
Pearl S. Buck
(Giải Nobel Văn học 1938)
-:-
Ngày hôm ấy, ông lái trà chờ đợi đứa con trai độc nhứt du học ở ngoại quốc trở về nhà. Người thanh niên này đã vắng nhà bảy năm và tất cả trong gia đình thắc thỏm chờ mong. Cha cậu, mẹ cậu, vợ cậu, hai đứa con của cậu, một trai một gái. Trong bảy năm qua người ta không thấy cậu và mỗi người một cách, tất cả đều trông chờ giờ trở về của người thân.
Không ai rõ chắc chắn giờ trở về vì thành phố này không nằm ở ven biển hay sát đường sắt. Đó là một thành phố nhỏ nằm giữa một vùng đồng bằng, nơi đây các nông trại mọc chi chít dọc theo con sông nhỏ lững lờ và nông cạn.
Mỗi bên bờ sông là một dãy núi. Thoạt tiên các dãy núi này chỉ là những gò nông rồi dần dần đi lên cao thành những đỉnh đầy sương mù. Vùng này nổi tiểng về các sở trà trồng ở sườn núi.
Mùa đông, nước sông xuống quá thấp, xuồng ghe không đi được cho nên ngoài một số người di chuyển bằng ngựa và xe, vùng này cô lập với thế giới bên ngoài.
Nhưng vào cuối mùa hè năm ấy, nhờ mưa to, nước sông lên cao đủ cho các ghe nhỏ tiến sâu vào nội địa cách bờ biển một trăm dặm.
Một trong các chiếc thuyền đó sẽ đưa cậu con trai của ông lái trà trở về mái nhà xưa. Giờ chuyến đi tùy thuộc nơi gió, nước, có thể cậu sẽ về trong ngày hôm ấy, vào xế chiều hay trong đêm. Nhưng nếu thuận buồm xuôi gió thì chuyến đi có thể tới sớm hơn.
Gia đình ông lái trà thức thật sớm, ăn mặc chỉnh tề để đón người đi xa về. Người cha là một ông lão hiền lành. Ông được cha mẹ để lại các khu đất lớn, nơi sản xuất trà thứ thật ngon. Ông cũng giữ cửa hiệu bán trà có từ mấy thế kỷ. Ông là một người được kính trọng, có uy tín đối với mọi người. Trong khi chờ đợi, ông ngồi trên một chiếc ghế riêng của ông ngay giữa nhà. Để mừng đứa con độc nhứt, ông mặc chiếc áo dài đẹp nhứt bằng sa ten đỏ xậm, mặc thêm bên ngoài một chiếc áo ngắn sa ten đen có thêu những đường cong theo lối cổ.
Người ông ốm và tái, cái tái của những người hút nha phiến... Ông hút từ thuở nhỏ, nhưng vẫn giữ một mức độ và hút đúng giờ. Ông chỉ chịu hút thêm khi nào bịnh. Cho nên nha phiến không làm cho ông gầy ốm cũng không làm cho ông hốc hác. Nó chỉ làm cho thịt ông nhão và nhuộm da ông một màu vàng đều đặn.
Đối điện với ông là bà vợ, mẹ của cậu con duy nhứt. Bà có bốn người con, nhưng chỉ còn sống có một đứa. Hai vợ chồng yêu thương đứa con một vô bờ bến.
Bả cụ không từ chối một cái gì với cậu con. Nhưng bà là người cương quyết - như cặp mắt đen và sáng của bà biểu lộ - và khi phải nhân nhượng chồng con thì bà chỉ nhân nhượng sau những cuộc giằng co.
Trong lúc chờ đợi, bà ngồi trên chiếc ghế giống như ghế của chồng, nhưng đặt thấp hơn. Bà giữ im lặng theo đúng phép vì người đàn bà không được quyền nói trước chồng.
Một người tớ già cũng lớn tuổi như bà chủ, đứng kế bên với một bàn đèn bằng đồng. Khi bà cụ đưa bàn tay lên thì người tớ già trao ống hút cho bà cụ kéo hai hơi. Người tớ già tiếp tục làm thuốc một cách lặng lẽ. Khi một chút tro rơi lên chiếc áo sa ten màu xám của bà cụ, người tớ lấy ngón tay phủi ngay.
Con dâu ngồi trên chiếc ghế đặt dưới thấp. Nàng không tới ba mươi tuổi, không đẹp, không xấu, nhưng có những nét đều đặn. Hai bàn tay cực đẹp của nàng cầm một mẩu sa ten màu hồng nhạt mà nàng đang thêu tỉ mỉ những cánh hoa đỏ rực và một con chim con đậu trên cành.
Thỉnh thoảng nàng cúi xuống nói nhỏ với cô bé mười tuổi ngồi trên một chiếc ghế đẩu bên cạnh mẹ. Cô bé cũng thêu, nhưng chậm và đầy cố gắng trên một mẩu vải. Cô bé thường nhìn ra sân, nơi cậu bé bảy tuổi đang đùa với một con dê con. Cậu vén chiếc ác dài màu xanh dưới thắt lưng đỏ cho tiện chạy nhảy. Cậu cười to lên khi đưa nắm cỏ cho con dê con. Khi con vật cao lêu nghêu vụng về bước tới trước thì cậu bé nhảy lùi lại cười vang lên thích thú trước vẻ ngơ ngác của con vật. Cứ mỗi chuỗi cười là cô bé nhìn lên mỉm cười theo với vẻ thèm muốn và mẹ cô phải lặp lại nho nhỏ vào tai: “Con phải chăm chú vào công việc con đang làm”.
Chân người mẹ và bà nội cô bé đều bó chặt và mang dép nhỏ bằng sa ten. Nhưng chân cô bé thì để tự nhiên. Cha cô đã từ ngoại quốc viết thơ về dặn không được bó chân đứa bé.
Gian phòng im lặng như tờ, đầy không khí hồi hộp chờ đợi. Hai vợ chồng ông lái trà nóng gặp lại người con xa vắng quá lâu ngày. Người vợ cũng mong gặp người chồng cách biệt trong bảy năm dài.
Mỗi người cố gang kiên nhẫn một cách. Ông cụ ngồi nhìn đứa cháu nội đùa với con dê con, nhưng sự bất động của ông chứng tỏ tư tưởng ông rất xa cách đứa bé.
Bà cụ quay lại người tớ già hỏi:
- Có bảo chúng nó mua vịt để làm cơm chiều nay?
Con dâu ngước mắt lên nói với giọng dịu đàng:
- Thưa mẹ, con đã lo xong vấn đề cơm nước. Sẽ có các món ngon mà ba sấp nhỏ ưa thích.
Rồi thấy chén trà của bà cụ đã hết, nàng đứng lên, rờ bình trà để xem nước còn nóng hay không, rót trà vào chén, hai tay bưng chén trà dâng mẹ chồng.
Nàng đổ trà nguội trong chén ông cụ, châm trà mới vào, rồi tiếp tục trở lại chỗ cũ thêu như trước.
Hai bàn tay đẹp của nàng đưa đi đưa lại một cách tự nhiên và nếp nhăn trên môi nàng có vẻ thanh thản, nàng có vẻ trầm lặng. Vì bất động cho nên mặt nàng có vẻ u tối. Chiếc áo saten xanh của nàng cũng ngả sang màu xám. Nhưng đôi mày của nàng rất đẹp, giống như hai lá liễu sắc lẻm đen nhánh vẽ lên đôi mắt đen. Tóc nàng cũng đen được xức dầu và bới tròn ra sau ghim trâm vàng. Nàng đeo đôi hoa tai nhỏ vừa vặn.
Thỉnh thoảng nàng cho đầu lưỡi liếm thắm môi một cách tế nhị.
Đứa bé trượt té ngoài sân và nằm khóc chờ người đến đỡ lên. Người mẹ trẻ vội vàng chạy ra giúp nó đứng lên, phủi bụi bám vào áo quần. Nàng giữ đứa bé sát bên mình, nói với giọng ồn tồn:
- Đừng khóc. Cha con có thể về tới bất cứ vào lúc nào. Nếu thấy con khóc thì phiền lắm. Ngày cha con đi con mới có một tháng. Lúc đó con cũng khóc. Cha con sẽ nghĩ là con đã khóc bảy năm trời, trong thời gian cha con đi xa.
Cậu bé đưa tay quẹt nước mắt rồi cười. Mẹ nó rút khăn tay nhét trước ngực lau nước mắt cho con rồi đưa nó trở vô trong nhà, cho nó uống nước.
Ông cụ mỉm cười, vuốt chòm râu lơ thơ nhìn đứa cháu với vẻ hiền lành thường nhựt:
- Thằng Vương sẽ lấy làm hài lòng về con. Con đã cho nó một đứa bé xứng đáng. Cha sẽ nói cho nó biết, con là một con dâu thảo, là một người mẹ hiền. Ngày cha mẹ chọn con cho thằng Vương, cha mẹ rất vui sướng, nhưng lúc đó cha mẹ chưa đánh giá đúng mức niềm vui sướng như ngày nay.
Bà cụ xen vào:
- Nhưng ông và tôi đều biết nó gia đình trâm anh ở thôn quê. Lúc nào tôi cũng thích chọn dâu ở vườn chớ không ưa những cô ở chợ, họ tự cao tự đại và nông nổi lắm. Tôi cũng xuất thân nhà nông và nhà nông thì biết cách dạy dỗ con gái.
Ông cụ cười:
- Tôi thấy đúng như vậy trong ba mươi lăm năm nay, khi tôi và bà ăn ở với nhau. Bà chỉ có một điều không hay là không giữ được tất cả mấy đứa con. Nhưng tôi không bình phẩm bà được vì mỗi người đều có số.
Bà cụ thở dài đáp:
- Nhưng thằng út nhà mình là đứa xuất sắc hơn hết và nó đã sống... Nó học hành đỗ đạt và nếu là thời xưa thì nó phải là Tổng đốc. Ngày nay, tôi không hiểu gì hết...
Ông cụ có vẻ hãnh diện và tự tin:
- Thằng Vương nhà mình không có cái gì phải ngại. Nhờ sự học rộng, nó sẽ được nhàn. Đông Tây gì nó cũng lão thông hết ráo.
Nói đến đây, có tiếng gọi ngoài cổng, tiếng người khuân vác rương tráp. Tiếng gọi ngoài ngõ chính là của người tớ già được phái đi rước cậu Vương.
Và sau đó, có tiếng nói rất quen thuộc, tiếng nói mà mọi người chờ đợi. Nhưng tiếng nói này có hơi khác xưa, trầm hơn và xa lạ hơn:
- A! Tới nhà rồi!
Ông cụ đứng lên khi nghe mấy tiếng đó. Nhưng chợt nhớ nề nếp gia phong, ông ngồi xuống chờ đợi.
Bà cụ bóp mạnh hai bàn tay đặt trên đầu gối.
Con dâu, gọi nhanh đứa con gái và ngồi xuống chiếc ghế phía sau bà mẹ chồng. Cậu bé vụt sợ hãi, chạy lại nắm tay mẹ, còn cô bé thì ngó chăm chú ra ngoài rào, tay vẫn cầm mảnh vải đang thêu. Nhưng mẹ chúng không ngẩng đầu lên. Nàng ngồi im, cố nhìn một kẽ hở giữa hai tấm gạch dưới đất.
Bỗng cánh cổng mở. Nàng... nghe người đi và bước lại gần, những bước cứng rắn và vững chắc Vương mang đôi giầy đế da cứng, nện vang lên sân gạch.
Chàng bước vào, đứng trước thêm. Rồi đi ngay lại ông cụ. Từ đuôi mắt, nàng thấy ông cụ đứng lên và nghe chồng nàng kêu lên “Cha, con mới về”.
Ông cụ đáp:
- Sau bảy năm xa cách... - Giọng ông nghẹn lại và nước mắt chảy quanh.
Vương nói:
- Cha ngồi xuống cho khỏe.
Rồi mỉm một nụ cười không được tự nhiên, cậu châm trà vào chén của ông cụ.
Quay sang bà cụ, Vương nói:
- Thưa mẹ con đã trở về bình yên, dù trùng dương xa cách.
Bà cụ run run đứng lên, hân hoan đặt bàn tay lên cánh tay con:
- Vương, con đã lớn nhiều, mẹ thấy con lạ.
Vương nói với giọng rõ ràng:
- Bảy năm phải thay đổi chớ mẹ.
Bây giờ đến lượt Vương chào vợ. Chàng đứng trước mặt nàng, và nàng không ngước mắt lên. Là con nhà gia giáo, nàng biết giữ lễ với chồng. Nàng chỉ thấy có đôi giày da và hai ống quần may bằng vải ngoại quốc mà nàng không biết.
Với giọng xa xôi và lễ độ, chàng nói:
- Mẹ sấp nhỏ vẫn mạnh giỏi?
Ông cụ bỗng nhiên trở nên hoạt bát:
- Nó là con dâu thảo nhứt hạng. Không bao giờ nó quên bổn phận với cha mẹ cũng như với con cái. Luôn luôn săn sóc nhà cửa, rộng rãi với kẻ ăn người ở.
Vương hỏi:
- Còn con trai tôi đâu?
Câu bé kêu lên thật to:
- Thưa cha, con đây.
Cậu đứng nhìn cha với đôi mắt mở to, tròn như hai đồng tiền.
Vương cười, nhấc bổng cậu bé lên:
- Bây giờ con được bảy tuổi. Lúc cha đi con có một tháng, đỏ hỏn như một củ cải. Bây giờ con trở thành một người lớn, đẹp ra.
Trong khi chồng quay đi chăm chú nhìn đứa con, nàng liếc nhanh nhìn chàng. Phải, chàng đã thay đổi, đã trưởng thành. Nàng có thể nhận thấy sự thay đổi đó. Lúc ra đi, chàng mới có hăm bốn, dù học cao hiểu rộng, chàng có vẻ trẻ và mảnh mai. Bây giờ chàng đã mập ra, có hơi cao hơn, vẻ mặt của chàng cũng khác hẳn. Bảy năm trên đất khách đã thay đổi chàng nhiều. Trước kia lúc nào Vương cũng tỏ ra tự tin, sẵn sàng để cười nói, trẻ trung, hăng hái. Còn bây giờ, chàng là một người chững chạc, trưởng thành.
Bỗng nhiên nàng thấy lúng túng và e lệ. Mặt nàng đỏ ửng và thấy nóng dưới vành tai.
Lặng lẽ, nàng đẩy cô bé tới trước, nói nhỏ:
- Nói chuyện với cha đi con.
Nhưng cô bé chỉ mỉm cười, cúi đầu xuống cho đến lúc cậu em kêu lên:
- Còn chị con đây nữa.
Bấy giờ Vương mới quay lại vồn vã với cô bé. Chàng nắm tay cô bé, bàn tay nhỏ bị kim đâm, hỏi:
- Con làm gì đó Thúy Lan? May dép hay gối cho con hả?
Bà cụ nói:
- Năm nay Thúy Lan 10 tuổi. Nó đã khá lớn để bắt đầu thêu gối cưới. Mẹ nó đã dạy cho nó đủ cả tam tùng tứ đức.
Cô bé lắng nghe mấy lời bà cụ với vẻ khó chịu. Nó cúi mặt xuống dường như muốn nói, nhưng mẹ nó đặt bàn tay lên vai nó. Cử chỉ đó khiến cô bé im lặng.
Vương không đáp câu nói của bà cụ. Chàng mở miệng rồi lại mím môi và sau một sự im lặng kỳ lạ dường như mọi người đều lắng nghe, chờ đợi người khác nói. Vương nói để xô đuổi không khí khó chịu:
- Được trở về nhà sau một thời gian đi xa thật là thích! Bây giờ con phải đi tắm sau ba ngày ở trên thuyền. Một trăm dặm mà phải mất ba ngày, thật là chậm so với các phương tiện giao thông Tây phương.
Rồi chàng tươi cười bước ra. Ông cụ nhìn mông ra xa, nói với bà cụ:
- Ba ngày, đâu có lâu gì! Đó là nhờ thuận buồm xuôi gió. Nếu ngược gió, người ta phải lên bờ kéo thuyền, thì phải mất ít nhứt là năm hay sáu ngày.
Ba cụ nói:
- Mỗi ngày tôi đều đi chùa. Tôi cầu nguyện cho thuận buồm xuôi gió. Tôi đã mua hai đồng bạc nhang và trà cho ông từ. Tôi đã tốn công tốn của như thế, đâu lẽ không có kết quả tốt.
Ông cụ nhìn bà cụ với vẻ rộng lượng. Ông không bao giờ tới chùa miếu, không hề tin tưởng thần thánh. Ông là người theo Khổng học, ông dành chuyện đi chùa cho đàn bà con nít.
Với giọng ôn tồn, ông nói:
- Mùa này là mùa gió.
Nghe ông cụ nói, bà cụ ngẩng đầu lên, gằn giọng:
- Ông không tin, nhưng tôi đã thử nhiều lần. Tôi bảo đảm với ông là thần thánh nghe lời khấn vái của mình. Nếu tôi không đi chùa thường thì biết đâu con mình gặp tai nạn trên trùng dương đầy sóng gió hoặc ở xứ lạ quê người?
Cụ già đấu dịu:
- Thôi được! Bà cứ tiếp tục sùng bái thần thánh và nếu bà cầu khẩn đúng mùa thì tôi tin chắc thế nào bà cũng mãn nguyện.
° ° °
Đêm đó, khi ăn tối xong, Vương tặng quà cho mọi người. Nàng bước vào phòng chồng. Từ ngày chồng đi nàng không ngủ trong phòng này vì thấy cô đơn trong đêm dài. Ban ngày nàng lau chùi, trong phòng không có một hột bụi, nhưng ban đêm nàng sang phòng bên nhỏ hơn ngủ với hai con. Đôi khi nàng ngồi trong phòng trống bỏ không với giỏ đồ thêu. Đêm ấy nàng ngồi trong phòng chờ chồng về.
Vương về rất trễ. Bạn bè nghe tin chàng về kéo tới mừng chàng ở phòng ngoài. Ông cụ ra lịnh hâm rượu, thứ rượu địa phương nấu bằng gạo.
Ngồi trong phòng vắng, nàng nghe bạn bè kêu gọi, uống rượu mừng chồng. Họ la lên: “Cạn chén nghe anh em. Cạn chén để mừng Vương vừa được bổ nhiệm ở Thủ đô, cạn chén để chúc Vương có thêm nhiều con...”
Sau lời chúc tụng, một tiếng cười vang lên và một mình trong phòng tối nàng mỉm cười có hơi buồn tủi và thấy máu bốc lên nóng dưới vành tai.
Rồi nàng hiểu là người ta mang các thức ăn ra cho thực khách ăn và uống rượu.
Sau đó tiếng giã từ vang lên, những lời chúc tụng vui vẻ và hứa hẹn sẽ gặp nhau lại, tất cả những tiếng cười bay khắp sân và tiếng cười của Vương vượt lên trên hết.
Thế rồi trong sự yên tĩnh bất ngờ của ngôi nhà, nàng nghe tiếng chân chàng trở vô. Chàng nói: “Uống rượu như thế này, ngày mai mình sẽ nhức đầu ghê lắm. Từ ngày xuất ngoại mình không có uống nhiều như thế”.
Ông cụ ngạc nhiên hỏi:
- Ở xứ ngoài không có rượu sao?
Vương trả lời chiếu lệ:
- Có chớ, nhưng con ít uống. Con phải giữ tâm trí luôn luôn sáng suốt. Bây giờ con còn phải giữ gìn hơn vì con được giao một chức vụ quan trọng ở thủ đô. Ngày mai con sẽ trở lại vấn đề này. Bây giờ thì đã khuya rồi.
Ông cụ hỏi:
- Nhưng con không nhậm chức ngay bây giờ chớ? Con đi xa lâu ngày. Cha biết chức vụ ở thủ đô là vinh hạnh và cha không giữ con lại ở đây. Nhưng con du học quá lâu, cha mẹ muốn con ở lại nhà ít hôm. Hơn nữa còn vợ con nó là dâu thảo, mẹ hiền. Nó sống cô đơn trong bảy năm qua.
“Chàng sẽ trả lời như thế nào?” Nàng ngả người tới trước lắng nghe bên cạnh cánh cửa mở, hai gian phòng chỉ cách nhau có một bức màn. “Chàng sẽ nói gì?”.
Vương im lặng rồi như chợt nhợ đến một bổn phận, kêu lên:
- Con còn một bức thơ phải viết trước khi đi ngủ. Con quên đi mất. Bây giờ cha đi ngủ đi. Cha vịn tay con, con dìu cha vào phòng.
Nàng nghe tiếng chân của chàng và ông cụ. Tiếng giày nhung của cụ chạm đất nhẹ nhàng còn tiếng giày da của chàng nện mạnh trên nền gạch.
Gian phòng im lặng và nàng âm thầm ngồi chờ chồng đến với mình theo bổn phận của người vợ.
Nàng đánh diêm thắp đèn rồi lại ngồi như trước, kiên nhẫn, đôi mắt nhìn xuống đất. Hai bàn tay nàng lạnh và nàng xoa hai bàn tay lại cho ấm.
Chàng bước vô phòng; theo thói quen, đột ngột, vô tư và tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy nàng ngồi đó.
- Ủa, em hãy còn ngồi đó? Không nên chờ anh. Em đi ngủ đi. Anh còn một lá thơ phải viết gấp trước khi đi ngủ.
Chàng ngồi lại bàn viết, ở bên kia phòng, chiếc bàn viết mà trước kia chàng học thi trong những năm trước khi chàng xuất ngoại.
Trong bảy năm dài, nhiều lúc nàng hình dung thấy chàng ngồi chỗ đó.
Bây giờ, Vương tìm mảnh giấy, bút lông chàng phết nhanh trên nghiên mực.
Nàng vẫn ngồi yên. Một lúc sau chàng bực tức ném ngọn bút lông, kêu lên:
- Mình quên cách dùng bút lông. Bao lâu nay mình chỉ quen dùng bút ngoại quốc.
Chàng lấy trong túi áo một cây bút kim khí lạ lùng và bắt đầu viết.
Chàng lại ngửng đầu lên lần nữa và khi thấy vợ vẫn còn ngồi đó, kêu lên với giọng hơi bực:
- Coi, em đi ngủ đi chớ! Anh không thích em ngồi đó chờ anh.
Nhưng sau đó, giọng chàng dịu lại:
- Em tha thứ cho anh. Anh không muốn tỏ ra thô lỗ. Anh mến phục cử chỉ của em lắm. Nhưng mà bây giờ chúng ta có thể bỏ qua những nghi thức quá câu nệ xưa cũ. Em hãy đi ngủ đi.
Chàng bỗng nín lại, do dự.
Ngay lúc đó, ở phòng bên, cậu bé kêu ré lên. Vương nhíu mày. Nàng nói:
- Con nó giựt mình! Trong mấy năm qua con ngủ với em...
Gương mặt Vương tươi sáng lên:
- Vậy thì em qua bên ấy với nó, đêm nay anh ngủ trễ. Anh còn phải ghi chú trong quyển sách của anh. Anh không muốn làm rộn thói quen của em, trong đêm nay.
Chàng đứng lên đầy vẻ lịch sự. Nàng nhìn chàng một lúc với đôi mắt trầm lặng. Giữa hai người có một lúc do dự, tế nhị, khó khăn. Rồi thu hai bàn tay vào tay áo theo thói quen của phụ nữ, nàng khẽ cúi đầu nói:
- Xin anh hãy ngồi xuống.
Nàng đi lại trong phòng, dịu dàng và âm thầm như thường lệ, với những cử chỉ duyên dáng. Nàng rờ bình trà, thổi cho than cháy đỏ trong chiếc thau đồng ở dưới, trải chăn lên giường, bỏ màn xuống. Khi nước nóng, nàng châm trà vào chén cho chồng. Chàng cúi đầu mỉm cười nhưng hai mắt dán chặt vào mảnh giấy.
Rồi nàng bước ra khỏi phòng với sự bình tĩnh hoàn toàn. Nàng thay áo, mặc toàn hàng trắng, lau mặt lau tay và xúc miệng. Trước khi nằm, nàng đến bên giường cô bé đặt bên kia phòng, một chiếc giường nhỏ bằng tre phủ màn chung quanh. Nàng vén màn sờ bàn tay con bé đặt ra ngoài cạnh giường. Bàn tay ấm và hơi thở đều đặn, nhẹ nhàng. Cầm ngọn đèn sáp trên bàn, nàng xem xét cẩn thận chiếc màn trước khi khép lại. Nàng sợ muỗi cắn con. Thấy một con trong màn, nàng đập chết. Sau đó nàng bước sang giường cậu bé con. Trời nóng, cậu ngủ không mặc quần áo chỉ trừ một vuông vải đỏ đắp ngang bụng. Nàng đẩy chân con sang một bên thật dịu dàng, âu yếm, để có một chỗ nhỏ nằm xuống nhẹ nhàng. Và khi cậu bé thức giấc, nàng vỗ nhẹ vào người nó theo một nhịp điệu đều đều, êm ái. Cậu bé cảm thấy sự hiện diện thường lệ của mẹ ở bên cạnh, tiếp tục ngủ lại. Nhưng người vợ trẻ vẫn thao thức, bất động. Nàng lắng tai nghe từng tiếng động ở phòng bên.
Trong một lúc lâu, chỉ có tiếng giấy vò nát và tiếng hộc tủ đóng lại. Một nghiên mực rơi xuống đất, bể tan. Nàng nghe chồng kêu lên một tiếng ngoại quốc mà nàng không hiểu. Trước khi ngủ, nàng tắt ngọn đèn mỡ bò, sợ hao và tỏa mùi hôi trong phòng. Nàng thắp ngọn đèn dầu phong. Từ ngày chồng đi xa, nàng không chịu được bóng tối trong đêm. Bây giờ chồng đã trở về, nhưng chàng không như xưa nữa. Ngọn đèn dầu tỏa một ánh sáng lờ mờ và trở nên vô nghĩa khi ánh trăng thu từ bên ngoài chiếu rọi vào phòng.
Nàng lẩm bẩm:
- Bình minh sắp ló dạng.
Nàng nghe tiếng chồng thở dài, đứng lên đi về phía giường của chàng.
Mấy phút im lặng trôi qua. Nàng nghe ngóng, thầm mong chàng sẽ gọi nàng chăng? Nhưng chàng ngả lưng trên chiếc giường gỗ kêu răng rắc. Đó là một chiếc giường lớn chạm trổ có từ hai đời.
Chàng lại thở dài. Sau đó, im lặng hoàn toàn. Chàng đã ngủ.
Còn nàng, nàng nằm trong đêm như bảy năm qua, cánh tay ôm ngang người cậu bé con.
° ° °
Sáng hôm sau, nàng thức theo thói quen, một giờ trước người ăn ở kẻ trong nhà. Nàng chui ra giường nhẹ nhàng không làm thức giấc cậu bé.
Dưới ánh sáng lờ mờ của bình minh, nàng chải tóc bằng chiếc lược trắng bằng sừng. Nàng ngồi trước bàn con, tấm gương in rõ nét mặt nàng.
Theo phong tục địa phương, loại bàn này là vật thân thiết mà cô dâu phải mang theo khi về nhà chồng. Cha nàng cũng khá giả nên chiếc bàn được đóng bằng loại danh mộc, các hộc tủ đều có tay nắm bằng đồng. Cũng như tất cả đồ vật của nàng, chiếc bàn được chăm sóc lau chùi luôn luôn. Nàng chải tóc cẩn thận.
Có tiếng ho ngoài cửa. Nàng vén màn lên. Một người tớ gái mang đến một ấm nước nóng. Nàng cầm lấy đặt lên trên bàn nhỏ, cho khăn lông vào, vắt ráo lau mặt, tay. Thoa sơ một lớp phấn trên má và trán, nàng đã sẵn sàng. Dù ăn mặc giản dị nàng trông hãy còn trẻ, vóc người mảnh mai, đều đặn. Không ai nghĩ là nàng đã có con, khi thân hình rất thẳng và đôi vú nhỏ. Dù vậy, nàng không đẹp. Nàng thiếu linh động, hoạt bát. Nàng quá trầm lặng...
Sau khi sửa soạn xong, nàng xuống bếp xem những gia nhân nấu cơm sáng.
Nàng bảo một bà lớn tuổi chỉ dạy hai cô gái đồng quê giúp việc trong nhà:
- Hôm nay làm món gà phơi khô.
Bà bếp nói:
- Tôi sẽ cắt vài miếng. Cậu nhà còn thích những món nào khác?
Nàng nói:
- Anh ấy thích đậu đỏ hầm thịt bỏ tiêu. Nhớ pha trà, thứ thiệt ngon.
Bà tớ chánh hôm qua, đứng bên cạnh bà cụ bước xuống bếp, mang theo chiếc khăn sạch, một cục xà phòng đỏ và một thau đồng, đựng nước nóng. Một cô gái bước theo sau, cầm một ấm trà mới, hỏi:
- Thưa cô, mình đi bây giờ chớ?
Nàng gật đầu:
- Phải, Wang Ma.
Nàng hướng dẫn hai người tớ gái tới trước cửa phòng mẹ chồng. Nàng ngừng lại, khẽ tằng hắng. Bà mẹ kêu lên:
- Vô đi!
Ba người bước vào trong. Với gọng dịu dàng, nàng hỏi:
- Mẹ có ngủ ngon giấc không?
Hỏi xong nàng lấy ấm trà người tớ đặt lên bàn, chế vào chén rồi đứng trước cửa màn chờ đợi.
Một bàn tay gầy và vàng thò ra màn bưng chén trà.
Nàng dâu châm thêm một chén nữa và cũng được bà mẹ chồng uống như lần trước. Sau đó nàng đứng bên bàn đèn, làm thuốc cho mẹ chồng. Khi nàng dâu và cô tớ gái bước ra ngoài, người tớ già ở lại để tiếp tục phục vụ bà chủ.
Mỗi sáng, công việc phục vụ kể trên tiếp diễn đều đều! Lo cho mẹ chồng xong nàng dâu trở về phòng mình thay quần áo cho con. Nhưng bây giờ còn có một người khác để cho nàng săn sóc. Trước kia, mang trà buổi sáng cho chồng là chuyện tự nhiên. Bây giờ, điều ấy có hơi khó một chút. Chồng nàng đã thay đổi quá nhiều khiến nàng có cảm tưởng như vào phòng một người lạ. Dù vậy, bổn phận làm vợ của nàng vẫn không thay đổi. Nàng bảo cô tớ nhỏ:
- Mang tới cho chị một thau nước nóng và một bình trà, lấy bình đẹp nhứt, và cho trà mới vào.
Nàng chờ cô tớ mang trà tới, mở nắp bình, ngửi hương thơm của trà. Nàng tiến về phía cửa phòng chồng, tằng hắng. Cô tớ đứng phía sau.
Không có tiếng đáp lại. Nàng áp tai vào cửa màn nghe ngóng rồi len ngón tay qua vai màn. Chồng nàng đã đóng cánh cửa. Nàng khẽ đập cửa bằng lòng bàn tay.
Tiếng chồng nàng kêu lên:
- Ai đó?
Nàng giựt mình sợ hãi về giọng cộc lốc đó. Từ lâu nàng quên cảm giác về sự có mặt của một người đàn ông trẻ tuổi, khỏe mạnh, trong nhà. Bảy năm là một thời gian dài mà nàng đã trải qua bên cạnh cha mẹ chồng già và mấy đứa con. Từ ngày cha mẹ ruột nàng mất, nàng trở về mái nhà xưa. Cho nên nàng không biết rõ một người đàn ông có thể kêu to đến mức nào.
Cánh cửa vụt mở và Vương đứng trước thềm, mắt còn nhắm, tóc tai rối bời. Chàng hỏi với giọng bực dọc:
- Việc gì vậy?
- Em mang trà cho anh. - Nàng ấp úng.
Vương kêu lên:
- Trà!
Rồi mỉm cười, vuốt tóc, ngáp:
- Được. Đem vào. Tôi quên lửng chuyện uống trà. Trong bảy năm qua, tôi không hề uống trà quá sớm như vậy - Đôi mắt nhìn xuống chiếc thau đồng, Vương nói - Tôi cần nhiều nước hơn. Tôi có thói quen tắm mỗi buổi sáng.
Nàng nhìn cô tớ với vẻ kinh ngạc. Cô tớ là người ở quê, không biết phép lịch sự nên nói cụt ngủn:
- Tắm phải tốn nhiều nước. Nếu muốn tắm thì tới chỗ tắm công cộng.
Người vợ trẻ khó chịu về giọng của con bé, nghiêm nghị bảo:
- Cậu muốn gì là phải có cho cậu.
Rồi quay về phía chàng, nàng nói:
- Trong chốc lát sẽ có nước cho anh.
Vương nói một cách vô tư:
- Nếu mất công thì thôi.
Nàng nói:
- Không có gì mất công, nhứt là anh mới về sau bảy năm xa vắng.
Vương quay mặt đi, châm thêm trà vào chén.
Khi thấy không còn gì để nói, nàng bước ra ngoài để trông nom việc nấu nước. Người thiếu phụ có cảm nghĩ là ngày trở về đầu tiên của chồng nàng phải khác hẳn bảy năm trầm lặng mà chàng đi vắng. Biến cố quan trọng nhứt trong mấy trăm ngày đó là việc nhận thơ của Vương, ông cụ đọc lớn lên cho cả nhà nghe. Bà cụ, nàng dâu và hai đứa bé ngồi đúng vào ghế của họ.
Các bức thơ của Vương đều giống nhau. Chàng nói về sự học hành của mình, một đôi khi kể chuyện mà chàng chứng kiến hoặc ra một lịnh cho gia đình thi hành. Chẳng hạn như Vương viết “không được bó chân con gái tôi” hoặc “con trai tôi phải được gởi vào trường chánh phủ. Nó sẽ không học Tứ thơ như cha nó trước kia. Ngày nay những sách đó trở nên vô ích”.
Hai vấn đề đó đã gây kinh hoàng cho cả nhà. Ông cụ ngừng lại ở các đoạn đó, và qua đôi kính trắng nhìn bà cụ và nàng đâu.
- Nếu không bó chân cho con bé, làm sao có thể kiếm cho nó một người chồng xứng đáng?
Bà cụ kêu lên đầy kinh hoàng. Bà kéo chân lên, hai bàn chân nhỏ và nhọn mà bà đang sưởi ấm trên một đĩa than nóng. Bức thơ ấy về đúng vào mùa đông.
Ngay lúc đó không ai chịu chấp nhận lịnh không bó chân con bé của Vương. Ông cụ liền viết cho Vương nói rõ là khó thi hành ý muốn của chàng.
Vương trả lời ngay, bức thơ tới nhà không quá hai tháng, Vương nhấn mạnh là “Con muốn không ai cãi lại ý con. Nếu không con sẽ không hài lòng”.
Ông cụ bất mãn, trợn mắt và đưa tay run run vuốt râu nói:
- Tôi hy vọng thằng Vương đừng quên là khi nào tôi còn sống tôi là người chỉ huy trong gia đình. Tôi nghĩ là nó phải nhớ điều đó.
Sau cùng con dâu nói thật ôn tồn nhưng cương quyết:
- Con thấy nên nghe lời chồng con thì hơn. Mình nên nghe theo những lời căn dặn của anh ấy.
Và đôi chân cô bé được để này nở tự do, mặc dầu nỗi buồn của người mẹ khi thấy bàn chân của con dài ra một cách tuyệt vọng. Nàng chỉ đành đặt giày thật chật cho con mang.
Cách đó không bao lâu vấn đề học vấn của cậu bé lại được đặt ra. Cậu bé hãy còn nhỏ quá, nhưng ông cụ đã vội lo xa. Ông lẩm bẩm một cách não lòng “Không học được Tứ thơ! Vậy là không biết những lời chỉ dạy của Thánh hiền! Rồi nó sẽ biết những gì đây?” Ông cụ đã đọc hết sách của Khổng Tử và ông tin chắc là không có sách nào dạy đúng hơn. Chính ông đã cố gắng xử sự đúng theo sách của Khổng Tử. Cho nên ông không bao giờ rơi vào những sự thái quá. Ông luôn luôn giữ đúng mực Trung Dung.
Ông thấy điều quan trọng vào bực nhứt là hai đứa cháu nội của ông phải biết rõ đạo làm người. Đối với người đàn bà, ông cho việc học sách thánh hiền là thừa. Đàn bà thường giản dị và trí óc họ thiếu thông minh. Người ta cần đưa cho họ xem những chuyện dễ thấy.
Ông cụ nghiêm nghị nói:
- Cháu nội tôi sẽ lớn lên vô đạo đức!
Nhưng lúc bấy giờ đã quá muộn để viết thơ cho Vương. Cho nên cả nhà cố kiên nhẫn chờ đợi.
Đó là những vấn đề nghiêm trọng nhứt đã làm sôi nổi gia đình trong khi Vương vắng mặt, kỳ dư các năm ấy trôi đi vô tích sự.
Về con dâu thì cha nàng mất về bịnh kiết lỵ vào một mùa hè. Mùa đông năm sau mẹ nàng mất về một bịnh kỳ lạ không ai biết. Gia sản chia cho bốn người con trai và ngôi nhà cũ chia làm tư cho bốn gia đình. Người thiếu phụ trở nên xa lạ, không muốn trở về mái nhà xưa. Nàng đành chôn vùi cuộc sống riêng trong gia đình nhà chồng với một lòng tận tụy vô bờ, yêu mến cha mẹ chồng đã tỏ ra tử tế với nàng.
Nàng không biết phải tạ ơn trời Phật như thế nào cho xứng đáng khi đấng vô hình đã ban cho nàng một bà mẹ chồng quá phúc hậu. Khi cùng cha mẹ chồng đi chùa lễ Phật, nàng cám ơn vị thần đã giúp nàng đẹp duyên cùng chồng nàng.
Nàng biết có những bà mẹ chồng khắc nghiệt, ganh ghét con dâu và làm cho cuộc sống của con dâu không thể chịu được. Nhưng bà mẹ chồng của nàng là bà mẹ xứng đáng. Nàng dâu và mẹ chồng hết sức hòa thuận với nhau. Cô dâu thì trầm lặng còn bà cụ thì hiền lành và sống ẩn dật. Từ lâu bà cụ ăn chay trường và luôn không động đến sanh vật. Khi một con bướm bay vô nhà bà cụ không cho đám gia nhân giết. Bà bảo người tớ bắt con bướm thả ra ngoài.
Thật ra thì cha mẹ chồng rất đáng được nàng dâu yêu mến và phục vụ. Ông cụ xem nàng như con ruột. Mỗi sáng, ông đến cửa hiệu trông các người đứng bán và kiểm tra kho hàng. Khi trở về, áo quần ông còn thoang thoảng mùi thơm của trà, cô dâu đem đến cho ông một bình trà và một chiếc quạt nếu là mùa hè và một đĩa than hồng nếu là mùa đông. Nàng học làm thuốc theo sở thích của cha chồng. Nàng lau sách trên án thư của ông cụ, nàng sắp đặt mấy chiếc quạt cổ mà ông cụ chịu khó sưu tăm, những chiếc quạt ấy quá cũ kỹ và mỏng manh, nàng không dám giao cho đám gia nhân trông coi.
Không như với các ông cha chồng khác xem chuyện nàng dâu phục vụ cho mình là chuyện tất nhiên, ông cụ luôn luôn cám ơn các công việc nàng dâu làm cho ông. Ông cụ luôn luôn nhã nhặn lịch sự với cô dâu và những lời khen của ông cụ làm cho nàng vui vô cùng.
Ngôi nhà không rộng như các ngôi nhà khác vì đã được chia cắt trong thế hệ trước. Ngôi nhà có ba vườn hoa, một vườn mẫu đơn, một vườn trúc và một vườn cúc.
Ông cụ rất yêu hoa. Ông thích thưởng thức hoa mẫu đơn nở, hoa huệ trổ dưới khóm trúc và cúc nở vào mùa đông.
Ngày xuân đẹp nhứt là ngày người ta thấy lần đầu tiên các nụ mẫu đơn từ dưới đất đen vươn lên. Cả nhà đều ra thưởng thức.
Có một lần duy nhứt nàng dâu thấy ông cụ nổi giận. Đó là lúc cậu bé nghịch ngắt một nụ hoa. Không nói một tiếng, ông cụ cúi xuống, tát vào cổ cậu bé. Bốn ngón tay xương xẩu của ông cụ hằn trên chiếc cổ tròn của cậu bé. Nó kinh ngạc một lúc rồi kêu ré lên đầy sợ hãi. Ông cụ tái mặt. Ông ấp úng: “Mình đã quá nóng”, rồi đi nhanh vào phòng đóng cửa lại ở trong đó thật lâu.
Đến tối, nàng dâu nắm tay cậu bé đưa đến ông cụ. Nàng bắt nó quỳ xuống lạy ông để xin lỗi. Chính nàng cũng xin lỗi cha chồng.
- Thưa cha, con không hiểu tại sao con của con lại thiếu tư cách đến thế. Con rất lấy làm xấu hổ và khổ sở. Con xin cha tha lỗi con đã vụng về trong việc dạy dỗ con cái.
Ông cụ dịu dàng đỡ cậu bé lên rồi ôm nó trong tay:
- Lẽ ra thì nó không được chạm tới cành mẫu đơn. Khi bị ngắt như vậy gốc mẫu đơn sẽ không thể nở những nụ đẹp, hoa lá cũng kém đi. Nụ hoa kia đã bị ngắt đang giữa lúc còn đang nảy nở. Nhưng cháu nội của cha hãy còn bé quá. Lỗi là ở nơi cha, một người đã già và bao nhiêu năm qua đã theo học thánh hiền, tưởng là đã đạt tới chánh đạo nhưng lại còn nóng nảy một cách phàm phu. Cha hãy còn chậm tiến!
Ông cụ thở dài, nàng dâu không chịu được khi thấy cha chồng buồn. Nàng nói thật dịu dàng:
- Cha là người đàn ông hoàn toàn nhứt mà con đã gặp. Cha là một người cha xứng đáng nhứt đối với con và đối với tất cả những người khác.
Ông cụ mỉm cười trước những lời đó. Ông thấy được an ủi phần nào, dù ngoài mặt ông vẫn giữ thản nhiên, ông tiếp tục đọc sách và nàng dâu đưa con ra ngoài.
Những vụ nho nhỏ như vậy tạo nên những biến cố lớn trong gia đình. Từ ngày Vương vắng mặt, không ai chú ý đến những ngày lễ cho nên bảy năm trời qua như một giấc mộng. Mùa hè lặng lẽ trôi sang mùa thu, hoa cúc nở rực rỡ ngoài sân. Mùa đông các búp măng nở hồng trên tuyết trắng. Rồi xuân lại đến với những nụ hoa huệ và hoa mai nở trên cành đen trụi lá. Và cuộc đời cứ thế trôi đi, năm này qua năm khác.
Trong cuộc đời của người thiếu phụ chỉ có hai biến cố quan trọng xảy ra sau khi nàng sanh cậu bé.
Biến cố thứ nhứt là việc dứt sữa khi con lên bốn và biến cố thứ hai là cậu bé lâm bịnh vào mùa hè, cách đây hai năm. Lần đó nàng trải qua một cơn lo sợ hãi hùng nhứt đời nàng. Buổi sáng cậu bé hãy còn mạnh khỏe vui vẻ nhưng đến xế chiều thì cậu ỉa mửa dữ dội và chỉ vài giờ sau là cậu bé chỉ còn xương bọc da. Cả nhà đều kinh hoàng. Bà cụ tất tả chạy lên chùa. Ngày thường bà cụ chỉ đi được vài bước ngoài sân thôi. Bà cụ hứa sẽ cúng cho nhà chùa cả nắm bạc nếu cháu nội bà sống.
Bà cụ quỳ xuống dưới chân Phật Bà, đập mạnh trán xuống nền gạch, nghẹn ngào khấn vái. Bà thành tâm cầu nguyện thật lớn làm xúc động các quả tim, kể cả quả tim của các pho tượng đất sơn son phết vàng. Các nhà sư cũng đâm ra hốt hoảng vì sợ bà cụ chết đến nơi nên vội vàng đỡ bà lên, bảo:
- Cụ đã cầu nguyện xong và Phật Bà sẽ chứng kiến lòng thành của cụ. Bây giờ cụ nên trở về nhà.
Khi bà cụ về đến nhà thì cậu bé thay vì đỡ, lại trở bịnh nặng thêm. Đôi môi cậu tái xanh và các móng tay của cậu tím đen.
Bấy giờ Waog Ma, người tớ già đã thấy bảy đứa con của bà chết lúc bà hãy còn trẻ, kêu rú lên:
- Phải hú hồn nó, mau lên!
Bà đốt đèn giấy lên chạy ra sân, bảo người mẹ trẻ xách chiếc áo của đứa bé chạy theo. Cả hai chạy trên các nẻo đường lát gạch. Wang Ma nêu cao chiếc đèn giấy lên, vừa chạy vừa réo: “Ba hồn chín vía cậu bé hãy trở về nhà mau”. Người mẹ trẻ đưa chiếc áo đỏ của cậu bé lên cao, chiếc áo mà con nàng thường mặc, để hồn cậu bé nhận ra mà trở về. Đã nhiều lần nàng nghe tiếng gọi hồn của những bà mẹ khác và những lúc ấy nàng run rẩy ôm chặt lấy đứa con thơ trong lòng. Bây giờ đến lượt nàng! Những người đi đường trông thấy bảo nhau: “Vái trời cho hồn đứa bé trở về”. Người mẹ trẻ tiếp tục chạy, hai bàn chân nhỏ bé lướt trên những hòn đá tròn và trơn, không chú ý đến những cảnh bên ngoài thành phố mà từ lâu nàng không trông thấy. Nàng chỉ nghĩ tới đứa con trai duy nhứt của nàng đang hấp hối. Nhưng kết quả đã đạt. Khi trở về nhà, mệt nhoài, họ thấy ông cụ ngồi gần giường, người tớ đứng bên cạnh cầm một chén cháo nóng. Ông cụ từ từ đút từng muỗng nhỏ vào miệng đứa bé. Cậu bé hãy còn nhắm mắt, nhưng nó nuốt được cháo. Hồn nó đã trở về.
Cậu bé phục hồi nhanh chóng cũng như cậu lâm bịnh nhưng những người lớn phải mất nhiều thì giờ mới qua cơn kinh động trong đêm. Mấy ngày sau, ông cụ hãy còn tái xanh, và chốc chốc ông lại gọi cậu bé đến gần, rờ rẫm để xem cậu có bình phục, mập mạp như trước không, ông vui vẻ bảo:
- Bây giờ con mới thật là của nội. Con đã khỏe mạnh như trước.
Còn bà cụ thì cứ lải nhải:
- Nếu tôi không đi chùa và nếu Phật Bà không chứng kiến lòng thật của tôi, bảo toàn sanh mạng cho nó thì tôi hỏi có trời mới cứu được nó! Tôi nghĩ là tôi đã cúng chùa không mất mát đi đâu!
Riêng về người mẹ trẻ, nàng thường thức giấc trong đêm, toát mồ hôi lạnh vì nằm mơ thấy mình chạy cuống cuồng trên các nẻo đường tối tăm, tay cầm chiếc áo đỏ để cho hồn đi lạc của đứa bé trở về.
Bảy năm dài đã trôi qua như thế, trôi qua trong một nếp sống bình thản trầm lặng. Tất cả hy vọng đều tập trung vào ngày trở về của kẻ đi xa.
Ông cụ thấy đứa con của mình được nhấc lên một địa vị cao, trở thành một nhân vật lỗi lạc, cũng như trong quá khứ dòng dõi ông đã sản xuất nhiều người hữu dụng. Dòng dõi ông chưa hề có ai chiếm một chức vụ quân sự trong các triều vua. Nhưng đã có nhiều người giữ vai trò quan trọng hơn nhiều như, thái phó, phó vương và tể tướng. Dòng dõi ông có những người đi vào ngành thương mãi, có người trông nom các sở trà để cung cấp tiền bạc cần thiết trong trường hợp thay đổi các triều vua, bắt buộc kẻ xuất chính phải tạm thời treo ấn từ quan.
Ông cụ không thấy có điều gì đáng cho con ông hãnh diện hơn là giữ một chức vụ quan trọng. Kể ra thì thời buổi vua chúa đã qua rồi và các vấn đề quốc gia đại sự đã thay đổi. Nhưng chánh phủ vẫn là chánh phủ và khi Vương đến tìm ông tại văn phòng và năn nỉ ông cụ xin được đi học ở hải ngoại, ông cụ thấy lo ngại trước những lời của chàng: “Con không hy vọng kiếm một chức vụ trong ngành hành chánh nếu không hấp thụ một nền văn hóa Tây phương. Trong hai việc, một là con bỏ học để theo cha buôn trà, hoặc là con phải đi du học, con phải chọn một”.
Ông cụ hơi bực:
- Tứ thơ đã trở nên vô dụng rồi sao? Cha đã dạy con nhiều và con cũng đã học thêm với một nhà thông thái, con còn theo đuổi cuộc học vấn ở các trường ngoài bờ biển, các trường của người ngoại quốc, nơi đó người ta dạy văn hóa Tây phương...
Nhưng Vương đáp một cách cương quyết:
- Tứ thơ ngày nay chỉ là những quyển sách xưa. Các sách đó không mở đường cho một nghề nào.
Ông cụ không thể tin được lời lẽ của con, dù vậy ông phải nhượng bộ. Nhưng bà cụ tỏ ra bướng bỉnh hơn. Bà không đồng ý cho Vương du học.
- Không. Thằng Vương chỉ có thể du học sau khi có được một đứa con trai.
Giọng bà rất dịu, nhưng cặp mắt bà rất sắc và nghiêm khắc.
Vương cố giữ vẻ vui tươi, mặc dầu cậu hơi khó chịu:
- Làm sao con có thể đẻ một đứa con trai cho mẹ? Ví dụ như vợ con chỉ sanh toàn con gái như một số người đàn bà khác, thì con có thể bỏ hết sự tiến thủ chỉ vì vợ con không sanh con trai?
Bà cụ kéo một hơi mạnh, đẩy dọc tẩu ra, nhấn mạnh:
- Này con, nhứt định con phải có một đứa con trai. Nếu con chết ở cái xứ dã man đó thì ở nhà cha mẹ hãy còn máu thịt của con...
Bà cụ lấy lại sự bình tĩnh thường lệ, nói tiếp:
- Mẹ sẽ cố giúp cho con. Mẹ sẽ đi chùa lễ Phật, mẹ sẽ van vái, cầu nguyện gấp đôi để cho con có một đứa con trai. Mẹ sẽ tặng thêm lễ vật cho vị thần trông coi về việc cầu tự.
Vương cười bảo:
- Con cám ơn mẹ đã nhân nhượng với giá đó. Con muốn chia niềm tin của mẹ và biết là con sẽ có một đứa con trai.
Bà mẹ nói thêm một cách nghiêm trang:
- Con phải biết là chúng ta sẽ được Trời Phật chứng giám tùy theo mức độ tin tưởng của chúng ta.
Vương im lặng. Chàng đã không còn tin tưởng từ lâu, khi còn trẻ nhỏ, khi cậu theo cha mẹ vào chùa. Cậu nắm chặt lấy tay mẹ, kinh hãi trước nét mặt hung bạo của các vị thần. Nhưng cậu không dám thú nhận là cậu sợ, dù là thú nhận với cha, vì cậu đã bác bỏ những nguyên lý của Khổng giáo mà cha cậu đã dạy dỗ cậu từ tấm bé.
Nếu biết được những biến đổi trong tâm hồn của Vương, cha mẹ cậu đã phải kinh hoàng vì Vương chỉ tin tưởng ở các chiến hạm ngoại quốc mà họ chưa thấy lần nào. Vương chỉ tin tưởng ở các khẩu đại bác khổng lồ, ở các đạo quân có kỷ luật và ở tất cả những gì tượng trưng cho sức mạnh. Vương thường thầm mơ một ngày nào đó cậu có thể đúc những khẩu đại bác khổng lồ đó cho đất nước của cậu, đúc những khẩu súng trường cho đàn ông xử dụng, đóng các tàu thép vĩ đại có gắn những thớt đại bác to tướng, đóng các phi cơ thả bom xuống những kẻ khác ở dưới. Tất cả những thứ đó cha mẹ cậu không hề nghe nói đến.
Chính vì những điều đó mà cậu đã xuất ngoại trong bảy năm dài: Vương học chế tạo các thứ máy đó.
Trong thời gian Vương ở ngoại quốc, ông cụ đọc sách, thưởng thức các chiếc quạt cổ, chăm sóc các gốc hoa còn bà cụ thì luôn luôn lo giữ không cho ai trong nhà sát sanh, lo cho những con bướm không bị đèn sáp thiêu cháy. Cũng trong thời gian ấy nàng dâu lo trông nom mọi việc trong nhà.
Bây giờ sau bảy năm xa cách, Vương đã trở về. Nhưng tất cả đều cảm thấy một sự thay đổi. Trước khi bước sang ngày thứ hai, tất cả đều hiểu là Vương đã trở thành một kẻ khác. Cả đến lúc chàng hát hay cười, người ta thấy tâm hồn chàng ở đâu, như gởi trọn vào một cuộc sống khác.
Vương rất bận trong việc thư từ. Ba bức thơ đến trong một ngày, mỗi bức đều đóng dấu lớn.
Vương im lặng đọc và không cho ai biềt nội dung.
Nhưng khi bức thơ thứ ba đến, chàng rời bàn viết đến tìm ông cụ đang ngủ trưa trên ghế bành bằng mây dưới gốc thông, mặt phủ khăn để che ruồi.
Vương tằng hắng và ông cụ mở mắt nhìn dưới chiếc khăn tay. Khi thấy Vương, ông cụ gắng ngồi dậy, có hơi ngượng vì đã ngủ.
- Có việc gì vậy?
Vựơng đi ngay vào đề:
- Thưa cha, con được gọi gấp lên thủ đô. Con không thể kéo dài những ngày ở đây. Ngày mai con phải lên đường, đi thật sớm. Con rất tiếc, vì con dự định ở nhà đúng một tháng. Nhưng có nhiều biến cố, các biến cố quốc tế...
Vương hơi do dự.
Ông cụ lau mặt với chiếc khăn tay, vuốt chòm râu, miệng mở rồi lại khép lại, “Quốc tế” ông lẩm bẩm danh từ xa lạ đó vì ít khi nghe nói. Vương giải thích:
- Quốc tế có nghĩa là giữa các nước ngoài.
Ông cụ kinh hãi:
- Con muốn nói là con lại đi ra nước ngoài?
Vương mím môi, cố giằn sự bực bội, đáp:
- Không, không phải như vậy. Sự thật là có nhiều tin đồn là sắp có chiến tranh xảy ra với một nước ở phía Bắc chúng ta. Người ta đang cần con.
- Vậy à! - Ông có hơi lảo đảo và đặt bàn tay lên cánh tay Vương:
- Con cứ đi nếu con cần phải đi, nhưng đừng xen vào chiến tranh, chiến tranh tai hại lắm. Chỉ có những phường vô lại hạ cấp mới dấn thân vào.
Miệng Vương khẽ run, nhưng chàng nói thật nghiêm nghị:
- Không đúng như vậy đâu, thưa cha.
Rồi bước đều theo cha, Vương trở vô nhà.
Vương không trình bày với vợ như đã giải thích với cha vì chàng nghĩ là nàng không thể hiểu được những chuyện ngoài phạm vi bếp núc. Dù vậy, chàng dịu dàng nói với nàng:
- Tôi rất tiếc không thể ở nhà một tháng như đã dự định. Tôi mới vừa gặp hai con và tôi có nhiều dự định về chúng nó. Có lẽ vào dịp Tết, tôi sẽ ở nhà lâu hơn.
Vương đi vắng cả ngày hôm đó, bỏ cả bữa cơm trưa ở nhà. Đến tối chàng đi dự một buổi tiệc. Trước khi đi, chàng dặn nàng:
- Không nên chờ tôi. Tôi sẽ về thật trễ và sáng hôm sau tôi sẽ đi vào hừng đông.
Nàng không nói gì, chỉ đứng trước mặt chàng, sẵn sàng để trao cho chồng một chiếc gậy kỳ lạ uốn cong mà chàng thích xách đi mỗi khi ra khỏi nhà.
Nàng chờ đợi chồng, đó là bổn phận của nàng. Trong đầu óc nàng không hề hỏi tại sao.
Đêm ấy, khi các nhiệm vụ thường lệ đã làm xong nàng ngồi trong phòng của Vương. Nàng ngồi trên chiếc ghế bên cạnh bàn, cặm cụi thêu áo gối cưới của con gái.
Về sau, mệt mỏi, nàng cẩn thận xếp vuông vải lại, ngồi khoanh tay, im lặng. Hai bàn tay của nàng thật đẹp, trắng xanh, và người ta có thể ngỡ là hai bàn tay chạm khắc hay vẽ. Nàng ngồi như vậy, bất động.
Khi nghe tiếng người ngoài rào, nàng đứng lên, thổi mớ than dưới bình trà và nghe ngóng. Tiếng đàn ông kêu gọi thật vui vẻ. Tiếng Vương cười đùa đáp lại với những chuỗi cười dòn. Thế rồi có tiếng chân vang lên và tiếng gọi cổng.
Trong chốc lát, Vương bước vào phòng, nụ cười thỏa mãn còn tươi trên gương mặt. Chung quanh đôi mắt và dưới má, mặt chàng hồng lên vì men rượu. Nhưng không phải là say vì Vương biết đến lúc nào phải ngưng uống. Là người có học, chàng không hề đi quá mức như những kẻ phàm phu. Màu hồng trên má chỉ là dấu hiệu của sự hân hoan thường lệ, vì nó giúp cho Vương có lý do để không uống thêm nữa. “Tôi đã uống nhiều rồi. Nếu uống thêm, mặt tôi sẽ đỏ bừng lên”.
Vương giựt mình khi thấy nàng đứng yên như một chiếc bóng trong gian phòng lờ mờ. Chàng kêu lên:
- Kìa, tôi không ngờ. Em không nên chờ đợi...
Rồi chàng buông mình trên chiếc ghế, lấy khăn tay lau mặt, vuốt tóc, trong khi vẫn tiếp tục cười:
- Vui ơi là vui. Tất cả bạn bè đều có đủ. Có những người ở tận bờ biển cũng đến. Nhiều người nghe mình có một chức vụ quan trọng ở thủ đô nên muốn tỏ ra thân thích để hy vọng nhờ vả. Nhưng chuyện đó về sau sẽ hay. Mình chỉ giúp những kẻ hữu ích.
Chàng dang hai cánh tay ra, vươn vai ngáp và nói tiếp:
- Buồn ngủ quá. Và ngày mai mình phải thức trước hừng đông. Em đừng chờ tôi nữa. Tôi van em. Bây giờ nhất định là tôi phải ngủ.
Một lần nữa, không khí im lặng đè nặng lên hai người, và cũng như đêm qua, nàng là người phá bầu không khí im lặng đó. Hai bàn tay chui trong hai tay áo, nàng cúi đầu và nhẹ nhàng ra khỏi phòng. Chàng chăm chú nhìn nàng bước ra, bỗng kêu lên:
- Sáng mai, em đừng thức sớm vì tôi đi thật sớm. Mà em có thức cũng vô ích vì anh đã căn dặn tôi tớ trong nhà rồi.
Nàng dừng lại bên cửa, nói thật bình tĩnh:
- Mai em sẽ thức sớm để lo cơm nước cho anh.
Vượng hơi bực:
- Không! Tôi cấm em. Tôi không thể ăn quá sớm như vậy.
Nàng do dự rồi nói:
- Em sẽ làm đúng theo ý anh.
Dù vậy, khi thức vào hừng đông, Vương vẫn thấy bữa ăn dọn ra trên bàn, với đôi đũa riêng của chàng. Các đĩa đựng thức ăn và một thùng cây đậy nắp đầy cơm nóng. Không thiếu một món gì. Chàng đã bảo không đói nhưng hương thơm của các thức ăn quá khiêu gợi, quá hấp dẫn nên chàng ngồi xuống ăn thật ngon miệng.
Phía sau màn, nàng đứng nhìn nhưng không bước ra vì chàng đã cấm. Nàng chỉ đành dọn buổi cơm sáng ra đó để hy vọng là chàng sẽ đổi ý và ăn cho no trước khi lên đường.
Khi Vương sắp sửa đi, ông cụ đến trước cửa phòng, hai vạt áo dài cẩn thận vén lên cao.
Vương cúi đầu nói:
- Cha không nên thức quá sớm. Cha già yếu rồi, cần ngủ cho thẳng giấc. Cha đi nghỉ đi. Con sẽ còn trở về đây mà.
Ông cụ đặt bàn tay vàng mét của ông lên cánh tay Vương:
- Con nên lo cho con, con nên giữ gìn sức khỏe và trở về đây mau. Nói với quan Tổng trấn thượng cấp của con cho ông ta biết con là con một của gia đình. Nói vậy là ông ta hiểu. Chỉ về được có hai ngày sau bảy năm!
Vương hăm hở muốn lên đường sớm nhưng lễ phép đợi cha rút bàn tay trên vai mình.
Chàng đáp:
- Thưa cha vâng!
Rồi chào lần nữa trước khi bước đi. Khi cánh cổng khép lại, người vợ trẻ dọn bàn.
Ông cụ nhìn nàng dâu thật chăm chú nhưng nàng vờ quan tâm đến công việc và gương mặt nàng không biểu lộ một cảm nghĩ gì. Nàng trắng xanh, nhưng không hơn ngày thường. Mặc dù trời hãy còn lờ mờ tối, nàng vẫn ăn mặc theo lệ thường, tóc vẫn chải láng trơn.
Bỗng ông cụ vỗ tay kêu lên:
- Mình quên nói chuyện về việc cho thằng bé học Tứ Thơ. Con chạy nhanh ra ngoài xem nó đã đi xa chưa.
Nàng vội vàng mở cổng nhìn ra ngoài đường tối đen và im vắng. Các tia sáng đầu tiên của bình minh cho thấy những ngôi nhà khép kín ở hai bên đường, nhưng Vương đã biến mất. Chỉ còn một ngọn đèn nhỏ chiếu sáng ở đầu đường. Đó là ngọn đèn của người tớ có bổn phận đưa Vương ra bờ sông để xuống thuyền.
Nàng trở về:
- Thưa cha đã quá muộn.
Gương mặt ông cụ dài ra, ông nói:
- Không hề gì. Nó sẽ trở về đây sớm, không trễ hơn mấy ngày Tết. Chỉ trong vòng sáu tháng thôi. Mà sáu tháng có nghĩa gì đâu so với bảy năm.
Ngày tháng trở lại trầm lặng như thời gian qua.
Chỉ khác có một điều là các bức thơ của Vương không có những con tem mang hình kỳ quái và kể lại công việc học hành. Bây giờ thơ của Vương nói về các hội nghị, các cuộc tiếp xúc với các yếu nhân, các tiệc tùng mà chàng đi dự với các mệnh phụ.
Ban đầu ông cụ ngồi ngay người trước bà cụ và con dâu khi đọc đến những đoạn nói về mệnh phụ đó. Ông cũng đã bỏ cả một câu trong đó Vương viết “đêm qua con dự tiệc với bà Ching”. Ông nghĩ thầm:
- Có lẽ bà này là một người tánh tình lôi thôi. Nếu đọc câu này mình thiếu lễ độ với vợ và con dâu. Không ai đề cập đến tên của những người đàn bà không đứng đắn trước vợ và con dâu.
Một lần khác, Vương viết: “Đêm nay con dự tiệc với Thủ tướng phu nhân”. Điều đó, ông cụ vờ không đọc ra chữ và trong khi bà cụ và nàng dâu chờ đợi ông tiếp tục, ông do dự và bỡ ngỡ. Ông nghĩ thầm: “Nếu các Thủ tướng phu nhân mà tự do như thế thì chánh phủ sẽ như thế nào?”
Ông nhảy vài hàng rồi tiếp tục đọc. Sau đó ông đứng lên đi vô phòng, kéo màn cánh cửa để cho biết là ông không muốn bị khuấy rầy.
Một mình trong phòng, ông ngồi trước án thư đánh bóng, dưới dàn hoa trên cửa sổ, ông mài mực cẩn thận trên nghiên. Khi có đủ mực theo ý muốn, ông tém đầu ngọn bút lông rồi nắn nót trên giấy những chữ thật đẹp. Trong số những người buôn trà, ông là người nổi tiếng văn hay chữ tốt.
Nhưng mặc dầu chữ tuyệt đẹp, lời cũng rất cay đắng. Ông viết:
“Vương con, con phải thận trọng đừng để những bà mệnh phụ lung lạc. Nên thăng quan tiến chức từ từ chờ không nên nhờ vả đàn bà”.
Ông ký tên, dán bức thơ lại rồi cho người mang đi. Sau đó ông châm lửa đốt tiêu bức thư vừa nhận được.
Trong thư trả lời, Vương thấy khó giải thích tình thế cho ông cụ rõ. Bức thư ấy rất dài và rất may là khi ngươi ta mang tới, ông cụ ở nhà một mình. Ông thấy không thể đọc lớn cho bà vợ và nàng dâu biết nội dung. Bức thư chứa đựng nhiều việc mà ông không hề nghe nói.
Trong phòng đóng kín, ông cụ đọc bức thư đến ba lần rồi đốt ngay. Ông thấy cần làm như vậy mặc dầu trong nhà chỉ có ông là người biết đọc. Bức thư có nhiều câu như sau: “Ở vào thời buổi tiến bộ của chúng ta, đàn bà phải ngang hàng với đàn ông”. Trong những ngày mới này chúng ta không thể chấp nhận những phong tục cố hữu biến đàn bà thành những người vợ kiêm đầy tớ. Không lấy người vợ có học là một trở ngại lớn cho việc tiến thủ của con. Con không có người nào có khả năng trông nom nhà cửa hoặc tiếp khách, hoặc làm bạn với con. Ngay từ bây giờ, con lấy làm lo ngại vì mấy đứa con của con chưa có một nền học vấn xứng đáng.
Sau khi đốt bức thư thành than, ông cụ ngồi bất động thật lâu. Đến khi thấy mệt, ông vỗ tay.
Nàng dâu nghe, chận người tớ đang chạy tới, bảo:
- Để tôi vào. Hai đứa nhỏ đang chơi với mấy con thỏ, chúng không cần đến tôi.
Khi thấy con dâu bước vào, ông cụ nhìn nàng một lúc, hai mắt ươn ướt. Ông bảo:
- Cha hài lòng khi thấy con vào đây chứ không phải người khác. Cha đang mệt và muốn hút vài hơi.
Theo thói quen, khi hút ông cụ nằm trên bộ ván chạm, ngắm thân hình mảnh khảnh của nàng dâu trong khi nàng cúi xuống chăm chú làm thuốc. Mắt ông không rời nàng khi nàng cúi đầu xuống. Lúc nàng trao dọc tẩu, ông hỏi:
- Con, năm nay con bao nhiêu tuổi?
Nàng dâu ngạc nhiên:
- Dạ hăm bảy.
Ông cụ chậm rãi hỏi thêm:
- Con đã về đây từ mười năm?
- Dạ mười năm. - Tiếng của nàng nghe chừng như một tiếng vang, nhưng nàng không có vẻ gì buồn. Nàng vẫn dịu dàng, chịu đựng như thường lệ.
Bỗng ông cụ nói:
- Cha mẹ đã sai lầm. Mẹ con đã sai lầm, cha cũng vậy. Con cũng như là con ruột của cha mẹ. Cha mẹ luôn luôn nương dựa nơi con, luôn luôn cần có mặt của con. Chính vì vậy mà cha mẹ quên phứt là đã để hai vợ chồng con xa cách. Khi nó còn ở nước người, con không thể dẫn mấy đứa nhỏ theo nó. Nhưng bây giờ nó đã trở về đây. Nó có nhà riêng ở trên thủ đô. Nó cần một người nội trợ để trông coi tiệc tùng, để sai khiến tôi tớ. Nó cần có người nó thương yêu ở bên cạnh.
Đôi mày đẹp như lá liễu của nàng dâu hơi rung động trên đôi mắt. Nàng hỏi:
- Cha muốn nói là...
Ông cụ:
- Cha muốn nói là con phải đi theo chồng con.
Thuốc phiện nướng trên ngọn đèn tỏa một mùi thơm khắp gian phòng, lơ lửng trên không.
Ông cụ chưa hút. Nàng dâu cúi xuống đưa ngọn đèn ra xa, dáng điệu thật duyên dáng. Ông cụ thừa lúc đó để ngắm con dâu. Là người gia giáo ông cụ không bao giờ nhìn thẳng người đàn bà mình trọng. Ông thấy dưới vành tai của nàng ửng đỏ. Ông hỏi thật nhân từ:
- Con có thích đi không?
Nàng im lặng một lúc. Nàng đang suy nghĩ. Đôi mày nàng hãy còn run run. Sau đó, nàng hỏi:
- Con không đi nếu không có ai ở bên cạnh cha mẹ.
Ông cụ:
- Cha mẹ sẽ giữ lại Wang Ma. Không sao đâu! Chắc chắn là cha mẹ sẽ thấy thiếu con. Nhà thiếu mấy đứa nhỏ sẽ vô cùng trống trải. Nhưng cha phải nghĩ đến thằng Vương trước nhứt. Cha không xử sự đúng đắn với nó. Cha đã suy nghĩ nhiều. Cha thấy con cần phải theo chồng con.
Nàng lẩm bẩm:
- Nhà con ra đi vội vàng quá!
Ông cụ thở dài:
- Phải. Nó đi quá vội vàng. Để cha viết thư cho nó.
Ông cụ bắt đầu hút, nét nhân hậu hiện rõ trên gương mặt khi ông ngủ.
Nàng dâu chờ một lúc lâu rồi thấy sự có mặt của mình không cần thiết nữa, bước ra ngoài.
Như thường lệ, vào lúc xế chiều, nàng đến tìm bà cụ ở phòng giữa và tiếp tục công việc thêu thùa. Con chim xanh đã thêu xong, và tiếp tục thêu cành mai trổ hoa con chim đậu. Trong mười năm nữa, con gái nàng là con dâu và sẽ ngủ trên chiếc áo gối thêu đó.
Lúc đó người ta nghe thấy tiếng la ngoài sân và cậu bé chạy nhào vô, xách tai con thỏ trắng đang giãy giụa hai chân. Cậu kêu lên:
- Chị bảo con thỏ này của chị, nhưng con biết là nó của con...
Người mẹ đứng lên nắm cánh tay tròn lẳn của đứa bé đi ra cửa. Cậu bé nũng nịu kêu lên không ngớt:
- Con muốn con thỏ này phải là của con. Nó phải thuộc về con.
Chị nó đang ở ngoài sân cúi xuống chuồng thỏ, đút những lá cải vào như không nghe gì cả.
Người mẹ gọi:
- Con.
Con bé quay lại, nhìn thẳng vào mặt mẹ, ương ngạnh. Cô bé có những nét đều đặn như mẹ nó, nhưng linh động, hoạt bát hơn. Nó nói với giọng bình tĩnh và tự tin:
- Con thỏ đó của con.
Người mẹ lặp lại:
- Con...
Rồi lại im lặng.
Cô bé đứng thẳng lên, ném các lá cải đang cầm trên tay, cắn môi, rồi nói với giọng cộc lốc:
- Lúc nào con cũng bị xử hiếp hết! Con không chịu đâu!
- Con...
Người mẹ lặp lại lần thứ ba và cô bé òa ra khóc rồi chạy nhanh vào phòng.
Cậu bé kêu lên đắc thắng:
- A ha! Con thỏ này của con!
Người mẹ bảo:
- Phải. Nó của con.
Rồi nàng vào trong tiếp tục thêu.
Bà cụ đã nghe tất cả, thở dài, nói:
- Nếu con có được một đứa con trai nữa thì tốt biết mấy. Phải có một đứa con trai để thằng bé kia chơi với. Mẹ thấy tánh nó rất bướng bỉnh.
Người mẹ trẻ không đáp. Nàng lắng nghe tiếng động xuất phát từ phòng bên trong. Nàng nghe tiếng nức nở nghẹn ngào, dường như con bé che một vật gì trên miệng. Sau cùng, người mẹ đứng lên, không chịu được thêm nữa. Với sự bình tĩnh lạ thường, nàng bước vào phòng trong, bước lại gần giường cô bé đang nằm vùi đầu vào chăn.
Nàng kéo cô bé ra, nó quay lại; mặt đầm đìa nước mắt, đôi mắt lạnh lùng. Không nói không rằng, người mẹ đưa tay lên trán, vuốt mớ tóc lòa xòa.
Cử chỉ êm ái đó, khiến vẻ khó chịu của cô bé từ từ biến đi. Nàng trở nên buồn thảm. Khi người mẹ trông thấy sự thay đổi này, nàng nói thật nhỏ như thì thầm:
- Này con, khi nãy mẹ không hỏi con thỏ kia của ai. Mẹ muốn tập cho con tánh phục tùng bằng cách này hay cách khác. Phục tùng cha, phục tùng anh, phục tùng chồng. Nếu em con muốn con thỏ đó, thì con phải nhường cho nó.
Cô bé vừa kêu vừa khóc:
- Tại sao con phải nhường? Nó là con thỏ của con. Con biết chắc chắn vì nó có một chấm đen trên râu...
Người mẹ kiên nhẫn giải thích, cũng như nàng lặp lại một bài học, được nghe nhiều lần:
- Con học tánh phục tùng trước hết bằng cách nghe lời cha, nghe lời em, về sau con có thể phục tùng chồng con. Một người đàn bà phải học vâng lời. Chúng ta không nên hỏi tại sao. Một khi sanh ra, chúng ta không thể thay đổi gì được. Chúng ta phải chấp nhận và làm tròn bổn phận của chúng ta.
Bàn tay nhẹ nhàng của nàng vẫn không ngừng vuốt ve trán cô bé, dường như để đem lại sự bình tĩnh mà lời lẽ của người thiếu phụ không đem lại được. Những lời lẽ đó, người mẹ trẻ đã nhiều lần lặp lại để giáo dục đứa con gái. Những lời lẽ đó không phải mới, nhưng cũ từ mấy thế kỷ. Sự vuốt ve đều tay và ru ngủ là một thông điệp câm nín và trực tiếp mà người mẹ truyền cho con bé. Cô bé nhận và thấy dễ chịu.
Vài ngày sau, khi cả nhà ngồi vào bàn ăn vào buổi tối, ông cụ nhìn con dâu với nét vui tươi, ông vừa vuốt râu vừa tằng hắng. Trông ánh mắt của ông, người ta biết là ông có điều gì trong trí.
Lúc nàng dâu đặt trước mặt ông tô canh và món thịt heo mà ông ưa thích và đặt trước mặt bà cụ đĩa rau cải nấu chay đặc biệt cho bà, ông cụ vuõt râu và tằng hắng một lần nữa trước khi nói với giọng hăng hái:
- Này con, hôm nay cha viết thơ cho thằng Vương báo tin cho nó biết là con đã chuẩn bị sẵn sàng để đưa hai đứa nhỏ lên Thủ đô ở với nó. Nó đã nói trong thơ gởi cho cha một câu rất chí lý: “Một người đàn ông phải có một người nội trợ trong nhà để trông coi nhà cửa, sai khiến tôi tớ”. Cha cho nó biết là nó nên về đây rước con nếu nó xin phép được vài ngày. Nếu không thì cha sẽ cho gia nhân đưa con lên đó. Chuyến đi này không có gì khó khăn. Gia nhân của cha lớn tuổi và trung thành. Cha cũng sẽ đưa con xuống thuyền. Con chỉ mất ba ngày đường và khi tới nơi, Vương sẽ ra đón con tại bến! Sau đó con tiếp tục đi đường bộ không đầy một ngày. Tóm lại, con không có gì phải ngại, vì gia nhân đã đi lại con đường đó nhiều lần khi thằng Vương hãy còn trẻ. Chuyện rất giản dị. Một người đàn ông cần có người vợ ở trong nhà. Thằng Vương nói rất chí lý.
Nàng dâu không đáp. Tâm hồn nàng đang xúc động vì những ý nghĩ dồn dập. Nàng cảm thấy vui mừng trong lòng khi biết chồng muốn có nàng ở trong nhà. Nàng hãnh diện vì thấy nàng hữu ích đối với chồng. Và nàng thấy mình đã lầm khi nghĩ là chồng đã thay đổi thái độ đối với nàng. Chàng hãy còn cần sự có mặt của nàng. Nàng run run khi cầm đôi đũa gắp một miếng thịt gà nấu nấm mà cậu bé đòi ầm ĩ:
- Kìa mẹ, miếng trắng đó. Không, ở đây nè!
Cô chị nói với vẻ trách móc:
- Đó là miếng nội thích.
Người mẹ trẻ ngừng lại:
- Đứng rồi con à. Đó là miếng nội con thích.
Cậu bé mím chặt môi, đôi mắt trợn tròn và sáng ngời như sắp khóc. Ông cụ liền cúi xuống gắp miếng thịt gà mà đứa cháu thích bỏ vào chén của nó.
- Đó, nội cho con.
Đứa bé cười rộ lên, thích chí.
Người mẹ nghiêm nghị bảo:
- Cám ơn nội đi con.
Sau khi đã được những gì mình muốn. Cậu sẵn sàng vâng lời. Cậu đứng lên, cúi đầu về phía ông cụ.
Ông đưa bàn tay ra vuốt đôi má đỏ hồng cậu bé. Với giọng dịu dàng, đầy lưu luyến, ông nói:
- Rồi con cũng theo mẹ con đi khỏi mái nhà này...
Cậu bé hăm hở kêu lên:
- Con cũng đi nữa hả mẹ? Mình đi bằng thuyền?
Cậu vội vàng đứng lên, làm đổ chén cơm và miếng thịt gà:
- Mẹ, chừng nào mình đi? Mình đi đâu hả mẹ?
Người mẹ rầy:
- Nín đi! Bây giờ hãy còn quá sớm để bàn bạc. Hãy chờ quyết định của cha con.
Ông cụ liền nói:
- Nó sẽ viết thư cho con ngay. Để tính xem. Bảy ngày nữa chúng ta sẽ được thơ của nó. Hãy cho thêm một hai ngày phòng ngược gió.
Bà cụ bắt đầu hiểu người ta bàn về việc gì, bảo:
- Tôi không biết ra sao nếu thiếu con dâu của tôi.
Bà cụ vừa húp cánh cải trên chiếc muỗng sành. Bà cụ chỉ còn có vài chiếc răng và canh là món bà ưa thích nhứt. Bà đặt muỗng lên chiếc đũa nhỏ, nhìn chung quanh:
- Tôi quen sống bên cạnh con dâu của tôi. Với một người già như tôi mà thiếu con dâu thì thật là khổ. Tôi không thể trông coi kẻ ăn người ở trong nhà như lúc còn trẻ.
Ông cụ đáp:
- Khi nhà chỉ còn hai kẻ già chúng mình thì làm gì có chuyện trông nom với sai khiến.
- Nhưng...
Bà cụ vừa nói lại nín lặng. Bà vừa trông thấy vẻ mặt nghiêm nghị ít khi có của chồng. Bà cụ đâm sợ, mà không biết làm gì hơn là tiếp tục húp canh như trước.
Ông cụ lặp lại, nhìn cậu bé:
- Nhứt định là mình phải để cho nó theo thằng Vương. Còn con nữa, con cũng đi theo mẹ con.
Con bé lắng nghe, đôi mắt tròn xoe.
- Con cũng đi nếu bà nội con không thấy cô đơn.
Cô bé tái mặt, buông đũa xuống không buồn ăn, nói với giọng cả quyết:
- Nếu không đi được thì con chết!
Bà cụ ngẩng đầu lên giận dữ:
- Đừng có nói những tiếng đó, quan hệ lắm! Coi chừng cô hồn...
Người mẹ trẻ nói:
- Nếu mẹ thấy không cần chúng con và nếu chúng con phải đi, con muốn đưa hai con theo vì đã đến lúc con bé phải học hỏi nhiều việc. Nhưng cố nhiên là không phải con quyết định, với tuổi già, mẹ khó thể sai khiến kẻ ăn người ở trong nhà. Mình phải luôn luôn dòm ngó, nếu không họ sẽ đâm lười...
Ông cụ nói với vẻ tin tưởng:
- Không sao. Đã có Wang Ma lo, trông coi đám tôi tớ, tiêm thuốc và đưa bà cụ đi chùa. Mình sẽ thu xếp sau.
Dù bình tĩnh, người vợ trẻ vẫn không thể ăn đến cuối bữa cơm. Tuy nhiên nàng trông coi sai bảo đám bồi bếp mang thức ăn đầy đủ cho mọi người. Nàng chú ý chúng mang trà đúng với sở thích của cha mẹ chồng. Ông cụ thích loại trà đỏ trong khi bà cụ thích loại trà xanh. Mỗi chiều, nàng làm tròn công việc của mình, không bao giờ xao lãng. Sau khi gia nhân dọn bàn, và trong lúc cha mẹ chồng uống trà, nàng đưa hai con đi rửa mặt rửa tay. Nàng lo cho cậu bé, còn cô bé thì giao cho người tớ già.
Chỉ lúc đó người thiếu phụ mới tách rời thói quen. Nàng vào phòng của Vương thay vì trở qua phòng của cha mẹ chồng. Trong bóng tối, nàng ngồi lên chiếc ghế của chồng. Nàng bắt đầu nghĩ đến tương lai. Nàng không thể hình dung chuyện rời bỏ ngôi nhà mà nàng đã ở hơn mười năm qua. Nàng nghĩ riêng từng vật mà nàng có nhiệm vụ trông nom. Ai sẽ lo quét dọn ba vuông sân, ai sẽ lo chăm sóc các cành trúc, ai sẽ xắn măng để ăn và để các gốc khác vươn lên?
Đám gia nhân không người sai khiến sẽ làm biếng không chịu xắn măng xào nấu cho đôi vợ chồng già. Tôi tớ bao giờ cũng thế. Ai sẽ lau bụi các chiếc quạt cổ của ông cụ? Hai bàn tay của ông cụ đã bắt đầu run...
Tất cả những công việc lặt vặt đó ám ảnh tâm trí nàng và bao bọc chung quanh nàng như một cái lưới vô hình khó phá vỡ được. Có những công việc tế nhị mà chỉ có nàng làm được như lau chùi những pho tượng, cuốn lại những liễng vào những mùa nhứt định và thay vào đó những thứ khác. Ngày xuân nàng lo việc cúng kiến tảo mộ.
Tất cả công việc đó đem lại cho gia đình vẻ trang trọng và khi thực hiện các công việc đó nàng thấy thoải mái với nhiệm vụ của người con gái, người vợ và người yêu. Nhưng nàng còn có người chồng. Nàng sẽ rất cần thiết trong nhà của chàng. Bây giờ không hy vọng chàng sẽ trở về ở trong thành phố nhỏ bé này như lúc còn trẻ. Một người lỗi lạc như chàng sẽ không có chức vụ nào xứng đáng với tham vọng của chàng. Với sức học uyên thâm và ngôn ngữ ngoại quốc lão thông, chàng chỉ có thể sống ở thủ đô và nơi đó người ta hết sức cần đến chàng.
Nàng khẽ thở dài. Nếu theo chồng, có lẽ nàng sẽ trông nom một ngôi nhà giống như ngôi nhà cha mẹ chồng nhưng nhỏ hơn. Nàng sẽ trông coi bếp núc, như hiện nay. Nàng sẽ nấu các món ăn mà chàng thích hoặc đứng điều khiển nấu các buổi tiệc nhỏ không đáng gọi những đầu bếp nhà nghề. Nàng sẽ trông lo rót rượu như ở đây. Sẽ có bàn tủ để lau chùi, có vườn để vun tưới. Nàng sẽ dạy dỗ con gái như đang dạy ở đây và sẽ trông nom cậu con trai. Tất cả công việc của người đàn bà, nàng đều hiểu rõ không sót một việc nào.
Bỗng nàng nghe tiếng tằng hắng của cha chồng ngoài cửa. Nàng đứng lên bước ra. Bà cụ đã về phòng riêng, chỉ còn một mình ông cụ. Ông cụ bảo:
- Cha nhất định là con phải đi. Vậy con nên sửa soạn rương trấp mang theo quần áo của con và của hai đứa nhỏ, nếu con thấy cần đưa hai đứa nhỏ nó theo, vì con sẽ phải ở luôn ngoài đó với chồng con.
Nàng khẽ cúi đầu:
- Con tuân ý cha. Con đem con bé theo vì đã đến lúc phải sửa soạn cho cuộc đời của nó. Con phải dạy nhiều việc cho tương lai của nó. Chỉ tội cho mẹ già mà không có con cháu bên cạnh.
Nhưng sau rốt, người vợ trẻ phải ở lại. Đúng vào lúc nàng nghĩ đến việc ra đi theo chồng với tất cả sự rung động dịu dàng và thầm kín thì có một bức thơ mà ông lão giữ kín. Ông lão xúc động mạnh khiến bà cụ và nàng dâu không biết phải làm thế nào. Thuốc phiện cũng không đủ sức trấn tĩnh cơn xúc động của ông lão. Ông ngồi nhìn nàng dâu trong khi mọi người chờ đợi ông lên tiếng. Nhưng ông không nói một lời.
Sau cùng nàng không chịu được nữa vì nàng khiếp sợ, với sự táo bạo hiếm có, nàng vào phòng cha chồng, vờ săn sóc ông cụ và hỏi:
- Thưa cha, nếu có thể, xin cha cho biết ngày nào cha muốn con lên đường. Con cần biết để thu xếp công việc trong nhà trước khi đi. Con phải trông coi, quần áo ngự hàn chuẩn bị mùa đông, phải phơi các áo lông để sau này mẹ con khỏi phải bận tâm về những chuyện đó.
Ông cụ lại ho lâu hơn thường lệ, dường như ông thấy lúng túng. Sau cùng, ông nói sự thật:
- Con à, cha vừa nhận được một bức thơ kỳ lạ của chồng con. Cha không thể lặp lại nội dung bức thơ cho con nghe. Bây giờ chính cha phải đích thân xuống thủ đô tìm hiểu nếp sống của nó như thế nào. Chừng cha trở về thì con sẽ đi. Con nên chuẩn bị sẵn sàng.
Ông cụ chưa hề đi xa từ lúc hãy còn trẻ, bà cụ và nàng dâu lấy làm lo ngại khi biết quyết định của ông. Nàng dâu nghĩ là ông cụ không thể đi được. Làm sao chịu nổi sự vất vả của chuyến đi? Ai sẽ làm thuốc cho hút? Ai nấu những thức ăn mà ông thích?
Bà cụ đâm cuống lên. Cả hai người đàn bà năn nỉ ông cụ giải thích vì sao ông lại nhứt định như vậy. Phải chăng là Vương lâm trọng bệnh? Nhưng ông cụ vẫn một mực không nói lên sự thật. Ông chỉ đáp:
- Không, thằng Vương không bịnh hoạn chi. Nhưng tôi phải gặp nó mới được.
Chưa bao giờ người ta thấy ông cụ cương quyết đến mức đó. Cũng chưa bao giờ ông chịu giữ bí mật như vậy.
Mẹ chồng và nàng dâu, không còn cách nào hơn là thu xếp hành lý cho ông cụ. Nàng dâu cẩn thận cho vào rương áo quần đủ bốn mùa vì nàng không biết mưa gió như thế nào nơi chồng đang ở. Nàng cũng không quên hộp trà thật ngon mà cha chồng thích. Nàng biết là ông cụ không đời nào chịu uống loại trà người ta bán cho khách đi đường. Nàng bỏ theo vài hộp bánh mứt để ông cụ dùng cho thơm miệng. Nàng cũng bảo hai người tớ tâm phúc đi theo ông cụ. Một trong hai người này là ông lão đã từng đưa Vương đi học ngày xưa.
Khi ông cụ lên kiệu, hai tay run rẩy vuốt chòm râu bạc, đôi mắt sáng và nghiêm, hai người đã trở vô nhà chờ đợi.
Nàng dâu chờ đợi trong suốt thời gian ông cụ đi vắng. Đến ngày thứ bốn mươi, ông cụ trở về. Không ai biết rõ ngày giờ ông cụ về. Ông không viết thư vì trong nhà có một mình ông biết đọc. Và không thể nhờ một kẻ khác đọc một thư nói về chuyện riêng tư trong gia đạo của mình.
Ông cụ về đến cổng rào không ai hay. Ông bước vào sân, lảo đảo như mệt mỏi quá sức.
Ông không nhìn lên và cười với vẻ kiệt quệ khiến hai người đàn bà đâm sợ.
Bà cụ theo ông vào phòng riêng. Nàng dâu hối hả nấu cháo gà để giúp ông lại sức.
Ông cụ nằm luôn ba ngày không nói. Thỉnh thoảng ông rên rỉ hoặc ấp úng một tiếng cám ơn khi nàng dâu săn sóc.
Hai người đàn bà cố kiên nhẫn chờ đợi vì họ biết có một điều gì ghê gớm, không thể nói được đã ám ảnh ông cụ.
Đến ngày thứ ba ông cụ mặc áo quan thường nhựt, cố gắng lê bước đến ngồi trước án thư. Ông cho gọi bà cụ và nàng dâu đến. Ông có một chuyện khó nhọc để nói với hai người.
Bà cụ lo ngại những tin chẳng lành, sợ con trai bà lâm trọng bịnh. Người vợ trẻ nghĩ đến chồng với sự lo âu tương tự. Có lẽ chàng bịnh hoặc có thể là đã chết. Cả hai đều không có một ý nghĩ nhỏ nào về câu chuyện mà ông cụ sắp nói ra.
Ông cụ nói:
- Tòi đã xuống Thủ đô. Tôi đã gặp thằng Vương vả các bạn của nó. Tôi đã ở trong đó hai mươi ngày để xem những vật mà tôi chưa biết. Nhà cửa thật cao, xe cộ chạy tự động và còn rất nhiều chuyện lạ khác mà tôi sẽ không kể lại vì các thứ đó không liên hệ đến hai người. Tôi đã hiểu những gì thằng Vương nói về các phụ nữ ở thành phố. Họ còn lạ hơn những điều tôi trông thấy. Họ đi đứng một mình không cần có ai đi theo. Họ cắt tóc ngắn như đàn ông, và giống y như đàn ông. Ban đầu tôi thầm nghĩ: “Đó là những đàn bà hư thân mất nết. Con tôi đã hư hỏng vì bọn này”. Nhưng sau đó tôi thấy mình đã lầm. Tôi đã nghe nói đàn bà thay đổi nhiều trong thời buổi này. Và tôi đã hiểu. Trước đó, tôi không tin, vì ở đây, đàn bà vẫn không có gì đổi mới.
Ông cụ ngừng lại, dường như nhớ một điều gì khó chịu và nhìn chăm chú xuống đất.
Bà cụ lắng tai nghe thật kỹ, hỏi:
- Nhưng thay đổi như thế nào?
Ông cụ đáp:
- Họ được nuôi nấng trong các trường giống như trường mà thằng Vương đã học. Họ biết đọc biết viết và có người ở ngoại quốc nữa. Thằng Vương đã quen biết họ lúc du học ở hải ngoại. Nếu không nghe thằng Vương nói thì tôi đã không tin. Tôi có theo nó đến nhà một người bạn của nó. Người bạn này có một người vợ giống như những người đàn bà tôi vừa kể. Ban đầu tôi không dám nhìn vì sợ nàng là hạng người không đứng đắn. Nhưng nàng nói chuyện thật dịu dàng và lịch sự, bốn đứa con của nàng lễ phép và sạch sẽ. Nhà cửa sắp đặt chu đáo, dù có hơi kỳ lạ. Tất cả đều có ngăn nắp trật tự. Tôi thấy không có gì xấu đối với cô nàng. Thằng Vương cho tôi biết là người đàn bà đó đã dạy các con nàng đọc và viết và nhiều việc khác trong sách. Tôi chưa hề gặp những người đàn bà như thế. Nàng ngồi nói chuyện và cười với đàn ông và tôi thấy những người đàn ông này kính trọng nàng lắm.
Hai người đàn bà lắng nghe ông cụ nói trong sự im lặng hoàn toàn. Nàng dâu trở nên tái xanh, xanh hơn thường nhựt và nàng liếm môi bằng đầu lưỡi.
Ông cụ tiếp tục với vẻ do dự và tế nhị:
- Thằng Vương ở một mình trong một ngôi nhà không giống ngôi nhà mình. Đó là một ngôi nhà kỳ dị. Đó là hai cái nhà chồng lên nhau và có cửa sổ bằng kính.
Ông ngưng lại một lúc rồi tiếp tục, sôi nổi hơn:
- Tôi nói với thằng Vương: “Nhà con không có ai để săn sóc. Vợ con có thể đến đây ở với con khi nào con muốn, vì cha và mẹ con có thể cố gắng để không phải nhờ vả đến nó...”
Hai người đàn bà ngồi yên, hai mắt dán chặt vào gương mặt cúi xuống của ông cụ. Bàn tay vàng, gầy, và nhăn nhún không ngớt vuốt râu, ông hết gác chân lên đùi bên này lại gác chân lên đùi bên kia.
Bà cụ không chịu nổi sự im lặng đó, hỏi:
- Rồi nó trả lời như thế nào?
Ông cụ lại ho rồi vụt trả lời lớn lên:
- Nó nói: “Cha à, chính mắt cha trông thấy, làm sao vợ con có thể trông nom một ngôi nhà như thế này, làm sao vợ con có thể là một người vợ xứng đáng với con? Nó không biết đọc cũng không biết viết. Con sẽ xấu hổ trước mặt bạn bè và vợ bạn của con”.
Nghe những lời đó mặt người vợ trẻ như hóa đá. Nàng không có một cử động. Đôi mắt nàng nhìn xuống, hai bàn tay nắm lại và nàng ngồi như thể bất động.
Ông cụ lên nhìn con dâu, thở dài thật to, nói tiếp:
- Tôi hiểu những gì nó muốn nói. Nhưng tôi quả quyết và tôi lặp lại “Làm sao kiếm được một người đàn bà như con! Không ai có thể sánh kịp với con”.
Ông cụ lại thở dài rồi nói với giọng chua chát chưa từng thấy:
- Nhưng con không biết đọc, không biết viết. Dường như ngày nay đàn bà phải biết đọc, biết viết.
Một tiếng hét vang ngoài sân, tiếng hét của cậu bé. Nếu vào lúc khác mẹ nó sẽ chạy nhào lại nó. Nhưng lúc bấy giờ nàng không nhúc nhích. Dường như nàng không nghe con hét.
Bà cụ nó thật nhanh và lớn:
- Nhưng tất cả những việc đó là nghĩa gì? Thằng Vương muốn cái gì? Không, tôi không hiểu vì sao nó nói như vậy. Nó đã tìm một người nó thích hơn. Chính thế. Tôi biết chắc. Tôi đã nói trước là con đi học ở nước ngoài chỉ đem lại toàn chuyện không hay!
Ông cụ đưa tay lên để bắt bà cụ im lặng:
- Bà nó không hiểu đâu! Tôi không thấy một người đàn bà nào mà nó thích như bà nói. Không! Nó đã đề nghị một thu xếp như thế này. Nó bảo: Vợ con phải đi học trong ba năm ở một thành phố sát bờ biển, một trường học của người ngoại quốc mà con biết bà hiệu trưởng, con sẽ viết thơ giới thiệu vợ con với bà ấy. Vì con, họ sẽ nhận cho vợ con học trong trường. Ở trong đó vợ con sẽ dần dần giống như các phụ nữ ở đây. Vợ con sẽ học đọc, học viết mà còn học cách dạy dỗ con cái nữa”.
Bà cụ vụt cười, một nụ cười thật nhỏ, nhưng chua chát. Nhưng gương mặt nàng dâu ửng đỏ. Nàng ngẩng đầu lên, đôi mắt ngấn lệ. Nàng nói mặt cách khiêm nhường:
- Phải con không biết gì hết. Anh Vương nói chí lý. Con không xứng đáng với anh ấy. Con sẽ đến trường nào anh ấy muốn. Khi con phơi xong quần áo ngự hàn, chuẩn bị cho mùa đông xong, con sẽ đi...
Nàng nói thêm với giọng hổn hển:
- Con sẽ đi nếu anh ấy muốn con giống như những người khác.
° ° °
Nhưng làm sao một người mẹ trở lui lại vào thời con gái? Nàng đã rơi nước mắt khi tách rời hai đứa con. Nàng đã quay lại một lần chót để nhìn hai đứa con đứng sát vòng rào, dang hai cánh tay ra gọi mẹ.
Nàng đã ra đi bên cạnh người tớ già, bất bình trước sự việc kỳ quái như thế. Nàng đã vào trường, ngồi vào chỗ dành riêng ở dãy phòng ngủ, giữa những hàng giường và trong phòng học, ở bàn riêng của nàng.
Làm sao nàng quên được tình cảnh éo le của nàng giữa cảnh xa lạ đó? Người ta đã tỏ ra tử tế với nàng. Những người đàn bà ngoại quốc trắng xanh và kỳ lạ, rất lịch sự với nàng. Nhưng nàng phải ngồi trong một góc phòng, ở giữa đám bé con, phải cúi xuống các quyển sách có những chữ thật lớn.
Nàng quyết chí học hành, để học cho xong, càng sớm càng hay. Nhưng khi nàng tập trung tâm trí vào các chữ cái thì hồn nàng bay bổng trở về nhà và nàng không thể trách rời ra được. Nàng nghĩ thầm “với gió lạnh như thế, có ai mặc áo ấm cho hai đứa bé không?” Nàng lo sợ không ai lo cho các công vỉệc hàng ngày. Thế rồi thời gian trôi qua thật nhanh, giờ trả bài đã đến. Nàng không thuộc bài, giáo sư quở trách và nàng cảm thấy xấu hổ.
Đêm đến, khi phải thay áo nằm ngủ trong phòng giữa nhiều người, nàng thấy ngại ngùng, khó chịu. Nàng trèo lên chiếc giường sắt nhỏ, cố nhắm mắt lại, nhưng hai mắt vẫn mở to. Nàng nhớ đứa con trai mà nàng đã ngủ chung từ khi sanh nó ra.
Ba năm mà nàng phải theo học trong trường dài vô tận. Ngày lại ngày, tâm hồn của nàng bay bổng về mái nhà xưa, về hai đứa con. Nàng không hề tập trung được tinh thần vào việc học. Nhiều người cho nàng ngu đần. Nàng nghe được hai giáo sư nói về nàng. Một người nói:
- Bà ta không học được gì. Điều đó khiến người ta khó chịu khi nghĩ đến sự thông minh và sức học của chồng bà ta. Có những người sanh ra ngu đần và không có cách nào cứu chữa.
Người kia nói với giọng mến tiếc vì bà giáo có cảm tình với nàng.
- Dường như không có cách nào mở mang trí óc bà ta.
Người ta tập hợp nhà trường lại để nghe một nhân vật lỗi lạc diễn thuyết. Người này sẽ thuyết trình về Cách mạng, về Tam dân chủ nghĩa, về tân kỷ nguyên.
Người thiếu phụ ngồi giữa những người khác, lòng se lại vì những lời nghe lóm. Nàng nhìn chung quanh, ngắm các cô bé đang chăm chú nghe diễn thuyết. Các cô học trò lớn - đã quá tuổi lấy chồng - được nàng đặc biệt chú ý. Các cô này học cao hơn nàng rất nhiều năm.
Bây giờ nàng chợt thấy những người đàn bà mà Vương đề cập cũng ở kế bên nàng. Họ đọc và viết nhanh như đàn ông.
Tất cả đều hiểu những lời của diễn giả, còn nàng thì không hiểu một chút gì về những danh từ như “chế độ kinh tế” và nhiều câu khác mà nàng chưa hề nghe. Nàng không dám hỏi vì biết là mình quá dốt.
Bây giờ nàng mới biết chắc các cố gắng của mình thật là vô ích. Nàng sẽ không bao giờ giống được những người đàn bà kia, dù cho nàng cố gắng tận lực. Nàng biết điều khiển ngôi nhà cũ, săn sóc con cái, cha mẹ chồng. Nhưng ở đây người ta đã đòi hỏi những điều quá sức nàng. Nàng phải trở về nhà. Và trong khi giọng nói trong trẻo và to tiếp tục vang lên, người thiếu phụ suy nghĩ sắp đặt chương trình. Nàng quyết định từ bỏ và trong sự từ bỏ đó, nàng tìm thấy con đường đi của nàng.
Nàng tự nhủ “Mình sẽ trở về nhà mình lo cho con và cha mẹ chồng như trước. Mình sẽ năn nỉ ông cụ viết thơ cho chồng nói là ‘Em không thể là hai người đàn bà. Nếu anh muốn một người vợ theo kiểu đó thì xin anh cứ cưới để nàng ở bên cạnh anh, dù điều đó làm em tan nát cõi lòng. Về phần em thì em sẽ ở nhà săn sóc cho cha mẹ và các con’.”
Quyết định đã chọn, nàng cảm thấy một nỗi buồn sâu xa nhưng êm đềm. Nàng có thể chịu dựng nỗi buồn đó hơn là sự tuyệt vọng trước đó.
Buổi diễn thuyết kết thúc, học sinh giải tán. Nàng lên tìm bà hiệu trưởng nói:
- Tôi nghĩ là tôi nên trở về nhà. Quả thật ở đây tôi không học được gì, vì tôi cứ nghĩ mãi về mấy đứa con.
Bà hiệu trưởng có nhiều công việc hơn là để săn sóc một người học trò nên đáp:
- Có lẽ bà nói đúng. Bà nên trở về nhà. Tôi rất tiếc bà không thể ở đây.
Bà hiệu trưởng cười, nhưng nụ cười đó cho thấy là tâm trí bà đang nghĩ về các vấn đề quan trọng hơn.
Nàng gom góp quần áo, cột hành lý lại, trả học phí, bước ra khỏi cổng nhà trường, mua vé tàu về nhà.
Không ai để ý sự vắng mặt của nàng sau hai tháng đến trường vì nàng sống xa cách những kẻ khác.
Chưa hề đi xa một mình, nàng vẫn bình tĩnh tự tin cho nên không ai trông thấy sự bỡ ngỡ.
Đến ngày thứ tư, nàng mở cánh cổng mái nhà xưa. Lúc bấy giờ mọi người ngồi trong vườn mai, ông cụ đang bón phân mấy gốc mai, chuẩn bị cho mùa đông sắp tới.
Người ta nhìn nàng một lúc, không nói một tiếng vì người ta không nghĩ là nàng. Nàng vội vàng giải thích tại sao mình trở về và năn nỉ ông cha chồng:
- Thưa cha, con xin chịu. Con chịu để cho nhà con cưới vợ lẽ theo ý anh ấy muốn. Xin cha cho con ở đây với cha với mẹ, với các con như trước đây. Con không thể học được gì trong cái trường ngoại quốc đó. Con đã cố gắng, nhưng lúc nào con cũng nghĩ về mấy đứa con. Con cứ thắc mắc: “Có ai tấn màn cho mấy đứa nhỏ”. “Thằng bé có ngủ ngon khi thiếu mẹ bên cạnh”. “Nó có lăn trở hay chăng? Và chị nó có thức giấc để đắp chăn cho nó hay không? Nhưng chị nó cũng chỉ là một con bé tí xíu!”. Không! Con vẫn là con. Con chỉ thông minh và hữu dụng trong gia đình này mà thôi, bên cạnh cha mẹ và các con. Con ở ngoài kia, con là một kẻ vụng về đần độn. Cha không đoán được điều đó vì cha không trông thấy. Những đứa bé nhứt trong trường con hiểu rành hơn con về những lời người ta giảng dạy... Anh Vương nói đúng. Con chỉ thích hợp với ngôi nhà này, bên cạnh cha mẹ và hai đứa bé. Con không thể ra đi một lần nữa.
Nàng vừa khóc vừa trình bày mọi việc. Giọng nàng run run, khác hẳn giọng thường ngày. Đôi mày liễu chập chờn trên đôi mắt lo âu.
Đôi vợ chồng già lẳng lặng nhìn nhau. Nhưng hai đứa bé không hiểu tí gì về những lời của mẹ chúng. Chúng nhào tới. Cậu bé kêu lên:
- A ha! Bây giờ chúng con có bánh ăn!
Cô gái cũng mơn trớn mẹ:
- Khi nào mẹ trở vô trường, mẹ cho con theo với. Con muốn được đi học.
Ông cụ hoàn toàn thông cảm nàng dâu. Ông vuốt râu, thở dài:
- Cha hiểu những chuyện của con. Cha sẽ viết thơ cho thằng Vương kể hết tất cả và chúng ta chờ xem nó có đổi ý?
Nói xong ông trở về phòng, tiếp tục thở dài.
Bà cụ im lặng, nhưng nắm tay con dâu, vuốt ve rồi cúi xuống nói nhỏ vào tai: “Đừng lo nghĩ gì. Để mẹ nói với nó khi nó trở về đây”.
Nàng chỉ đáp bằng một nụ cười héo hắt.
Nàng biết rõ tánh bướng bỉnh của chồng sẽ không bao giờ chịu nghe ai, dù là những lời của người mẹ.
Nhưng nàng tìm lại được nguồn vui trong các bổn phận đối với gia đình. Có khi trong đêm nàng giựt mình hoảng sợ vì thấy trở lại trường giữa những dãy giường giống hệt như nhau. Khi đứa bé lăn trở hoặc đạp vào người nàng, người mẹ tỉnh giấc mừng thầm là mình chiêm bao.
Trong những ngày đầu, nàng thấy trong nhà có nhiều xao lãng cần phải chỉnh đốn. Người ta đốt quá nhiều củi trong bếp vì đã để nồi niêu đóng lọ quá dầy. Các ngọn đèn không được lau chùi, và nhiều việc khác mà đám gia nhân không chú ý. Bà cụ cũng không trông thấy những sơ xuất này vì từ lâu bà không còn trông nom công việc nhà. Người vợ trẻ bắt tay vào việc cho đến khi trong nhà lấy lại vẻ trang trọng thường lệ.
Không ai nhắc tới Vương và cũng không ai đề cập đến việc nàng phải đi. Một đôi khi nàng đề cập tới là chỉ để nói với hai con hay để lo việc thu xếp trong gia đình.
Nhiều lúc ông cụ trông thấy vẻ sợ hãi của nàng dâu mãi khi ông đột ngột phá bầu không khí im lặng. Nàng chỉ trấn tĩnh lại sau khi hiểu ông cụ nói về vấn đề gì.
Ông cụ bảo vợ:
- Không bao giờ để vợ thằng Vương đi như trước. Bà có thấy nó trở về đây gầy ốm và run rẩy. Nó đau khổ nhiều lắm rồi.
Ông cụ không quở trách con dâu và nóng lòng chờ đợi bức thơ của Vương. Thật ra thì ông cụ chưa bảo cho Vương biết là con dâu ông chịu cho chồng cưới vợ lẽ. Ông giải thích cho con trai ông hiểu tình thế theo ý ông như thế này: “Vợ con rất đảm đang trong nhà nhưng không thể hòa mình trong sự thay đổi mới nếu phải ra ở chung với con. Trước những người đàn bà có học, nàng sẽ mai một”.
“Không ai chú ý đến và biết, giá trị của nó. Con phải để nó ở nhà với cha mẹ. Con trở về đây khi nào con thích và đưa bạn bè về chơi”.
Bức thơ ông cụ chỉ có thể và ông cụ chờ thơ trả lời của con.
Bức thơ đến rất nhanh, lời lẽ rất tử tế, Vương không biểu lộ một cách tàn nhẫn nào. Chàng viết: “Cha mẹ đã cư xử hết sức tử tế và thông cảm với vợ con. Con cũng xin cha mẹ cư xử như thế với con. Thưa cha con mới mười tám tuổi khi cha cưới vợ cho con, một người con gái mà con không hề biết. Vào tuổi đó, con lấy bất cứ người đàn bà nào. Và con thấy hơi thỏa mãn với người con gái mà cha chọn cho con. Con sẽ hài lòng về nàng nếu con theo cha đi vào ngành thương mãi, không rời khỏi mái nhà xưa. Trong gia đình chúng ta, đàn ông không có thói quen cưới nhiều vợ. Con sẽ ở với vợ con nếu con ở mãi trong nhà, cũng như mẹ và cha cùng sống bao nhiêu năm trong niềm vui êm đềm, niềm vui càng phát triển thêm với tuổi già. Nhưng con đã đi xa, với sự đồng ý của cha mẹ. Cha mẹ đã đặt tham vọng nơi con và con đã bước vào một cuộc sống khác, cách xa thành phố êm đềm mà cha mẹ đang sống như trăng sao cách xa mặt đất.
Con cần một người bạn để chia nếp sống mới, con muốn có một người bạn để nói chuyện. Con không có gì để nói về người vợ mà cha đã chọn cho con. Giữa chúng con không có một điều thích hợp nào. Người tớ gái mà con mướn cũng làm y những công việc mà vợ con làm. Con muốn có một người vợ có học như con, thích ứng với kỷ nguyên mới. Xin cha hãy rộng lượng với con”.
Ông cụ không đọc bức thơ này cho hai người đàn bà nghe. Ông đọc bức thơ ba lần, than thở một mình vì không biết phải xử trí như thế nào.
Sau cùng ông viết thơ cho Vương: “Vợ con chịu cho con cưới vợ khác theo ý còn muốn. Nó vẫn ở đây săn sóc cho cha mẹ như trong thời gian qua”.
Ông cụ tưởng vậy là xong chuyện. Ông không ngờ con trai ông có thể nghĩ khác hơn.
Trong thơ gởi cho cha, Vương nói:
Trong thời buổi này, một người đàn ông không thể cưới hơn một người vợ. Như vậy là không thích hợp mà cũng không hợp pháp. Người đàn bà tân tiến không chịu làm vợ lẽ. Như vậy, con phải được ly dị với vợ con, để chỉ có một người vợ mà thôi. Nhưng con sẽ hết sức rộng rãi, con sẽ bồi thường xứng đáng cho vợ con. Con sẽ không để cho nàng thiếu thốn một điều gì. Con không muốn nàng đau khổ.
Ông cụ không giữ được bình tĩnh khi đọc những dòng chữ ấy. Ông trợn tròn xoe đôi mắt và đọc lại để biết chắc là ông đã hiểu thật sự nội dung.
Thế rồi trong cơn phẫn nộ, ông viết thơ cho Vương.
Thời buổi này thật là lạ đời, người đàn ông có quyền bỏ vợ, khiến cho người vợ đó mất hết tất cả. Không ai tôn trọng, không chỗ dung thân! Thời xưa còn tốt hơn nhiều. Ngày xưa người vợ không sợ mất chồng. Nàng không mất mát gì cả và sống đến mãn đời trong nhà. Những gì con đã viết cho cha, thật không xứng đáng với con.
Ông cụ vuốt râu nóng lòng chờ đợi thơ của Vương. Trong thời gian đó cụ gầy ốm thêm, vẻ mặt hốc hác. Ông chỉ tìm sự an ủi trong khói thuốc. Ông hút nhiều hơn bao giờ hết.
Khi bức thơ của Vương tới, ông bước vô phòng xé phong bì nhưng khi ông cầm bức thơ, ông cảm thấy thấy không đủ sức đọc được vì quá xúc động. Ông choáng váng, phải ôm đầu một lúc mới khỏi.
Nàng dâu rón rén bước vào phòng, thấy ông cụ đang mệt, rót cho ông một chén trà. Mặt nàng tái xanh, nàng không hỏi về bức thơ đang nằm trên án thơ nhưng nàng đoán biết xuất xứ. Nàng không hỏi gì, chỉ kiên nhẫn chờ đợi những gì sẽ xảy ra.
Lần này bức thơ rất vắn tắt và rõ ràng:
“Con thấy rõ là cha không thể hiểu. Con thấy cần phải thẳng thắn với nhau. Con đã chuẩn bị xin ly dị và con đã hứa hôn với một cô gái cùng du học một trường với con ở ngoại quốc. Nàng cũng được cha mẹ hứa gả cho một kẻ mà nàng không hề biết. Nhưng nàng can đảm hơn nên đã cắt đứt liên hệ. Nàng và con rất xứng đôi vừa lứa. Con tỏ ra rộng rãi đối với vợ con, nhưng chúng con không thể xem là vợ chồng với nhau được. Xin cha đừng quở mắng con. Cha nên nhớ là con đã cố gắng giúp vợ con nhiều. Con đã đưa nàng vào trường. Con không chịu trách nhiệm về việc nàng bỏ trường ra về. Nếu nàng chịu khó học hỏi, có lẽ nàng sẽ đạt được kết quả. Con không trách con điều gì hết. Rất nhiều người xử sự như thế vào thời buổi này. Người phụ nữ ngày nay cũng gặp khó khăn. Những người đàn ông mà họ có thể lấy làm chồng - những người cùng thế hệ với họ, cùng một học vấn như họ - những người đó đều có vợ vào lúc thiếu thời, cũng như con. Phải có người chịu đau khổ. Nhưng những người đàn bà có học phải lãnh nhiệm vụ nội trợ và làm mẹ, như thế có lợi cho đất nước và cho con cái... Con nói lại lần nữa là con rất rộng rãi với vợ con. Con sẽ cho nàng tất cả những gì mà cha thấy cần thiết. Nhưng mà nàng phải ra khỏi nhà, sống nơi khác vì nàng không còn quyền sống ở nhà con.. Nếu còn ở nhà nàng sẽ làm phiền con, khi con đưa vợ sắp cưới của con về thăm cha mẹ”.
Nàng dâu hãy còn đứng trong phòng. Nàng hy vọng ông cụ sẽ nói về bức thơ. Nhưng ông cụ ra dấu cho nàng đi ra. Ông không muốn nói gì. Miệng ông khô lại. Ông yếu hẳn. Ông ngồi thật lâu như thế, uống từng ngụm trà nóng mà con dâu rót vào chén trước khi đi ra.
Ông cụ mài mực cẩn thận, lấy bút mực viết:
“Con Vương, nếu vào thời của cha, và nếu mỗi quan hệ cha con ta là mối quan hệ giữa cha và ông thân của cha thì khi cha ra lịnh, con phải vâng lời. Nhưng bây giờ thì cha không làm được như thế nữa vì con đã không còn nghe lời cha. Bây giờ chính cha lại phải vâng lời con! Ngày nay con cái làm theo ý chúng nó, thành thử làm cha mẹ không ra lịnh với ai hết. Cha chỉ nói với con điều này. Nếu công việc phải giải quyết theo ý con thì ít ra con cũng phải để vợ con mà cha mẹ; xem như con ruột sống với cha mẹ. Dù nó không còn là vợ con đi nữa, nó cũng là con của cha mẹ. Cha mẹ không bao giờ thay đổi đối với nó. Người vợ mà con sắp cưới rất xa lạ với cha mẹ. Cha mẹ sẽ thấy khó chịu với sự hiện diện của nó. Những người đàn bà học thức, nhanh nhẹn hoạt bát mà cha đã thấy ở Thủ đô, những cô bạn của con, và những người vợ của bạn con, đã làm cho cha sợ. Cha không quen với loại đàn bà đó. Con nên để cho con dâu của cha mẹ ở đây, bên cạnh cha mẹ và hai đứa nhỏ. Con không được cho vợ con biết là con đã ly dị nó. Riêng về cha thì cha không đá động đến vấn đề đó, và ở đây, trong ngôi nhà yên tĩnh này, nó sẽ tiếp tục không biết đến những hành động của con”.
Khi viết và gởi bức thơ rồi, ông cụ thấy nhẹ nhàng thơ thái. Nhưng ông thấy cần nói một phần sự việc cho nàng dâu biết. Một đêm, khi hai đứa bé đã ngủ ông cụ cho mời nàng dâu tới gian phòng chánh trong nhà.
Nàng dâu đến, và theo thường lệ là châm trà nóng cho cha mẹ chồng.
Ông cụ nói:
- Này con, cha đã viết thơ cho thằng Vương. Thơ từ hai bên qua lại giống như chim bay từ Bắc xuống Nam và từ Nam lên Bắc. Sau cùng, nó chịu chấp nhận sự rộng rãi của con. Nó sẽ cưới vợ lẽ, nhưng con ở đây, tự do trong ngôi nhà này. Và chúng ta sẽ tiếp tục sống như ngày trước, chỉ có một điều khác là thằng Vương sẽ ít về đây vì nó sống riêng ở nơi khác.
Bấy giờ nàng dâu mới khóc, lần đầu tiên nàng khóc trước mặt cha mẹ chồng:
- Con đã xử sự quá kém, không xứng đáng với lòng thương yêu của cha mẹ. Vì con mà cha mẹ xa cách người con yêu quý!
Bà cụ mở to đôi mắt ra. Bà chưa bao giờ thấy con dâu khóc trong bao nhiêu năm qua, dù trong lúc con nàng bịnh chí tử.
Bà cụ xúc động kêu lên:
- Để mẹ nói với thằng Vương cho. Mẹ nhứt định không cho nó cãi lịnh cha mẹ.
Nhưng ông cụ lắc đầu, ôn tồn nói:
- Không. Không ai có lỗi hết. Con không có gì đáng khiển trách. Con đã ăn ở đúng phép dâu con. Thằng Vương cũng không có lỗi gì, nó cũng rộng lượng như ngày xưa.
Ông cụ đưa bàn tay tái xanh lên vuốt chòm râu bạc, hơi do dự một lúc:
- Cha không thể quở trách ai... Vào thời buổi kỳ lạ này, cái gì cũng xáo trộn. Một người có vợ hoàn toàn mà vẫn thấy là chưa đầy đủ hạnh phúc!
Bà cụ bướng bỉnh:
- Đó là do người ta coi thường thần thánh. Nếu người ra biết tôn trọng...
Ông cụ nhắm mắt lại, chờ cho bà cụ nói dứt để tiếp tục nói nốt nghĩ của ông:
- Nhưng con vẫn có thể ở đây, vì đây là nhà của con. Chúng ta tiếp tục sống như cũ. Chúng ta sẽ xem hoa nở, chúng ta sẽ vui với mấy đứa nhỏ. Vậy là chúng ta cũng có hạnh phúc...
Ông cụ cố an ủi bà cụ và con dâu, nhưng cuộc sống không như ông nghĩ.
Sáu ngày sau, khi cả nhà dùng cơm tối thì có tiếng động bất thường ngoài cổng. Kế nghe tiếng người nhà kêu lên:
- Cậu đã về!
Mọi người ngẩng đầu lên. Vương đứng trước mặt họ. Chàng gầy đi, mình đầy bụi và có vẻ mệt.
Vương nói với cha mẹ bằng vẻ không được tự nhiên, hối hả và dường như không chú trọng tới ai khác. Người ta có cảm tưởng là chàng bị bắt buộc phải hoàn tất một công việc khó khăn.
Một người gia nhân mang đến một thau nước nóng. Vương nhúng khăn lông vào, vắt ráo rồi lau mặt, lau tay. Sau đó chàng ngồi vào bàn, cầm đũa ăn ngay.
Người vợ trẻ vội vàng mang các thức ăn nóng lên. Chàng gật đầu cám ơn và sau khi ăn xong một chén, chàng không bao giờ ăn nhiều. Vương quay lại nói chuyện với song thân. Chàng nói thật nhanh không kịp thở như trả bài thuộc lòng.
Vương nói với ông cụ:
- Thưa cha, con phải trở về thủ đô ngay trong đêm nay. Vì vậy con đi ngay vào vấn đề. Việc thư từ qua lại rất lâu. Vấn đề đã đặt ra, không thể nào kéo dài. Đơn xin ly dị đã thảo xong, phải có chữ ký của hai đương sự. Hôn lễ thì con sẽ cử hành vào ngày mồng sáu tháng tới. Tốt hơn là vợ con nên đến nhà một người bà con nào đó mà tá túc. Nếu không con khó mà đưa vợ mới cưới của con về đây. Con muốn giới thiệu vợ mới của con với cha mẹ. Nếu thấy nó rồi, cha mẹ sẽ hiểu.
Nàng dâu lắng tai nghe. Không ai nói cho nàng biết về vụ ly dị. Khi nghe Vương nói, nàng quay mặt tái xanh về phía chồng bảo:
- Nhưng tôi không biết phải đi đâu! Tôi không có một người bà con nào để tá túc với hai đứa con!
Vương không nhìn nàng. Đến khi nàng nhắc đến hai đứa con. Vương ngẩng đầu lên nói với vẻ ngạc nhiên:
- Cố nhiên là tôi không yêu cầu cô mang hai đứa. Tôi có trách nhiệm lo cho chúng. Sau đám cưới tôi sẽ bắt chúng nó về để chúng nó được vợ tôi trông nom dạy dỗ.
Khi thấy vẻ mặt ngẩn ngơ của người vợ, Vương kêu lên giận dữ:
- Đừng đổ lỗi cho tôi! Tôi đã cố tìm cách giúp cô, nhưng cô đã làm ngơ!
Người thiếu phụ tiếp tục nhìn sửng sốt vào mặt Vương trong khi chàng nói. Nhưng nàng không hiểu gì cả và cũng không thấy gì cả. Nàng toan nói hai lần, đôi mày nhíu lại, nhưng không thốt ra được một lời nào.
Ông cụ nhìn xuống đất, vuốt râu, mặt ông xám lại như tro. Bà cụ vụt khóc nỉ non.
Nhưng Vương vẫn bận tâm đến mấy đứa nhỏ:
- Con có muốn theo ba ra thủ đô không?
Cậu bé nhảy dựng lên, kêu lên mừng rỡ:
- Con sẽ được đi tàu! Con sẽ được đi tàu.
Con bé lo ngại hỏi cha:
- Con cũng đi nữa, phải không cha?
- Cố nhiên!
Cô bé sướng đỏ mặt, quay về phía mẹ:
- Con sẽ đi học. Lúc nào con cũng muốn tới trường.
Không ai chú ý đến người thiếu phụ. Cũng không ai quan tâm đến những cảm nghĩ của nàng. Nhưng nếu có ai nhìn nàng thì họ sẽ thấy mặt nàng tái xanh hơn thường lệ. Sự im lặng của nàng vốn quá quen thuộc nên không ai cho là bất thường. Không ai thấy toàn thân nàng run rẩy. Trong gia đình, chỉ có ông cụ là người thông cảm với tình cảnh bi đát của con dâu, nhưng lúc bấy giờ ông bận nhìn xuống đất và vuốt râu không dám nhìn nàng.
Vương hớn hở trước sự vui tươi của cậu bé, nói:
- Rồi con sẽ lên xe lửa, rồi con sẽ thấy những đường phố thật rộng thật lớn, máy bay, xe hơi, tất cả những thứ mà con chưa hề thấy, những thứ không có ở đây.
Cậu bé quá kích thích chạy vòng tròn, kêu ầm lên:
- Chừng nào mình đi? Con muốn đi ngay. Con muốn đi ngay.
Đôi mắt người mẹ trẻ hết nhìn cậu bé đến nhìn đứa con gái. Cô bé bắt gặp đôi mắt của mẹ mỉm cười một cách mơ màng, lặp lại câu nói khi nãy:
- Lúc nào con cũng muốn đi học, mẹ ạ!
Người thiếu phụ không chịu đựng được nữa. Có phản đối cũng vô ích. Nét mặt xám tro của ông cụ, nước mắt đầm đìa của bà cụ nói lên cho nàng biết là lời nói trở nên vô ích.
Vương nắm tay cậu bé khi nó chạy qua mặt chàng, siết nó vào ngực, hít hơi thở thơm ngát của nó và cậu bé thích thú được cha cưng, nhìn mẹ với vẻ xấc láo.
Vương áp má vào mặt con, nghiêm nghị bảo thiếu phụ:
- Cố nhiên là cô sẽ không thiếu một một món gì. Tôi sẽ luôn luôn lo cho cô có thật nhiều tiền.
Nàng nhìn Vương với tất cả kiêu hãnh, nhìn thẳng vào mặt chàng, nhưng Vương mãi âu yếm với con, không trông thấy.
Với tuổi thơ vô tư, hai đứa bé chỉ nghĩ đến cha.
Thế rồi mẹ chúng âm thầm lén đi ra xa chúng nó.
Nàng bước vào phòng nơi mà nàng đã ngủ giữa hai con trong bao nhiêu năm. Nàng nặng nề buông mình xuống giường.
Trong khoảnh khắc nàng chợt nhận ra cuộc đời của nàng, nhận ra tương lai của nàng, và nàng hiểu ngay những gì mà nàng phải làm cho tất cả những người thân. Phải, cho Vương, cho hai đứa con mà cũng là cho nàng nữa.
Nàng đứng lên, mở hộc tủ, lấy một thắt lưng lụa mà nàng chỉ dùng trong những ngày lễ. Thắt lưng màu trắng, dịu nhưng thật chắc.
Nàng đứng lên chiếc giường, hai bàn tay cương quyết thắt một vòng tròn ở cuối thắt lưng, cho vào cổ và leo lên cột đầu dây kia vào kèo nhà ngay trên giường.
Tiếng kêu vui vẻ của cậu bé từ phòng ngoài vọng vào: “Con sẽ lên phi cơ”.
Ông cụ nói thật khẽ, buồn thảm, van lơn, nhưng nàng không nghe rõ. Nàng không lắng nghe nữa. Nàng cột chặt thắt lưng, nhìn chung quanh gian phòng thân yêu một lần chót rồi cắn răng, nhắm mắt...
Bình tĩnh và cương quyết, nàng đưa một chân ra ngoài giường rồi nhảy vào quãng không. Chiếc thắt lưng giựt mạnh và siết chặt.
Trong một giây đó, người thiếu phụ còn nhớ một việc cuối cùng cần phải làm không cho hai bàn tay tìm một chỗ tựa. Nàng khoanh tay trước ngực trong một cử động co giựt.
Máu chạy nhanh và mạnh đập vào hai tai.
Tiếng cậu bé tới nàng, nghe chừng như thật xa xôi. Nó cười và lặp lại không ngớt: “Con sẽ lên phi cơ”.
Nhưng tiếng động nho nhỏ đó cũng tàn lụn. Nàng không nghe gì nữa. Hai bàn tay nàng rơi thõng xuống.
➖➖➖