Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 225 đăng ngày 2024-02-03
***
Tự truyện
Tác giả: Hoàng Thị Mỹ Trang

-:-


Trời đã khuya lắm rồi nhưng tôi không tài nào chợp mắt được. Nằm thao thức nhớ ngày xưa khi còn ở quê nhà, những đêm khó ngủ như đêm nay thật là đầy thi vị. Tiếng gió thổi rì rào qua hàng mận đầu hè hòa với tiếng kêu ra rã thâu canh của những con vạc sành và đám dế nhỏ đón sương làm thành một dạ khúc êm ái khó quên. Với tay lấy chiếc áo len máng bên thành ghế khoác lên người, tôi ngồi dậy đến bên cửa sổ nhìn bâng quơ ra ngoài. Đêm của mùa cuối đông trên đất Bỉ trời thật im ắng và lạnh. Thành phố đang chìm trong giấc yên tĩnh, để những bông tuyết nhẹ và trắng muốt bay miên man như đàn bướm nhỏ từ miền xa rủ nhau về mừng dạ hội.

Còn có ít hôm nữa là Tết rồi, mau quá!

Tôi chợt nghĩ và bỗng nghe nao nao trong lòng cái cảm giác của những ngày còn bé học ở trường tỉnh, cứ đến hăm ba tháng chạp là bắt đầu bãi trường Tết, vui không sao tả được. Tôi nhớ cả đến mùi thơm đồng nội của khói từ mấy đống un mà mẹ tôi quét vườn gom lại đốt và chị em tôi ngồi chung quanh sưởi ấm trong tiết trời lành lạnh của những buổi sáng sắp sang xuân. Nhớ mấy cây quít trái chín đỏ sai oằng tôi phụ hái đem vào chưng cúng trên bàn thờ. Nhớ cây mai đầy nụ xanh, điểm lấm tấm vài bông nở sớm vàng rực thơm thoang thoảng trong gió đông, bên thềm mấy chậu cúc tím chen lẫn với những đám thược dược hồng thắm, vui tươi. Rồi là những đêm thức thật khuya để coi làm mứt gừng, mứt bí, dưa giá, củ kiệu, tập gói bánh ít, xin những cái mộng dừa ngọt hay gọt phụ đu đủ, củ sắn cho mẹ tôi...

... Như đàn bông tuyết trắng xóa rơi không ngớt ngoài kia, những kỷ niệm thân yêu đó rủ nhau về thật nhiều trong tâm tưởng tôi, như để xoa dịu tình hoài hương của một người lữ thứ. Có lần viết thơ về thăm mẹ, tôi đã an ủi người và chính mình: "... Má coi, hồi con ở nhà con cũng mải miết đi học trên Sài Gòn có khi nào được gần má lâu đâu. Xa má mấy mươi cây số hay một vạn dặm đường cũng là xa, má đừng nhớ con nhiều mà buồn nha má"... Bây giờ tôi lại hiểu rằng mình đang sống xa mẹ thật vời vợi, ngày Tết cũng không còn được về phủ phục trước bàn thờ ông bà nói chi mỗi chiều thứ bảy đáp chuyến xe đò Liên Hiệp về quê, kể cho mẹ nghe những chuyện vui buồn trong lớp học và đùa giỡn với mấy đứa em. Không, không phải chỉ là những chuyện vui buồn trong lớp; có một lần trong năm mười chín tuổi, tôi đã kể cho mẹ tôi nghe chuyện tình của đời mình.

***

Năm đó, tôi vào học dự bị Văn khoa, lòng tuyệt nhiên không bận rộn gì ngoài chuyện sách đèn. Tôi ở trọ nhà người bà con khu chợ Thái Bình, ngày ngày với chiếc áo dài trắng đơn sơ cùng chiếc nón lá đến trường ghi bài về học. Tôi may mắn hơn nhiều bạn bè trang lứa vì tự biết mình khá đẹp và duyên dáng. Điều đó tôi không dùng để chuốc tánh kiêu sa như vài người con gái hợm hỉnh khác, một phần vì thấu hiểu nỗi khổ tâm của những người bạn gái kém nhan sắc mà tâm hồn là cả một trời nhân hậu.

Nhưng rồi những ngày của những năm giặc giã không thể nào chỉ là những ngày bình thản được. Sinh viên các phân khoa bắt đầu dao động vì chuyện bắt lính, chuyện những người ngoại quốc đem bom đạn, dân xứ sở họ đến ngày càng nhiều, chuyện những quán rượu trá hình mọc lên như nấm nơi đó chôn vùi cả danh thơm người con gái Việt, những tên tướng trẻ ngông nghênh coi đất nước như đồ vật riêng của họ, muốn bán buôn đổi chác lúc nào cũng được, chuyện những bộ trưởng bổ người thân tín vào những chỗ để kiếm tiền hối lộ, có khi là tiền hối lộ của một sinh viên nghèo muốn có chỗ dạy giờ ở các trường công gần thủ đô v.v... Tôi dần dần cũng nghe bất mãn và không còn chút tin tưởng nào nơi chánh phủ. Tuy nhiên sự bất mãn đó chưa đến độ bùng nổ, có lẽ vì làm con gái ít thấy số phận bị trực tiếp đe dọa. Hơn một lần, vài người rủ tôi vào đảng này, phe nọ  để "cùng nhau làm cách mạng xã hội" dưới sự "lãnh đạo" của một chính trị gia "tăm tiếng"; tôi chỉ cười nhạt, ai mà chẳng biết rằng đám chính khách trùm chăn ở Sài Gòn thì thiếu gì mà họ lúc nào cũng rình rập chờ cơ hội nhảy lên nắm quyền, hốt bạc cho nhiều, cho mau để rồi chạy ra nước ngoài tiếp tục "tranh đấu cho dân tộc" ở các sòng bạc quốc tế!

Chán mứa thời cuộc, tôi vùi đầu vào sách đèn và những công tác xã hội do sinh viên Sài Gòn tổ chức, cố tự làm cho mình có ích và không đành làm ngơ trước nỗi khổ đau của đồng bào. Có lẽ định mệnh cũng khéo xếp đặt cho tôi có mặt trong lần đi cứu trợ nạn lụt miền Trung năm đó. Phải, tôi đã gặp Dũng vào dịp ấy. Dũng là một thanh niên đầy nhiệt tâm, tận tụy với công việc, không quản ngại trước khó khăn, cực nhọc. Khác với những thanh niên ăn diện bảnh bao, nói năng chải chuốt để lấy lòng phái nữ nhẹ dạ, Dũng sống rất giản dị, không kiểu cách. Khó khăn lắm tôi mới biết là anh học năm thứ năm y khoa.

Một lần dậy muộn, tôi đến địa điểm tập hợp khá trễ trong khi các bạn đang sốt ruột, Dũng đã đến trước mặt tôi mà khiển trách:

- Chị Mai, lần sau xin chị đến đúng giờ hơn để khỏi trễ nãi cả chương trình chung của nhóm.

Tôi e thẹn cúi đầu, im lặng xin lỗi và lạ thay bỗng nghe lâng lâng ở trong lòng niềm vui sướng của một mối tình đầu chớm nở.

Và dường như Dũng ăn năn vì lời trách đó, nên đặc biệt lo lắng cho tôi những lúc xuồng chúng tôi băng qua nơi nước chảy xiết và thấy tôi đang nắng mệt, Dũng nhường phần nước dừa lại cho tôi. Ôi! Còn có ngày nào trong đời đẹp hơn ngày đó? Tôi thấy mình bé nhỏ và muốn mãi mãi bé nhỏ để được Dũng chăm sóc thương yêu.

Từ dạo đó chúng tôi yêu nhau, nhưng chưa bao giờ nói lên bằng lời. Những lần gặp nhau Dũng hay kể cho tôi nghe những chuyện xảy ra ở nhà thương anh gác: khi thì chuyện một bà lão bị bom đạn giặc đốt cháy, Dũng đắng cay bảo: Mai biết không, quy ước quốc tế cấm dùng loại vũ khí dã man đó trong chiến tranh! Khi thì chuyện một sản phụ chở từ một tỉnh nào đó lên, chết vì người nhà không mua được máu, Dũng buồn rầu chán nản:

- Anh không hiểu tại sao chánh quyền ngăn chặn, lừa lọc số sinh viên muốn vào học các trường y tế trong khi số bác sĩ, y tá thiếu vô cùng? Thật là mỉa mai cho cái chương trình "Mỹ quốc viện trợ"! Nhìn kỹ lại có gì khác cho dân tộc Việt Nam mình ngoài xe tăng, đại bác và sữa cặn bơ thừa?

Bằng những điều sống thực như vậy, Dũng đã dạy cho tôi lớn lên, nhìn thấy những nỗi bất công, nhọc nhằn trong xã hội. Dũng còn say mê nói với tôi về một xã hội công bằng- nhân đạo của ngày mai, tôi chăm chú nghe và càng nghe càng yêu mến Dũng khôn cùng. Dũng cũng khéo nói cho tôi hiểu là anh chỉ yêu mến những người con gái có tâm hồn đẹp và rắn rỏi. Anh không thích tôi mua tặng những món quà nhỏ, không thích những uỷ mị thường tình và say đắm đôi mắt cảm phục đang chăm chăm nghe anh nói những lời nói đầy tình yêu quê hương, đất nước.

***

Cuối năm học đó, bận rộn với mùa thi, tôi không gặp Dũng hàng tháng trời. Kịp đến lúc đậu xong, tôi đến nhà Dũng báo tin mừng mới hay Dũng vừa bị bắt cách đó mấy hôm... Cây phượng vĩ bên đường bông đã tàn rụi và buổi chiều hôm, tiếng con ve lạc đàn kêu sao buồn thảm! Tôi hiểu, yêu còn có nghĩa là sẽ chuốc lấy khổ đau do tình yêu mang đến; nhưng Dũng đã chẳng muốn thấy tâm hồn tôi rắn rỏi đó sao?

Lòng bồn chồn lo lắng, tôi đi tìm những người bạn của Dũng hỏi thăm tin tức thì được biết Dũng đang bị giam ở Tổng nha vì có tên trong hồ sơ mật do bọn sinh viên chỉ điểm báo cáo về những người sinh viên thường hội họp biểu tình từ phong trào Phật giáo  lúc bấy giờ. Bọn cảnh sát còn lùng bắt thật nhiều để mong ngăn ngừa làn sóng đấu tranh từ Huế - Đà Nẵng, Đà Lạt lan vào Sài Gòn.

Mấy lần xin vào thăm tôi đều được trả lời "còn chờ thẩm vấn, chưa thăm được". Hai chữ thẩm vấn làm tôi lạnh mình. Những người đàn bà lam lũ từ quê lên tìm chồng con đều nhìn tôi ái ngại; còn tôi, tôi nhìn họ lại nghe hiển hiện lời Dũng nói về những người nghèo khổ nơi bùn lầy nước đọng để chợt thấy giữa tôi với họ có quá nhiều cách biệt. May thay nỗi lo âu dằn vặt chung trước cánh cửa Tổng nha đường Cộng hòa đã xóa bỏ lần lần khoảng cách giữa chiếc áo dài trắng tinh với những chiếc áo bà ba vá víu bần hàn. Tình yêu đã đưa những người phụ nữ chúng tôi đến trước cửa ngục tù, kẻ quê, người thành, hai cuộc đời xa lạ bỗng thương yêu nhau như chưa bao giờ biết yêu thương. Đó phải chăng cũng là một thứ tình yêu quê hương đất nước?

***

Một thời gian sau, giữa lúc tôi đinh ninh rằng Dũng sẽ bị đưa ra tòa thì anh được thả về do sự vận động của một người bà con "làm lớn" trong bộ Quốc phòng. Gặp lại Dũng tôi vui lắm, nhưng không phải là nỗi vui hồn nhiên của cái ngày chớm yêu. Tôi nhìn Dũng gầy yếu, xanh xao bỗng hai hàng nước mắt rưng rưng, muốn nói Dũng ơi, Mai thương anh, nhưng tiếng nói đã tắt nghẹn nơi đầu môi khi tôi chợt nhớ tới những cô bác quen trước khám đường, giờ này chắc gì đã được khóc mừng chồng con mình thoát khỏi cuộc đời xiềng xích.

Dũng rủ tôi đi dạo một vòng thành phố, tôi đâu biết đó là lần chót mình được đi bên cạnh Dũng. Tôi mặc chiếc áo dài màu thiên thanh, chải mái tóc cho thêm vén khéo, trang nhã hơn ngày thường.

Và suốt buổi chiều hôm đó tôi nghe vui sướng vô cùng, cứ tưởng như mình đang bồng bềnh trên một con thuyền trôi trên một dòng sông xanh, hai bên bờ có hoa bằng lăng màu hồng nở rộ lung linh theo gió. Tôi vẫn chưa biết rằng mình sắp phải rời xa Dũng không biết đến bao giờ, cho đến khi trời tắt nắng, Dũng cùng tôi vào một quán nước nghỉ chân. Dũng gọi một tách cà phê và phần tôi một chai nước ngọt. Tôi định đùa xin cùng được uống với Dũng một ly cà phê thật đắng và thật đen nhưng khi nhìn lên khuôn mặt chợt xa vắng của Dũng, tôi bàng hoàng nín lặng, linh cảm một giờ phút trọng đại của đời mình.

Rồi Dũng nhìn tôi thật lâu và thật trìu mến, có khi tôi thấy trong mắt Dũng thoáng lên một niềm hãnh diện, có khi là một nỗi hờn oán nối tiếp theo một gợn buồn, có khi như hứa hẹn giữ mãi mãi hình ảnh tôi cho đến trọn đời... Bên ngoài trời đổ mưa, con đường Lê Lai bên hông ga xe lửa trở lên vắng ngắt, Dũng thu hết can đảm nói thật đầm ấm và cũng thật cương quyết, nghiêm nghị như lần trách tôi ngày hôm ấy:

- Ngày mai anh sẽ lên đường ra chiến khu cùng với vài người bạn khác. Anh biết Mai sẽ buồn và sẽ nhớ anh nhiều, anh cũng vậy, nhưng chúng ta sẽ xứng đáng với nhau phải không Mai. Anh không có lời nào để an ủi em vì chính anh, anh cũng không tự an ủi được mình. Anh chỉ có thể nói rằng đời chúng ta còn có những ngày vui bất tận, đó là những ngày hòa bình lập lại, không còn bóng một tên lính ngoại quốc nào trên xứ sở.

Dũng chưa nói hết câu tôi đã hiểu và thông cảm để cố nén nỗi buồn thật sâu thẳm trong lòng. Tôi đâu có phải là người đầu tiên ngậm ngùi làm thân chinh phụ! Vả lại, nếu Dũng ở lại cũng sẽ chẳng được yên thân lâu, không bị bắt trở lại cũng bị gọi đi lính, cuộc đời thêm nhục nhã chua cay. Tuy nhiên tôi cũng hỏi Dũng một câu để mà hỏi:

- Còn việc học thì sao hở anh?

Làm sao tôi có thể ngăn cản Dũng đi theo tiếng gọi của quê hương khi mà ngục tù còn đang đầy dẫy người yêu nước và bom đạn còn đang dày xéo làng mạc, ruộng vườn. Cho nên tôi bảo:

- Anh đừng sợ Mai nản lòng chờ anh. Mai không đi theo anh được vì hoàn cảnh gia đình chưa cho phép nhưng tâm hồn và lý tưởng của đời Mai, Mai gởi hết cho anh vì Mai biết rằng trước bọn giặc hung bạo, dã man như vậy, chỉ cầm lấy súng mới chống lại được. Không làm như vậy chỉ có thể làm chậm ngày hòa bình, độc lập của dân tộc, vô tình giết thêm nòi giống.

Dũng mỉm cười nhìn tôi âu yếm:

- Anh thì chỉ sợ Mai chịu cực không quen, cho Mai theo lại mắc công lên ruột như hồi đi xuồng trên sông. Với lại năm ba năm nữa anh về cũng chưa già lắm đâu.

Rồi chúng tôi bàn đến chuyện của đất nước và của hai đứa. Dũng và tôi thu xếp vài công việc của anh và bảo tôi đến nhà ba má Hoàng thăm cho thường. Bịn rịn không muốn rời lâu, tôi muốn phút giây cuối dài hàng thế kỷ. Nhưng kìa, Dũng đã đứng lên rồi. Tôi bối rối nắm lấy bàn tay Dũng áp trong hai bàn tay mình như muốn gởi gắm tất cả tình thương và tâm trí cho Dũng. Tôi muốn nói thật nhiều nhưng chỉ thốt lên được một lời nghẹn ngào:

- Thôi anh đi. Mai đợi anh ngày hòa bình.

Dũng xiết chặt tay tôi, nói lời từ giã cuối cùng rồi đi. Tôi đã cười một nụ cười thật đẹp để tiễn chân Dũng bởi vì tôi biết Dũng đâu muốn tôi làm một nhi nữ thường tình. Nhưng lòng tôi thì đứt đoạn từng cơn để đến khi Dũng mất hút đằng phía chợ Bến Thành, tôi quay trở lại nhà thờ Huyện Sĩ vừa đi nước mắt vừa lăn dài trên má. Ôi! tình yêu. Mới nửa năm trời tôi đã nếm đủ ngọt ngào cay đắng. Ai làm cho tôi xa Dũng, ai giết chết Hoàng, ai nếu không phải là bọn người giờ đây đang sống trên quyền thế cao sang, đang cười nghiêng ngửa trong trà đình tửu quán? Tình yêu đã dạy cho tôi hiểu rằng nó chỉ sống được những nơi nào không có áp bức, bóc lột giữa các chủng tộc và giữa người đồng loại.

***

Kể cho mẹ tôi nghe câu chuyện đời mình vào một đêm trăng sáng có bông dạ lý thơm ngào ngạt trước sân, tôi nghe nhẹ nhàng trong lòng nhưng vẫn chưa nguôi sầu nhớ. Mẹ tôi âu yếm thắt cho tôi chiếc bím tóc, suy nghĩ nhiều lắm để tìm cho tôi lời an ủi tràn đầy hiểu biết và đậm đà tình mẫu tử:

- Má không biết tình yêu là gì vì hồi xưa má đi lấy chồng để làm vui lòng ông bà ngoại con, nhưng nếu tình yêu là thứ dây ràng buộc con với thằng Dũng như con đã nói thì má không khe khắt cấm đoán các con. Nó còn nhỏ, con nhà giàu ở thành mà thấy được đâu là phải, đâu là trái thì má thương lắm. Má nhớ hồi năm bốn bảy, ba con theo kháng chiến, một lần Tết về thăm nội con, gặp chú sáu con làm quận cho Tây ở Cầu - Kè về, hai anh em cãi nhau dữ lắm. Chú Sáu nói theo Việt Minh là theo Cộng sản, ba con giận trả lời:

- Tôi nói cho chú biết, tôi không biết Việt Minh có phải là Cộng sản không, chỉ biết là nơi nào có Việt Minh, nơi đó dân hết dốt, hết bệnh, hết đói khổ, hết bị chửi mắng, khinh miệt, bom đạn tối ngày trên đầu mà ai nấy đều vui tươi. Trái lại nơi nào có hai cây cờ tam sắc và cờ sọc dưa là ở đó có nghèo đói, thất học, mê tín, trộm cướp, hối lộ, hà hiếp, đầu cơ, cờ bạc, rượu chè, hút sách. Tôi học ít hơn chú nhưng chú không khôn hơn tôi đâu. Chỉ có tụi Việt gian bán nước với tụi thực dân kia mới là vô liêm sỉ. Nếu Cộng sản mà theo Tây hại dân thì tôi đánh tới cùng, còn nếu họ lo cho dân cho nước thì có gì tôi phải sợ?

Chú sáu con sau đó nghĩ hối hận nên đã lập kế cho dân quân đánh lấy quận, thâu súng ống nhiều vô kể. Việc bại lộ, chú bị bắt và bị đem ra cầu tàu bắn thả trôi sông. Má thấy thời này cũng y như hồi xưa, chỉ có khác là thằng Tây đi, thằng Mỹ lại và Mỹ tàn ác hơn Tây nhiều. Theo như má thấy thì những gì mà người ta đồn đại về mấy ông Giải phóng cũng y như hồi nhỏ má bày đặt nhát ông bị cho con sợ chớ làm gì có ông bị. Dân bây giờ khôn lắm chớ không phải như hồi còn dốt bị Tây nó đè đầu đâu. Họ thấy Mặt trận đúng là đố ai gạt được. Nước mình mà độc lập rồi thì gầy dựng lại, ai buôn bán thì cứ buôn bán, ai làm ruộng thì cấp đất cho họ làm ruộng, ai đi học thì lo học, miễn đừng tham lam là được. Xứ mình giàu, dân mình giỏi thì lo gì không có ngày no ấm. Con đừng rầu buồn gì hết, ráng lo học để mai sau giúp đỡ đàn em cho chúng nên người.

Ôi, lời lẽ mộc mạc của người mẹ hiền ngày đó đã đưa tôi ra khỏi cơn phiền muộn, chỉ cho tôi thấy rằng tình yêu nếu chỉ là tình yêu cô động thì cuối cùng có thể đem đến chuyện buồn cho đời con gái, trái lại ai biết đặt tình yêu đôi lứa vào trong tình yêu quê hương, đất tổ, để có khóc thì khóc vì nước mất nhà tan chớ không phải vì ủy mị thường tình thì dẫu trong hoàn cảnh nào cũng thấy cuộc đời mình là cuộc đời đáng sống.

Ngày tôi vừa lên ba, anh Ơn bị giặc Pháp giết giữa thành phố Sài Gòn, mười lăm năm sau, một người bạn của tôi ngã xuống vì giặc Mỹ, đó là hai người tôi được biết còn ngoài ra, chế độ đã tàn nhẫn giết bao nhiêu đầu xanh vô tội?

Dũng đã ra đi để trả thù cho dân như những năm 50, 51 học sinh miền Nam đã ra đi để trả thù cho Tổ quốc và đã góp phần làm nên Điện Biên Phủ. Dũng cũng đã góp phần vào chiến thắng lẫy lừng mùa xuân qua.

Tuyết rơi càng lúc càng nhiều, thành phố bên dưới đã phủ một lớp tuyết mịn màng từ lúc nào. Tôi nghe lạnh và hơi mệt nên trở lại giường nằm. Hình ảnh cành mai vàng đầy bông cắm trong chiếc lục bình giữa nhà, những dĩa hạt dưa, mứt, bánh trên bàn cùng cảnh gia đình đoàn tụ trong đêm giao thừa khói hương nghiêm trang, đầm ấm làm tôi náo nức không sao ngủ được. Tôi nghĩ đến Dũng, không biết năm nay Dũng ăn tết ở nơi nào, Dũng đang mặc áo choàng trắng khám bệnh cho dân hay đang khoác ba lô, đeo súng trên con đường hành quân ngút ngàn? Dẫu sao hình bóng của Dũng cũng đã dịu dàng đưa tôi vào giấc ngủ. Trong giấc mơ, tôi thấy cùng Dũng đi dạo trong một thành phố quen thuộc rộn ràng tiếng cười và nơi nơi lá cờ xanh đỏ sao vàng của miền Nam anh hùng bay kiêu hãnh. Tôi thấy cùng Dũng vào một quán nước nghỉ chân, hai đứa uống hai tách cà phê thật đậm và thật nóng, bên ngoài những hạt mưa đầu mùa bắt đầu rơi, đầm ấm, yên vui.

 

(Giải Phóng, nước Bỉ, 1968)

➖➖➖