấy việc ném đá bắn giết kia không phải là trò chơi, và cái tên hộ pháp chạy đến đổ đất cát vào miệng nó ấy, không thể đuổi hắn đi bằng lời hát hay khẩu hiệu được, rồi cuối cùng nó bị bắt, bị bịt miệng không thể thở được và không còn thấy ánh sáng nữa.

Bây giờ thì thằng bé bị chôn vùi, còn ta thì giẫm lên người nó. Nói để anh biết, đi trên đất nước này, đất Nam Phi này, tôi cảm thấy như mình giẫm lên xác những người da đen vậy. Họ chết nhưng tinh thần không rời khỏi họ. Họ nằm đó, nặng nề, rất cứng cỏi, chờ tôi qua đi, chờ vùng dậy. Hàng triệu khuôn mặt gang thép đang trôi nổi dưới vỏ bọc trái đất. Tuổi sắt đá đang chờ ngày trở lại.

“Anh nghĩ là tôi thất vọng nhưng rồi sẽ vượt qua được. Anh nghĩ đó là nước mắt rẻ tiền, nước mắt vô cảm, nay đến mai đi. Đúng đấy, trước đây tôi thất vọng, tôi tưởng không thể nào tồi tệ hơn thế, nhưng rồi cái tồi tệ nó đến, tôi đã phải cố hoặc làm như cố để vợt qua nó. Nhưng chính thế mới khốn khổ. Để khỏi bị tê liệt trong nhục nhã, tôi đã phải sống cuộc sống vượt qua cái tồi tệ. Tôi không thể nào vượt qua nó được nữa. Nếu lần này tôi không vượt qua được, sẽ chẳng bao giờ còn có cơ hội nào để không vượt qua nó nữa”.

Vercueil lại đưa chai rượu ra. Đã cạn đi một nửa. Tôi gạt tay anh ta và nói “Tôi không muốn uống nữa”.

Anh ta nói “Cứ uống đi. Phải say cho khác đi chứ”.

Tôi dứt khóat “Không!” Trong người tôi bùng lên nỗi giận dữ chếnh choáng trước sự thô bạo và bàng quan của anh ta. Tôi đang làm gì thế? Trong chiếc xe cũ đã cạn dầu, hai chúng tôi chẳng khác gì những người tị nạn vùng đồng bằng thời kỳ Đại Suy Thoái. Chỉ còn thiếu chiếc đệm rơm và con gà nhốt trong lồng tre nữa thôi. Tôi giằng lấy chai rượu, định thò đầu ra cửa vứt đi nhưng anh ta giật lại được.

Tôi gắt “Cút ra khỏi xe tôi!”

Anh ta cầm chìa khoá xe bước ra ngoài. Con chó nhảy ra chạy theo. Trước mắt tôi anh ta ném chìa khoá vào bụi cây rồi quay lại, tay cầm chai rượu đi xuống đồi, ra vịnh Hout.

Tôi giận điên người, ngồi chờ, nhưng không thấy anh ta trở về.

Mấy phút trôi qua, một chiếc xe chạy lên ngang xe tôi, mở nhạc oang oang, trong xe có một cặp ngồi nhìn ra biển. Nam Phi đang ở thời buổi ăn chơi. Tôi bước ra khỏi xe. Người đàn ông quay sang nhìn tôi, miệng nhai kẹo cao su. Tôi nói “Cho tiếng nhạc nhỏ đi được không?” Anh ta làm như ngó ngoáy vào cái gì đó, nhưng tiếng nhạc vẫn to như cũ. Tôi lại gõ nữa. Qua cửa kính, anh ta nói gì không rõ, rồi vụt quay xe đỗ sang phía bên kia đường.

Tôi chui vào bụi cây sục tìm chìa khoá xe Vercueil vứt vào đó nhưng không thấy.

Cuối cùng xe kia phóng đi. Người đàn bà trong xe quay nhìn tôi. Mặt chị ta không phải không hấp dẫn nhưng tôi thấy nó xâu xấu thế nào, nó quắt lại như sợ hãi, có vẻ như chị ta bị cuộc sống giày vò. Không phải khuôn mặt mà chỉ như một biểu tượng đã mòn mỏi. Màng mỏng giữa thế giới bên ngoài với nội tạng cô ta dầy lên. Tiến hoá, nhưng tiến hoá giật lùi. Như con cá thời tiền sử nằm dưới đáy sâu (chắc con biết điều này) mọc những làn da nhạy cảm với ánh sáng, lâu dần biến thành mắt. Tôi thấy hiện nay Nam Phi có những cặp mắt mờ đi, kéo màng mỗi lúc mỗi dầy, trong khi bọn khám phá đất đai, bọn thực dân chuẩn bị trở lại những đáy sâu ấy.

Mẹ có nên đến chỗ con khi con mời không? Những lúc mềm yếu mẹ thường mong muốn được con an ủi. Cũng may mà mẹ không đi, vì quyền lợi của hai mẹ con đó thôi. Con chả cần đến chim báo bão của thế giới cũ này làm gì, còn mẹ dù có chạy đến chỗ con thì liệu có thoát khỏi cái đất Nam Phi này được không? Làm sao mẹ biết được là mắt mẹ đã kéo màng dầy? Có lẽ người đàn bà ngồi trong xe kia đã nói với bạn “Bà già ấy thật khốn khổ. Tại sao khuôn mặt bà ta quắt lại thế?”

Với lại, vinh dự gì mà chuồn khỏi cái thời buổi này khi con tàu chứa đám sâu bọ đang chìm với bọn chơi quần vợt, bọn buôn lậu, và bọn tướng tá nhét túi đầy kim cương bỏ đi tìm nơi ẩn náu để yên thân ở những nơi khác trên thế giới? Tướng G., bộ trưởng M. có tài sản ở Paraguay. Họ dùng lửa than nướng bít tết và nhậu nhẹt với nhau ở những xứ sở phía Nam, uống bia với bồ bịch, hát những bài xưa cũ, rồi chờ qua đời với giấc ngủ của tuổi già, con cháu, thợ thuyền cầm mũ đứng phục ở chân giường. Bọn người gốc Nam Phi ở Paraguay bắt tay với bọn người gốc Nam Phi ở Patagonia sống lưu vong, bọn bụng phệ, vợ béo tròn, phòng khách treo các loại súng trên tường, có két sắt chứa tiền gửi ở Rosario, chiều Chủ Nhật đi thăm con học ở Barbie, Eichman. Tất cả bọn chúng đều là những tên áp bức, ác ôn, tra tấn, giết người.

Tóm lại, mẹ cũng mệt lắm rồi! Mệt mà không biết nguyên nhân, mệt như chiếc áo giáp đã quá thời. Mẹ muốn nhắm mắt để ngủ đi. Với lại, cái chết là gì nếu không phải là thăng lên những nấc cuối cùng của mệt mỏi?

Mẹ nhớ lần cuối cùng con gọi điện. Con hỏi “Mẹ thấy thế nào?” Mẹ đáp “Mẹ thấy mệt nhưng không sao. Mẹ từ từ giải quyết mọi việc. Florence giúp mẹ rất tốt. Ngoài ra còn có thêm người làm vườn nữa”. Con nói với giọng rất Mỹ “Thế thì con mừng lắm. Mẹ phải cố ăn thật nhiều để lấy lại sức nhé?”

Mẹ con nói chuyện điện thoại. Bên đó là trưa, ở đây là đêm. Bên đó là mùa hè, ở đây là mùa đông. Vậy mà đây đó vạch rõ như con ở nhà bên cạnh. Lời mẹ con bay vút lên trời cao, chập làm một, không chút gợn. Không còn sợi dây cáp dưới đáy biển nối mẹ với con nữa, mà đây là sự kết nối hiệu quả, trừu tượng, là trời sinh, ý con gắn với ý mẹ, không cần lời, không phải là hơi thở truyền sang nhau mà là ý của lời, ý của hơi đã được mã hoá, truyền đạt và giải mã. Cuối cùng con nói “Chúc mẹ ngủ ngon”. Và mẹ nói “Tạm biệt con yêu qúy, cám ơn con đã gọi điện cho mẹ”. Chữ yêu quý giúp cho tiếng nói của mẹ được ở lại với tất cả sức nặng của tình yêu (mẹ phóng túng thế đấy!) và mẹ cầu cho hình bóng tình yêu ấy còn mãi trên con đường mòn lạnh lùng của không gian đến tận nơi con ở.

Trên điện thoại có tình yêu nhưng không có sự thật. Trong thư này (thư dài) gửi từ một nơi khác, sự thật của tình yêu cuối cùng lại về với nhau. Ở mỗi chữ “con”, ngòi bút của mẹ lại nhấp nháy rung động như ngọn lửa tháng Elmo. Con đến với mẹ không như con đang hiện ở Mỹ, không phải như lúc con ra đi, con ở một dạng sâu sắc hơn, không thay đổi vì người thân của mẹ không thể chết được. Đây là mẹ nói chuyện với linh hồn con, như linh hồn mẹ sẽ ở lại với con khi viết bức thư này. Như con mối trong tổ bò ra vẫy cánh bay đi nghĩa là khi con đọc mẹ hy vọng con sẽ thấy linh hồn mẹ sắp bay lên nữa. Con mối trắng ấy là hình bóng xuất hiện từ miệng một hình hài nằm trên giường chết. Vật lộn với bệnh tật, với bóng tối và tự nguyện nhốt mình trong những ngày này, mẹ chao đảo, lang thang nữa (nói thêm về chuyến ra vịnh Hout – Vercueil say rượu quay lại, cáu gắt, anh ta tìm thấy chiếc chìa khoá xe, chở mẹ về, có lẽ phải nói thật là con chó đã đưa anh ta trở về). Mọi biến dạng đều có nghĩa là mẹ đang run rẩy, muốn thoát khỏi cái vỏ bọc đang chết dần.

Rồi sau đó, sau cái chết, thì sao? Con đừng sợ, mẹ không ám ảnh con đâu. Không cần phải đóng cửa sổ, bịt ống khói lò sưởi để ban đêm mối khỏi bay vào nhà, bay vào mí mắt con hay đứa trẻ nào. Con mối sẽ chỉ đậu nhẹ trên má khi con đọc trang cuối bức thư này, rồi nó sẽ vỗ cánh bay đi nơi khác. Không phải linh hồn mẹ đang đến với con, mà chỉ là tinh thần của linh hồn mẹ, là hơi thở, là không khí lay động với những chữ này, một chút xao động trong không gian khi hình bóng của ngòi bút mẹ bay qua mặt trang giấy con cầm trong tay mà thôi.

Rời mẹ ra, rời con ra, rời cả ngôi nhà còn sống với những ký ức, đó là việc khó khăn nhưng mẹ cố tập. Cả âm nhạc nữa. Nhưng âm nhạc mẹ đem theo ít ra cũng sẽ là vết thương trong linh hồn. Những khúc ca của Matthew. Đam mê đã thành vết và thắt lại ngàn lần mà không ai và không có gì có thể tháo ra được.

Nếu Vercueil không đem gởi những gì mẹ viết, con sẽ chẳng bao giờ được đọc, con sẽ chẳng bao giờ biết là đã có những bức thư ấy.

Sự thật về mẹ sẽ chẳng bao giờ được hiện diện, và con sẽ chẳng bao giờ biết được ở đây mẹ đã sống như thế nào trong những ngày này.

Vậy con đoán xem mẹ làm gì với Vercueil, về Vercueil?

Chỉ đoán là có tin được không thôi. Chẳng cần phải yêu cầu nhiều, chỉ yêu cầu anh ta cầm gói thư ra đưa cho bưu điện. Chuyện nhỏ đến mức hầu như không có gì. Cầm đi hay không cầm đi có khác nhau gì lắm. Nếu còn chút tin cậy, còn chút nghĩa vụ, còn chút tình thương sau khi mẹ chết đi, chắc chắn anh ta sẽ cầm.

Nếu không thì sao?

Nếu không thì còn gì lòng tin cậy nữa, chúng ta, tất cả chúng ta, chỉ đáng nhảy xuống hố và hoàn toàn biến mất.

Vì mẹ không thể tin Vercueil mà phải tin anh ta.

Mẹ cố giữ cho linh hồn được sống trong thế giới không ai đón nhận linh hồn nữa.

Rất dễ bố thí cho trẻ mồ côi, những kẻ thiếu ăn, đói kém. Rất khó bố thí cho những người đau lòng (mẹ đang nghĩ đến Florence). Nhưng của bố thí cho Vercueil là khó hơn cả. Những gì mẹ cho, anh ta không tha thứ việc mẹ đã cho. Trong anh ta không có từ thiện, không có tha thứ. (Vercueil nói: từ thiện là cái gì? Tha thứ là cái gì?) Nếu anh ta không tha thứ thì mẹ có cho cũng không phải vì từ thiện, phục vụ không phải vì tình yêu. Chỉ như mưa không thấm đất thôi.

Hồi còn trẻ, mẹ đã có thể hiến thân cho anh ta được. Đó là điều người ta đang làm, đã làm, dù cho có lầm lẫn. Bây giờ mẹ phó mặc đời mình trong tay anh ta dù đó là cuộc sống của mẹ, những lời của mẹ, những vết động thái của ngón tay mẹ quều quào trên trang giấy.

Nếu con có đọc, những lời này sẽ đi vào con, làm con phải nín thở. Có thể nói cách sống của mẹ là thế. Xưa kia con sống trong lòng mẹ như mẹ đã sống trong lòng bà. Dường như bà vẫn sống trong lòng mẹ cũng như mẹ lớn lên trong lòng bà và trong lòng con.

Mẹ trao cuộc sống của mẹ cho Vercueil mang đi. Mẹ tin cậy Vercueil vì mẹ không tin ở Vercueil. Mẹ yêu anh ta vì mẹ không yêu anh ta. Vì mẹ dựa vào anh ta là cây sậy yếu ớt.

Hình như mẹ hiểu được điều mẹ nói nhưng nói thật là mẹ không hiểu. Ngay từ đầu, khi mẹ thấy anh ta nằm bẹp trong túp nhà bằng hộp giấy sau nhà để xe, mẹ không hiểu gì hết. Mẹ cứ luôn luôn tìm đường trong bóng tối. Mẹ tìm đường đến chỗ con, mỗi lời nói ra là từng bước tìm đường.

-

Tôi bị cảm lạnh đã mấy ngày. Bây giờ nó vẫn nằm trong ngực biến thành ho khan, ho mấy phút liền, khiến tôi không thở được, người mệt rã rời.

Chừng nào cái đau chỉ là đau thôi, tôi có thể chịu đựng và tránh xa nó. Tôi tự nhủ đây không phải mình mà là người khác đau, một người nào đó cùng nằm trên giường với tôi. Vì thế tôi tìm cách vứt nó ra chỗ khác. Nếu vứt không được, cái đau vẫn bám lấy tôi, tôi đành chịu vậy.

Khi những cơn đau nổi lên, tôi tin rằng mình có thể xua chúng đi như xua những con dê ở vùng đất tận cùng.

Nhưng bây giờ khi những cơn ho đến co giật, tôi không thể tránh được nữa. Chẳng có đầu óc nào hay cơ thể nào khác, chỉ có tôi là một sinh vật cố chống chọi, cố hít lấy chút không khí để khỏi chết ngạt. Khủng khiếp, khủng khiếp đến ô nhục. Trên đường đến cái chết còn phải qua một thung lũng nữa. Sao điều này lại có thể đến với tôi được chứ? Lúc ho rũ rượi, tôi nghĩ: vậy có công bằng không? Ngây thơ đến ô nhục. Ngay một con chó bị đánh gẫy lưng và thở hơi cuối cùng nó cũng không nghĩ như thế có công bằng không.

Marcus Aurelius nói cái sống đòi hỏi phải có nghệ thuật ở tay đô vật, chứ không phải ở vũ nữ. Tất cả phải cần đứng được trên đôi chân, không cần có những bước đi đẹp.

Hôm qua đã hết thức ăn trong chạn, tôi phải đi ra cửa hàng. Xách túi đi lững thững, tôi bỗng thấy trong người rất đau. Ba cậu học sinh đi qua đó đứng nhìn một bà già đang dựa vào cột đèn, chung quanh chân thực phẩm rơi vãi tứ tung. Mỗi lần ngừng ho, tôi vẫn cố bảo chúng ra chỗ khác. Tôi không thể tưởng tượng được lúc đó mình ra như thế nào. Một chiếc xe ngừng lại, người đàn bà trong xe lên tiếng hỏi “Bà có sao không?” Tôi hổn hển đáp “Tôi đi mua hàng về”. Bà ta nghe không rõ, nhăn mặt hỏi lại “Gì cơ?” Tôi lại thở và đáp “Không có gì”. Bà ta lại phóng xe đi.

Chúng ta ngày càng trở nên xấu xa, không thể nghĩ tốt về bản thân mình. Ngay cả việc nhìn hoa hậu cũng thấy khó chịu. Xấu xa là thế nào nếu không phải đó là linh hồn biểu lộ qua xác thịt?

 

➖➖➖