
Pearl S. Buck
(Giải Nobel Văn học 1938)
-:-
Bà mẹ già ngồi vào bàn ăn với người con trai, con dâu và hai đứa cháu nội.
Bữa ăn trưa đã được chị bếp dọn. Bà mẹ ngồi yên, hai bàn tay đặt lên đùi, nhìn từng món một khi chị bếp đặt lên mặt bàn, bà cố gắng giữ vẻ thản nhiên, không nói năng gì khi thấy một món ăn bà thích nhất. Bà biết người ta không nấu nướng món ăn đó cho bà, mà đó chỉ là một chuyện tình cờ; con trai và con dâu bà thường bảo bà là họ không thể ăn được các món ăn mà bà thích vì đó là những món ăn quê mùa. Cho nên có món đậu nấu tiêu hôm nay không phải là vì bà thích món này.
Khi nhìn dĩa ăn mình thích, nước miếng tự nhiên trào ra. Bà cụ rất đói. Bà muốn cầm đũa gắp món đó cho vào chén cơm người bếp đặt trước mặt bà. Nhưng người ta đã bảo bà không được làm thế.
Phải, trong bốn năm sống với con trai và con dâu bà đã học được nhiều việc. Cho nên bà chờ đợi một cách kiên nhẫn cho đến khi con dâu chánh thức mời khi bữa ăn dọn xong:
- Mời mẹ cầm đũa.
Tuy nhiên khi con dâu đưa các món ăn cho bà mẹ gắp, nàng cố cho thấy là mỗi dĩa đều có những đôi đũa riêng, và nàng sẵn sàng để nhắc nhở bà mẹ chồng nếu bà cụ thọc đôi đũa của bà vào các tô, các dĩa thức ăn.
Thoạt tiên bà cụ lúng túng về việc dùng đũa riêng để gắp. Nhưng về sau bà cũng quen đi. Dù vậy bà vẫn thắc mắc vì suốt cuộc đời con gái rồi đến làm vợ nhà nông; bà không hề bị ai chê cười khi dùng đũa của mình gắp các thức ăn. Chỉ có con trai và con dâu của bà là hai người đã nghĩ và làm khác hơn người ta. Cả hai đều du học ở ngoại quốc về, có lẽ dân chúng ở những xứ đó còn lạc hậu, còn ăn dơ ở dấy cho nên những con trai và con dâu của bà la hoảng lên ngày mới về khi chúng thấy bà cẩn thận liếm đôi đũa thật sạch trước khi thọc vào dĩa thức ăn để gắp.
Ban đầu khi nghe la, bà mẹ nhìn lên một cách ngơ ngác, đôi đũa còn đưa ra phía trước, ngay trên đĩa thức ăn. Bà hỏi:
- Cái gì vậy?
Bà cụ tưởng là có một vật gì trong dĩa đó, chẳng hạn như một sợi tóc hay một cây tăm.
Nhưng con trai bà kêu lên:
- Mẹ phải dùng đũa công cộng để gắp. Mẹ không thọc đũa riêng của mẹ, đôi đũa mà mẹ đã ngậm trong miệng.
Bà mẹ bất bình lắm, nói với vẻ giận dỗi:
- Con sợ mẹ mắc bệnh truyền nhiễm hay sao chớ?
Khi con và dâu cố giải thích cho bà biết là có những con sâu thật nhỏ, nhỏ đến mẳt thường không thể trông thấy, nhưng có thể đi từ người này qua người khác, mang theo các chứng bịnh, bà mẹ ngồi cứng ngắc, hoang mang, bán tin bán nghi. Bà lẩm bẩm:
- Mẹ không tin là mẹ có những thứ đó, mẹ không hề thấy sâu trong mình mẹ bao giờ.
Con và dâu lại cố giải thích thêm:
- Vi trùng nhỏ lắm, làm sao thấy được!
Bà mẹ liền kêu lên:
- Nếu vậy làm sao hai con biết là mẹ có những con vật đó?
Bà mẹ nghĩ là mình đã thắng nhưng cậu con trai nói với giọng cương quyết như cậu là trưởng gia đình:
- Thôi không phải nói thêm về vấn đề đó nữa! Con không muốn có những lối ăn uống dơ bẩn như thế trong nhà này.
Bà mẹ già xót xa lắm. Bà ngồi im lặng và chỉ ăn cơm lạt, không thò đũa gắp các món ăn, mặc dầu bà thấy thèm thịt cá, rau cải.
Nhờ trời bà ăn được và khi về già, sở thích độc nhứt của bà là hai bữa cơm. Dù vậy, bà cũng phải tuân theo lệnh con.
Có lần bà đã bị con dâu làm dữ, cũng vì chuyện ăn uống. Chị bếp mang lên bàn ăn một tô súp dưa hường, một món ăn mà bà mẹ ưa thích. Vừa trông thấy là bà vui mừng hớn hở.
Bà quên giữ ý nên thọc muỗng sành vào húp một cách thích thú. Bà vừa thọc muỗng lẫn nữa thì con dâu đứng lên, bưng tô canh đi ngay lại cửa sổ đổ hắt ra ngoài sân. Vậy là mất toi đi tô canh ngon.
Bà me kêu lên:
- Coi, tại sao làm kỳ vậy?
Tức thì con dâu bĩu môi, đỏng đảnh:
- Chúng tôi không thể ăn đồ thừa!
Bà mẹ giận lắm. Lúc ấy bà còn đủ can đảm để nổi giận. Bà kêu lên:
- Tao không bỏ thuốc độc vào đó đâu mà bây sợ!
Nhưng con dâu tàn nhẫn:
- Cả đời mẹ không hề dùng tăm xỉa răng!
Bà mẹ đáp:
- Tao xúc miệng mỗi ngày ba lần, sáng sớm khi thức dậy và hai lần sau hai bữa cơm. Như vậy chưa đủ sao? Cả đời tao chưa nghe ai chê...
Bây giờ người con trai mới xen vào, giọng trịch thượng:
- Mẹ đừng nói về đời của mẹ! Nó xưa rồi! Ngày nay, phải đổi mới hết tất cả để người ta không còn cho đất nước này dã man nữa.
Bà mẹ không hiểu về lời lẽ của cậu con trai.
Ban đầu, khi nghe con nói, bà cụ cười khì. Bà nghĩ là con bà nghe người ta nói rồi bắt chước nói theo chứ không hiểu ý nghĩa của câu đó. Nhưng bà thấy vẻ mặt lạnh lùng và nghiêm nghị của con khi bà cười, và sự tôn kính mà khách khứa dành cho con bà, bà mẹ nín cười ngay. Thật ra thì khó cười một mình trước gương mặt nghiêm nghị của những kẻ khác.
Thế rồi về sau bà mẹ học được nhiều điều, chẳng hạn như ăn uống một cách lặng lẽ và chờ đợi người ta đem cơm và thức ăn đến cho mình.
Sau khi ăn xong chén cơm, bà lặng lẽ đứng lên đi về phòng. Nhưng đến trước cửa phòng, bà đứng lại. Thật ra thì bà hãy còn đói. Là nông dân, bà thường ăn ít nhứt là ba chén cơm. Bây giờ chỉ ăn có mỗi một chén, bà thấy lưng lửng và không đủ sức. Ở quê, người ta ăn chén to, loại chén sành. Còn bây giờ con bà dùng chén kiểu, loại nhỏ mà dân ở chợ thích dùng. Cho nên bà hãy còn đói. Nhưng bà không dám ăn thật no vì bà sợ con trai của bà nửa đùa nửa thật:
- Mẹ ăn sao giống nhà nông quá! Con chưa thấy một mệnh phụ nào ăn như mẹ. Mà mẹ có làm công lên việc xuống gì mà ăn nhiều thế.
Đó là cậu con nói đùa, bà mẹ biết rõ điều đó. Bà biết nó không tiếc gì với bà. Bởi vì tiền lương dạy học của con bà mỗi tháng nhiều bằng cha mẹ cậu cày cấy trong một năm.
Không, con bà không tiếc gì với bà. Nó chỉ xấu hổ vì bà thôi, khi con bà mời khách tới nhà ăn tiệc, chúng luôn luôn nói khéo để bà ăn riêng một mình trong phòng bà. Dù vậy, ít ra bà cũng ăn uống được tự do hơn.
Còn bây giờ đây, bà hãy còn đói. Bà âm thầm trở ra, vòng cửa sau, đi ngang qua sân gạch, xuống nhà bếp.
Bà mỉm cười với đám bồi bếp rồi lấy một chén xúc đầy cơm trong nồi gần đấy. Bà đến bên bàn, nơi thức ăn dành cho bồi bếp. Dĩa đậu nấu với tiêu hãy còn đó. Nhưng bà không dám động tới vì hãy còn ít, và đám bồi bếp không muốn bà ăn bớt khẩu phần của họ. Bà đành lấy một ít cải bắp xào vì thứ này còn dư nhiều.
Rồi bà trở về phòng, không dám ngó đám bồi bếp và sợ đụng đầu con trai hay con dâu. Về đám bồi bếp, bà biết là chúng không muốn bà động đến phần ăn của họ, nhưng chúng thương hại bà cho nên dễ dãi với bà. Mặc dầu thích chế nhạo bà, chúng vẫn ngấm ngầm binh bà trước thái độ xấc láo của bà chủ.
Về phòng, bà nhẹ rón rén đóng cửa gài then lại rồi ngồi xuống ăn ngon lành. Bà ăn ngấu nghiến đến hột cuối cùng và đứng lên, cẩn thận lau chén đũa ngay trong phòng để tránh cho bồi bếp khỏi nhọc mệt thêm.
Ăn hết chén cơm, bà đến một tủ nhỏ bằng thiếc đặt trên bàn, mở lấy một ít cơm nguội mà bà để dành từ hôm qua. Bà ăn nốt nắm cơm đó, nhai thật kỹ. Bà có thói quen cất những thức ăn mà bà có thể lấy được vào trong tủ thiếc đề phòng khi đói giữa hai bữa ăn.
Ăn xong, bà ngồi lấy móc tai xỉa răng.
Một lúc sau, bà đứng lên, mở cửa nhìn ra ngoài. Bà muốn gặp hai đứa cháu nội. Bà không dám gọi chúng trước mặt con dâu vì con dâu không muốn cho chúng vào phòng bà nội chúng. Khi bà cụ phàn nàn thì con dâu nói:
- Mẹ không bao giờ mở cửa sổ. Phòng mẹ kín mít, không khí trong phòng không tốt cho mấy đứa nhỏ. Mẹ lại giữ áo quần cũ kỹ, ẩm nước. Chuột bọ đầy phòng vì mẹ có tật tích trữ đồ ăn.
Bà mẹ già nói:
- Quần áo đó là vết tích của ba xấp nhỏ. Lại nữa, quần áo đó hãy còn tốt, không nỡ vứt đi. Quần áo cũng như thức ăn, không nỡ vứt đi. Nếu con mà già như mẹ thì con sẽ biết cái nghèo tới bất thình lình, mình không thể ngờ được.
Nhưng con dâu cười lạt, nụ cười lạnh như tiền. Và mỗi khi thấy hai đứa bé mò đến phòng bà nội chúng thì nàng dâu ra lịnh cho chị vú đến bắt đi.
Cho nên bà cụ phải mở cánh cửa và chờ đợi hai đứa cháu nội lén lút tới chơi với bà. Mà hai đứa bé dễ thương, hấp dẫn làm sao! Chúng nó mập và thơm lạ lùng. Bà cụ thích chúi mũi vào cổ chúng khiến chúng nhột và cười ré lên. Khi con dâu sanh hai đứa bé ra, bà cụ lấy làm vui sướng. Bà yêu trẻ con. Mặc dầu thuở trước bà lấy chồng nghèo, làm không đủ ăn, nhưng lúc nào bà cũng mở rộng hai tay đón tiếp tất cả trẻ con tới nhà bà. Bà nuôi hết tất cả những đứa trẻ em nhà nghèo đến tá túc, trừ một năm thất mùa, nhà không đủ ăn, bà mẹ chồng phải ra lịnh cho bà không được nuôi các trẻ em nghèo. Năm ấy có rất nhiều người chết vì nạn đói.
Trong ba người con của bà, người con trai bà đang sống chung là người con duy nhứt còn lại. Người con trưởng nam chết vì bệnh thiên thời cách đây tám năm.
Người con thứ ba là một cô gái lấy chồng nghèo ở trong làng và không chắc thằng rể chịu rước bà về ở chung trong nhà.
Do đó, bà cụ chỉ còn có một người con trai duy nhứt. Nhưng bù lại, người con trai đó được bà và chồng bà xem là đứa con đẹp nhứt nhà.
Ngay từ lúc còn bé, nó đã tỏ ra khéo léo và cứng đầu hơn hết. Hai vợ chồng bà thường bảo nhau là phải cho đứa bé học đến nơi đến chốn để nó trở nên nhà thông thái.
Khi cậu bé lên mười, cha cậu đưa cậu đến trường của người ngoại quốc ở gần làng cho cậu ăn học. Cậu bé học tại đó trong mười năm. Vì trường dạy giỏi và học phí nhẹ nên hai vợ chồng cứ để cậu bé học ở đó, không quan tâm đến việc cậu bé phải theo học một tôn giáo của người ngoại quốc. Nhà trường chu cấp tất cả cho học sinh.
Vào dịp Tết và mấy tháng hè, cậu bé về nhà nghỉ ngơi. Nhưng chỉ một vài năm đầu thôi, còn về sau, cậu không về nhà nữa vì cậu trở nên người kẻ chợ, không thích về nhà quê.
Thế rồi người ngoại quốc lại nhét vào đầu cậu bé ý nghĩ đi ra hải ngoại để tiếp tục học hành. Họ còn giúp cậu một số tiền, nhưng số tiền đó hãy còn chưa đủ. Bà cụ nhớ ngày cậu bé về nhà một cách bất ngờ, cậu ra ngay ngoài đồng giữa lúc hai vợ chồng bà đang cấy mạ, cậu bảo:
- Mẹ ơi, con sắp đi ra nước ngoài để học thêm. Nhà trường cho con một ít tiền, nhưng không đủ. Con muốn xin mẹ và cha giúp thêm cho đủ tiền học. Sau này, cha mẹ già yếu, con sẽ lo cho cha mẹ đầy đủ. Cha mẹ khỏi phải lo ngại.
Ban đầu hai vợ chồng bà hết sức ngạc nhiên về câu chuyện đi học ở nước ngoài. Nhưng sau khi bàn luận với nhiều người trong làng, hai vợ chồng bà nghe người ta bảo: “Có nhiều người đi học ở ngoại quốc và khi trở về, họ lãnh lương rất cao. Nếu hai ông bà cho nó đi học ở nước người, sau này hai ông bà không phải làm lụng khi về già”.
Hai vợ chồng nghe hữu lý liền đồng ý để cho con đi ngoại quốc. Hơn nữa, lúc đó con trai lớn bà hãy còn sống và có một cửa hàng ở tỉnh. Công việc buôn bán cũng khá, đủ sức nuôi tiểu gia đình của nó.
Hai vợ chồng cho cậu bé xuất ngoại, và cũng không tìm cho cậu một cô gái xứng đáng, để hứa hôn trước khi cậu đi như tục lệ bấy giờ. Bởi cậu bé đó có vẻ trí thức và bướng bỉnh, còn hai vợ chồng bà thì quê mùa, ngu dốt, không đủ sức để thuyết phục đứa con hay chữ.
Thế rồi người con của bà đã tự do kết hôn theo kiểu người dân ở chợ, không cần hỏi qua ý kiến cha mẹ. Cậu đã lập gia đình trong khi du học ở ngoại quốc. Đó là một người đàn bà trắng xanh, kiểu cách, chịu khó trải thảm trên gạch treo màn nơi cửa sổ, tắm con mỗi ngày làm như chúng nó dơ bẩn ghê gớm lắm vậy!
Hai năm trước khi cậu quý tử về, chồng bà mất. Một người vạm vỡ như chồng bà chết một cách bất ngờ vào một mùa đông lạnh lẽo. Ông than đau nhức ở ngực và trước khi bà gọi y sĩ tới thì ông chết. Bà phải lo an táng ông, nào quan tài, tang lễ, đủ mọi chi phí. Bà phải bán một ít đất vì tất cả tiền dành dụm được phải gởi ra ngoại quốc cho con ăn học.
Khi chồng nằm xuống, bà mẹ trơ trọi một mình, không đủ sức canh tác tất cả đất đai cho nên bà bán lần bán hồi. Bà kéo về cho ông một áo quan tốt và điều bà hài lòng là mua cho ông một áo mới màu xanh để mặc trước khi tẩm liệm. Chiếc áo đó đẹp hơn tất cả những chiếc áo mà chồng bả đã mặc lúc còn sống.
Mùa thu năm ấy, con trưởng nam bà mất. Vì không có con nên con dâu của bà trở về nhà cha mẹ ruột. Bà cụ chỉ còn có mỗi một đứa con duy nhất. Và khi nó viết thơ về xin thêm tiền, bà bán miếng đất cuối cùng đem tiền đưa cho người ngoại quốc nhờ họ gởi cho con bà.
Có một lần người láng giềng bảo bà cụ:
- Lẽ ra thì bà không nên bán đất vì dù cho con ruột đi nữa, chúng nó sẽ không thương một bà mẹ trắng tay.
Nhưng bà cụ không sờn lòng, bà nói:
- Con tôi là quý tử. Tôi không lo nó đối xử xấu với tôi. Hơn nữa đất này là của nó. Nó đang cần tiền thì tôi bán đất gởi tiền cho nó. Riêng về tôi thì tôi không lo. Bởi vì nó có hứa là sẽ săn sóc bảo bọc cho tôi không thiếu món gì. Chắc chắn là tôi phải có chỗ ở trong nhà của nó.
Vừa nói bà vừa cười vui vẻ vì lúc nào bà cũng tin tưởng nơi lòng hiếu thảo của con bà.
Nhưng bây giờ thì bà thở dài khi nghĩ đến những lời nói ngày xưa của bà. Bây giờ bà đang ở trong nhà con của bà. Ngôi nhà thật đẹp. Khách khứa đến chơi đều khen ngôi nhà cất theo lối ngoại quốc, đẹp ơi là đẹp. Nhà có lầu, và từ dưới lên trên có một thang lầu, nhưng con và dâu để bà ở từng dưới vì bà không đủ sức lên thang lầu, và nếu bà có rán trèo lên đó thì khi trở xuống phải có người dìu bà.
Những khi chúng không muốn ở chung với bà thì vợ chồng con cái rút lên lầu, bỏ bà ở từng dưới một mình.
Bà rất hiểu con trai và con dâu bà. Chúng ngỡ bà già cả, lẩm cẩm không đủ thông minh để hiểu tâm địa của chúng, nhưng mà bà hãy còn sáng suốt để hiểu biết những gì sâu kín nhứt trong lòng chúng.
Bỗng hai đứa nhỏ bước ngang phòng bà cụ. Hai đứa bé vừa thức dậy, mát mẻ, hồng hào. Bà thấy chúng ngồi trên sàn gạch, đùa nghịch với món đồ chơi. Cả hai đều là con gái.
Khi đứa bé thứ hai mới sanh, bà cụ nói với người con:
- Phải được con trai thì hay quá!
Nhưng người con xẵng giọng:
- Chúng con không nghĩ như mẹ. Đời bây giờ con trai con gái cũng y như nhau!
Bà mẹ cười lặng lẽ một mình khi nghĩ đến lời con nói. Phải rồi, nếu mọi người đều sanh con gái thì lấy đàn ông đâu mà nối dõi tông đường?
Phải có con trai con gái đầy đủ mới được. Đồ ngu!
Khi nhìn ra ngoài lần nữa, bà thấy đứa bé nhìn bà. Bà mỉm cười với nó. Phải nhìn nhận hai đứa bé đó xinh nhứt trong đám trẻ con và trong hai đứa nó bà cụ yêu đứa nhỏ hơn. Bà háo hức muốn bế nó vào lòng. Bà muốn chúi mặt già nua, nhăn nheo của bà vào cổ mềm mại thơm tho của con bé. Bà khẽ tặc lưỡi với đứa bé. Nó nhìn bà một cách do dự.
Bà cụ liền nảy ra một sáng kiến. Bà đứng lên, đi về phía mấy cái tủ con bằng thiếc của bà. Bà tìm thấy trong đó một mẩu bánh nhỏ mà bà đã cắt có lẽ cách đó mười ngày. Có một lớp mốc bên ngoài, nhưng bà thổi cho nó bay đi và lấy tay chà sạch. Rồi bà lặng lẽ đưa mẩu bánh đó ra dụ con bé.
Nó nhìn chiếc bánh và đứng lên, tập tễnh bước về phía bà nội. Con bé mới học đi nên bước một cách khó khăn. Nó đưa bàn tay tới trước để với lấy cái bánh. Bà cụ đón lấy đứa cháu nội, trao cho nó cái bánh. Nó ăn một cách trịnh trọng. Bà cụ khép cánh cửa lại, ngồi lên giường, bế cô bé vào lòng, chúi mũi vào cổ nó. Bà nựng nịu cháu trong vòng tay. Chao ôi! Cháu cưng của bà đây! Cháu cưng của bà đây!
Nhưng người ta đã dạy trẻ con ghét bà. Đúng vậy! Đứa bé kia, bị bỏ rơi một mình; đến mét với mẹ nó. Thế rồi bỗng nhiên cánh cửa vụt mở và con dâu đi nhanh vào. Nàng nói rất tử tế, nhưng với giọng lạnh như tiền:
- Thưa mẹ, đến giờ cháu phải ra vườn.
Bỗng thấy một chút bánh dính trên môi đứa bé, nàng dâu kêu lên, quên cả giữ gìn:
- Mẹ cho nó ăn gì vậy?
Bà cụ cố trả lời thật bình tĩnh vì một mẩu bánh nhỏ có hại gì đâu.
- Một miếng bánh nhỏ...
Con dâu vạch miệng đứa nhỏ, kêu lên:
- Bánh hạnh nhân!
Rồi nàng mím môi; không nói thêm một tiếng, bế đứa bé ra ngoài một cách vội vàng khiến nó hoảng sợ khóc ré lên.
Bà mẹ già ngồi xuống, trong lòng hết sức bất bình. Bà tự cho mình không có lỗi lầm gì. Dù vậy, vì quen nhịn nhục trong bốn năm qua, bà có cảm tưởng như mình có làm điều gì sai quấy. Bà ngồi nói lải nhải một mình, trong phòng. Cho cháu một mẩu bánh ngọt đâu có gì đáng tội!
Trong khi nói lẩm bẩm, bà nghe có tiếng động. Trước cửa phòng, đứa cháu lớn hãy còn đứng đó, bả cụ quên câu chuyện lộn xộn vì mẩu bánh vừa qua, mỉm cười và đưa tay ngoắt. Nhưng đứa bé lắc đầu rồi bỏ đi. Bà cụ buông tay xuống thở dài “chúng nó cũng dạy con ghét nội nữa, phải không?” và bà cười như mếu.
Đứa bé ngồi xuống tiếp tục chơi, quay lưng về phía cụ. Thỉnh thoảng nó quay lại, nhìn trộm bà nội nó.
Đêm đó, đứa cháu nhỏ phát bịnh! Không biết có phải vì ăn mẩu bánh nhỏ kia hay không. Con dâu thức sáng đêm săn sóc cho nó. Con trai của bà cụ cũng mất ngủ. Tới sáng, đứa bé đỡ nhiều và ngủ được.
Bà mẹ già hỏi thăm đám bồi bếp, bà thấy nhẹ lo khi hay tin cháu bà đã hết bịnh. Trong đêm, bà thấp thỏm lo sợ vì tiếng động xôn xao trên lầu.
Sau đó, khi vào phòng ăn, bà chỉ gặp người con trai. Bà nói:
- Con bé đỡ rồi phải không? Trẻ con nào lại không có những lúc ươn yếu như vậy! Mẹ nhớ khi con còn bé...
Nhưng người con ngắt lời bà cụ. Bà thấy rõ là cậu ta có việc muốn nói với bà. Mặt cậu tái xanh, có vẻ giận dỗi.
Tự nhiên bà cụ không ăn được nữa. Bà đặt đũa xuống nhìn thẳng vào mặt con. Bà cố nhớ nó là con trai bà, đứa con thứ, bà cũng cố nhớ, khi nó còn là một đứa bé sơ sinh khóc lóc đòi bú. Nhưng bà không thể nghĩ như vậy được. Bà có cảm tưởng là con của bà lúc nào cũng là một nhà trí thức, luôn luôn hãnh diện vì sự học cao hiểu rộng của mình, trịnh trọng trong bộ đồ ngoại quốc và đôi kính gọng vàng đeo trên mũi. Con bà là một người nghiêm khắc, không hề mỉm cười và bà cảm thấy sợ nó một cách tuyệt vọng. Lúc đó, bà muốn con dâu có mặt bên cạnh để nó ngăn chặn con bà lại, không để cho nỏ nói những câu tàn nhẫn, phũ phàng với bà. Nhưng trong phòng ăn chỉ có hai người, hai mẹ con bà. Người con đã cẩn thận cho chị bếp xuống nhà dưới... Nó sẽ làm gì đây? Nó sẽ giết mẹ nó chăng?
Người con nói:
- Con không muốn bất công. Con biết bổn phận của con. Và mẹ có một chỗ ở trong ngôi nhà của con. Nhưng mà nếu mẹ ở đây thì mẹ phải làm như con bảo, mẹ không được nuông chìu hai đứa nhỏ. Con có trách nhiệm với chúng nó. Hôm qua, mặc dầu con đã năn nỉ với mẹ từ lâu, chúng con bảo mẹ đừng bao giờ cho chúng nó những mẩu bánh mốc meo mẹ cất giấu trong phòng, làm như là chúng con bỏ đói mẹ không bằng...
Người con nín lại một lúc để dằn cơn nóng. Rồi tiếp tục nói, giọng lạnh hơn trước:
- Vậy mà mẹ đã cho con bé ăn một món mà ngay lúc tươi tốt chính con cũng không cho nó ăn. Đêm qua nó đã bịnh.
Bà cụ lải nhải:
- Chỉ có một chút xíu bánh mà, dữ hông!
Người con gắt lên:
- Nhưng chúng con yêu cầu mẹ không được cho chúng nó bất cứ món gì!
Bỗng nhiên bà mẹ già khóc òa lên. Bà không chịu đựng được nữa. Bà khóc to lên và kể lể:
- Để tôi đi! Tôi không thể ở đây được! Tôi phải đi....
Người con kiên nhẫn chờ cụ bình tĩnh lại, nói:
- Mẹ nên hiểu biết một chút. Bây giờ mẹ đi đâu? Ai chứa chấp mẹ?
Bà cụ kêu lên một cách giận dỗi:
- Tôi có thể tới nhà con gái tôi. Phải, tôi đi ra khỏi nhà này. Tôi làm thuê làm mướn cho thằng rể tôi. Tôi hãy còn mạnh, tôi có thể lên đồi hái củi, mót lá, đi hốt phân hay trông nom mấy đứa nhỏ, lau nhà, nhóm lửa. Tôi có thể làm lụng kiếm cơm qua ngày!
Nhưng người con cười, cay đắng:
- Mẹ tưởng là con không nghĩ tới chuyện đó? Năm ngoái, con đã viết thơ, chịu tiền cho tụi nó nuôi mẹ. Nói thật mà nghe, vợ con không muốn mẹ ở chung trong nhà, bởi vì mẹ không chịu học hỏi để hòa mình với nếp sống mới. Nhưng nhà tụi nó đông trẻ con không thể rước mẹ về ở chung được.
Khi nghe những lời này, bà mẹ bỗng trở nên im lặng. Trước đây, mỗi khi bà giận con trai hay con dâu, bà thường nói với đám bồi bếp và ngay cả khách khứa hay những người bán dạo là bà còn một đứa con gái có đất vườn ở quê, bà có thể đến ở với nó nếu bà không thích ở đây với con trai và con dâu. Nhưng bây giờ thì bà không còn nói như thế được nữa. Nếu bà nói như vậy, con trai bà sẽ chê cười bà hơn. Vì nó đã chịu gởi tiền cho người ta để tống khứ bà đi, nhưng người ta không nhận. Bà cúi gầm đầu xuống lắng tai nghe người con nói tiếp:
- Má thấy không, vợ con là người có học, là người văn minh, còn mẹ là người quê mùa dốt nát. Con có thể nói sự thật ra đây vì chỉ có hai mẹ con mình trong phòng. Con của chúng con phải được giáo dục theo thời buổi tân tiến. Con muốn như vậy. Nhà của con cũng không thể giống ngôi nhà cũ của mẹ. Bây giờ không ai khạc nhổ tứ tung dưới đất, cũng không cho gà vịt chạy tùm lum vô trong nhà! Con của chúng con không thể ăn vặt những món mà ngày xưa mẹ đã cho con mẹ ăn.
Bà mẹ kêu lên:
- Chính con cũng là con của mẹ.
Nhưng người con lạnh lùng đến độ tàn nhẫn:
- Nhưng con không muốn chỉ còn có ba đứa con trong khi sanh tới bảy lần như mẹ.
Đến đây bà mẹ vươn mình lên trừng mắt nhìn con, giọng nghẹn ngào:
- Trời ơi! Mày buộc tội mẹ mày giết con hả?
Người con không giữ được bình tĩnh nữa, gằn giọng:
- Con buộc tội mẹ về sự ngu dốt và không chịu học hỏi!
Cậu đứng lên vì không còn gì để nói. Cậu sắp sửa bước ra khỏi phòng bỏ bà mẹ lại một mình để ngẫm nghĩ về những lời cay đắng đó. Bà phải nói một câu cho con bà biết phản ứng của bà.
Với giọng run run, bà nói:
- Được rồi! Tao có thể chết cho vừa ý mày với vợ mày. Tao sẽ treo cổ...
Người con quay lưng lại. Cậu nhìn bà mẹ với đôi mắt giận dữ. Cậu thấy rõ nét mặt đau đớn đến cực độ của bà mẹ:
- Mẹ nói như vậy với con! Mẹ dám nói như vậy với con! Mẹ làm liều như vậy là mẹ làm xấu con. Thiên hạ sẽ đồn rùm cả lên là con ăn ở bạc ác để mẹ ruột phải treo cổ chết ngay trong nhà!
Cậu bấm chuông, người tớ gái nhanh nhẹn chạy vào.
Người con cố nói với giọng tự nhiên, vừa lạnh lùng cương quyết:
- Bà cụ cần có một người ở kề cận. Dạo này bà cụ yếu trong mình, đâm ra lẩm cẩm. Chị hãy kiếm cho tôi một người chuyên môn nuôi bịnh ở luôn trong nhà, ở ngay trong phòng bà cụ, ở cả ngày đêm. Tôi trông cậy nơi chị về việc này.
Người tớ cúi đầu lui ra.
Đây không phải lần đầu tiên tôi tớ trong nhà nghe to tiếng. Chúng có thể nghe mà không cần phải áp tai vào lỗ khóa. Chúng biết rõ những việc xảy ra trong ngày. Nhưng người tớ gái hài lòng vì thái độ của ông chủ. Đã nhiều lần chị than phiền với ông chủ và bà chủ là bà cụ còn rắc rối hơn cả hai đứa bé, cho nên phải cần mượn thêm một người chuyên môn săn sóc bà cụ cũng như chị vú lo trông nom hai đứa bé. Khi nghe ông chủ ra lịnh tìm mướn thêm người, chị ta nghĩ ngay đến cô em ăn không ngồi rồi và lấy làm vui vẻ.
Bà mẹ nhìn người tớ gái, than thân trách phận:
- Mình muốn chết phứt cho rồi nhưng người ta cũng không cho mình chết!
Bả lảo đảo đi về phía chị ở như một đứa bé đi tìm sự an ủi của một kẻ khác trong lúc đau khổ ê chề!
Người tớ dìu bà cụ ngồi xuống nghế, nói mấy tiếng an ủi lấy lệ:
- Thôi cụ đừng buồn. Cụ nên nghĩ lại. Cậu nhà là một người con chí hiếu. Cậu lo cho cụ thật hết sức đầy đủ. Chỗ ăn, chỗ ở, quần áo, đâu đó đàng hoàng, cụ còn than vãn gì nữa. Cụ rất có phước vì có một người con hiếu. Ai cũng bảo như vậy.
➖➖➖