
Trời lạnh thấu tới từng lóng xương mà chiếc xe tram quái ác chờ hoài không thấy tới. Ngó ra sau lưng thấy vợ đang đứng co ro, thiểu não, bác Năm muốn cởi cái khăn quàng cổ quàng thêm cho vợ nhưng ngường ngượng thế nào lại thôi. Già rồi chớ còn trai trẻ gì nữa đâu. Bác chợt nhớ lại ba mươi mấy năm về trước, khi lính lê dương kéo về định chiếm lại làng quê, có anh con trai cày theo bạn bè đi đốn tầm vông về vạt nhọn, chiều chiều tạt về nhà ăn cơm mắm muối với người vợ trẻ siêng năng lo chuyện đồng áng, xong lại ra sân đình tập võ dưới ánh trăng khuya; đâu đây vang lên tiếng hát của đám trẻ nhỏ "Mùa thu rồi ngày hăm ba...".
- Xe đến rồi cà ông.
Giọng nói quen thuộc còn pha đậm chất quê mùa của bác gái đưa bác Năm trở về với thực tại. Lên xe, bác nhắc vợ vịn tay cho chắc, thấy coi bộ được rồi mới loay hoay móc bóp lấy tiền. Bác đưa tờ giấy hai chục lẻ trong số tiền mới lãnh ở CPAS hồi sáng, cho người lái xe và chờ lấy vé. Nhưng quái, sao ông ta nói gì như là muốn đòi thêm? Bác vừa ra dấu vừa xổ mớ tiếng Tây ít ỏi bảo "đủ rồi mà!". Lời qua tiếng lại một hồi trong sự nóng ruột của mấy người đang đứng chờ bác mới rõ là tiền xe mới vừa tăng hôm qua.
Khoảng đường từ Barrière Saint Gilles tới Bascule, bác chỉ ngồi có một chút. Ngồi thì đỡ mỏi chưn, ngặt phiền một nỗi là phải ngó mấy bà đầm ngồi trước mặt, không biết làm sao mà tránh. Chớ như bên nhà là bác đã bắt chuyện cho đỡ buồn và đỡ ngượng nghịu. Hoặc là bác có được tờ báo để nhìn vào đó. Nhưng báo thì bác có đọc được đâu mà mua cho uổng. Không đến nỗi đọc ngược như người dốt nhưng dòm vô tờ "Le Soir" bác có hiểu chữ nào đâu. Thôi đành đứng và làm bộ ngắm cảnh bên đường. Và nhớ. Người có tuổi như bác hay nhớ chuyện xưa. Hồi đó, khi giặc chiếm làng rồi, anh con trai dắt vợ lên khu kháng chiến. Khổ nỗi người vợ không chịu nổi rừng sâu nước độc, đau yếu luôn. Đến khi vợ có thai, anh xin với đoàn thể đưa vợ về tỉnh lị gởi nhờ người bà con rồi quay lại. Chiếc xe đò đưa hai người đến một bến đò ngang. Sang mấy chuyến đò ngang, một con dò dọc, rồi quá giang ghe cát hai ba ngày mới tới. Nhưng anh đã không trở lại rừng sâu, vì anh không đủ can đảm xa vợ xa con. Đừng nghĩ là anh theo giặc. Không, anh ghét chúng và ghét luôn cả những tay quan ba béo bở, hống hách.
Lúc đầu anh đi làm mướn ở chợ. Được cái có sức vóc và chí thú làm ăn. Vợ anh cũng khéo thu vén dành dụm nên đến khi ông chánh, ông cò Tây cuốn gói về xứ, hai người đã tạo được một cơ ngơi nho nhỏ: tiệm may "Tân Hòa" chuyên may y phục Âu Á hợp thời trang...
Đẩy mạnh vào cánh cửa kêu sè sè đâu trong ổ khóa, vừa bước vào bác đã thấy vợ chồng Ban đang đứng đợi.
- Mời hai bác ngồi. Đưa cháu cất măng tô cho. Dạ, hai bác uống trà nhé. Cháu có trà Tàu ngon lắm. Michèle, veux-tu faire du thé? Trời lạnh quá hả hai bác.
- Cám ơn cậu.
- Dạ, hai bác qua được bao lâu rồi?
- Đâu được bốn tháng rồi cậu...
Bác Năm ngập ngừng một lúc rồi xổ luôn một tràng:
- Chẳng nói giấu gì cậu, tại mấy đứa con tôi năn nỉ dữ quá hai vợ chồng tôi mới xách gói ra đi. Qua đây, bà nhà tôi buồn nên muốn đi làm kiếm thêm chút đỉnh cho qua ngày đoạn tháng.
Rồi như tủi thân, bác Năm bỗng ngưng bặt, tai nóng bừng, cặp mắt hấp háy nhìn xuống chiếc gạt tàn thuốc bằng pha lê trên bàn. Bác Năm nghe giận mình rồi giận lây qua mấy đứa con! Mình thì cứ đòi đi, còn tụi nhỏ có đứa nào cản đâu. Không ai chịu nghe lời má nó.
Mấy đứa con của bác! Thằng Tân lớn lên ở chợ lúc bác còn nghèo hèn nên học hành chẳng tới đâu. Cái năm nó bị động viên, oái oăm thay cũng là năm bác làm ăn phát tài. Chẳng là thời đó quân Mỹ kéo vô đông, tiệm may bác phải mướn thêm nhân công làm đêm làm ngày mà vẫn không kịp. Giàu rồi cũng dễ làm sang, bác quen lớn, tiệc tùng thường xuyên với những người có máu mặt trong tỉnh. Thằng Tân nhờ vậy cũng ấm thân. Mặc cho bác gái túi bụi công việc, bác la cà ở các quán rượu bỡn cợt với mấy cô chiêu đãi; bác bắt nhân tình với cô này, cô khác.
- Ôi, những ngày tấm thân nhàn nhã, bên cạnh đó, bác gái ngày càng gày xọp đi. Bác tậu nhà, sắm xe. Những đứa con sau của bác bây giờ là những chàng trai, những cô gái thanh lịch, ăn học tới cỡ tú tài cả. Cái xó quê, nơi chôn nhau cắt rún của bác thì bom đạn tàn hoang, mồ mả cha ông một tay bác gái mỗi năm về sửa sang, cúng quảy. Trái với bác, bác gái không có gì thay đổi ngoài quần áo bên ngoài. Tấm lòng chơn chất, nhịn chồng, thương con, dễ khóc khi coi cải lương thấy những cảnh đời ngang trái. Bác yêu thương, ghét, giận, những việc, những người đúng hơn chồng. Mấy đứa con lần lượt đi du học, bác lo gởi tiền, gởi quà thay cho những lá thơ mà bác không viết được. Những đứa con mà cho đến bây giờ cũng còn lỡ cỡ, chưa nên danh phận gì!
Tiếng Ban chợt cắt ngang dòng suy nghĩ của bác.
- Cháu có nghe bác Sang nói nên cháu mới mời hai bác tới chơi và bàn luôn chuyện đó. Nếu được, nhờ bác gái giúp vợ chồng cháu giữ giùm con nhỏ con cháu và dọn dẹp lặt vặt trong nhà. Còn cơm trưa thì bác cứ tự tiện nấu ăn, đồ cháu mua sẵn để trong tủ lạnh. Sáng cỡ tám giờ bác tới, chiều chừng năm giờ vợ cháu về tới, bác sẽ về.
Lời Ban khẩn khoản, tử tế mà sao bác Năm nghe như kim đâm trong lòng. Bác liếc nhìn qua bác gái, thấy nét mặt đăm chiêu của vợ, vội quay đi. Tóc bác gái đã điểm bạc rồi, đâu còn trẻ trung như cái năm Bính Tuất hai người dắt díu nhau về thành tìm việc. Ở cái tuổi của hai vợ chồng bác, sao hai người không kiếm một miếng vườn, nghỉ ngơi chờ ngày theo ông, theo bà lại sang đây làm chi? Làm chi? Hai tiếng ấy xoáy vào lòng bác Năm, như cơn gió chướng làm nhức mỏi toàn thân.
Hồi giải phóng, kể cuộc đời hai bác cũng gặp khá nhiều gieo neo. Hàng họ ế ẩm lần cho đến khi chẳng còn mấy ai may mặc, hai bác đóng cửa tiệm về sống ở nhà riêng. Mấy cái xe cũng ít dùng vì xăng quá mức, bác lần lượt bán đi, chỉ còn chiếc La Dalat xốc xếch. Hồi kiểm kê, bác cũng phải nộp hết một phần lớn vải vóc chưa kịp đem đi giấu. Rồi hai lần đổi tiền, may mà bác khéo xoay nên cũng không đến nổi. Đỡ nhứt là đồ nữ trang, vàng bạc vẫn còn nguyên vẹn. Ngày ngày, bác lê la qua nhà mấy người bạn cà kê bàn bạc những tin đồn, và chờ đợi một cái gì bác cũng không biết rõ. Bác gái thì muốn dọn về quê. Nhà quê về dưới buồn chịu gì nổi. Bác chỉ còn một con đường là hối mấy đứa con làm giấy tờ cho hai vợ chồng bác qua Bỉ. Bác gái dù không muốn đi, nhưng đã quen chìu chồng nên lại thu vén, để lại một phần tài sản cho vợ chồng Tân rồi cùng ra đi, định bụng qua bên đó làm ăn, gầy dựng lại. Nhưng qua bên Bỉ, làm ăn đâu có dễ như bà tưởng. Mấy đứa nhỏ cũng phải lam lũ mới đủ sống. Cực chẳng đã, bác phải tìm cách đi làm. Chồng bác thì ở không quát tháo quen rồi, trăm sự lại đổ vào bác. Bác lượng thấy công việc Ban giao cũng dễ. Không chờ chồng, bác buột miệng hỏi:
- Như qua ưng làm, em tính trả cho qua bao nhiêu?
- Dạ, bác giúp dùm, tụi cháu xin gởi bác mỗi tháng sáu ngàn quan.
Không hiểu sao bữa sáng hôm đó, lúc bác gái sửa soạn đi làm bác Năm chỉ muốn giữ vợ ở lại nhà. Vậy là bác gái đã đi làm được hơn tháng rồi. Tiếng là phải tới nhà Ban lúc tám giờ, chớ bác gái đã phải thức dậy từ sáu giờ rưỡi sáng, nấu cho bác bình trà, bắc nồi canh, còn nồi thịt thì đã kho từ tối hôm qua, xong lật đật lo ra đi cho kịp xe tram. Phải đi hai chuyến xe mới tới. Xe đông, người ta chen lấn làm bác gái mệt đừ.
Còn phần bác Năm, hồi vợ mới đi làm, ở nhà một mình buồn, ráng đi chơi với mấy người bạn bác mới quen. Được ít lâu cũng ngan ngán. Mới đầu cũng chửi bới chính phủ, lần lần tới chuyện khoe của, khoe sang. Bác Năm không có gì để khoe thành thử nghe riết cũng ngán, thấy mình thua sút anh em. Vả lại người ta cũng có chuyện này chuyện khác chớ ai rảnh đâu mà tiếp bác hoài. Vậy là ngồi thu lu một mình trong căn phòng vắng vẻ, bác nghĩ hoài tới vợ. Từ hồi bỏ khu về thành tới giờ lúc nào hai vợ chồng cũng có nhau, thường thì bác gái đợi bác về chớ có đâu cái cảnh bác ngồi đợi vợ. Mấy cái chuyện tàu coi đi coi lại hoài, có bữa cầm lên ngó vài trang bác lại bỏ xuống, dòm đồng hồ. Bữa nào kẹt xe, bác gái về trễ, bác đi ra đi vô, sợ có chuyện gì xảy ra bác biết làm sao.
Và chuyện đó đã xảy tới.
Từ hồi sáu giờ chiều tới lúc bác gái thiểu não bước vào phòng, bác Năm hết ngồi lại đứng. Chờ riết không được, bác vô nhà bếp hâm lại nồi thịt. Bên ngoài trời đã trở lạnh. Cái lạnh khắc nghiệt như khứa vào trong da thịt chứ đâu phải cái se lạnh bên nhà những ngày cuối năm. Bác chặc lưỡi, chà sắp đến Tết rồi. Cái Tết đầu tiên của bác ở xứ Bỉ.
Thấy trán vợ u một cục to tướng, bác Năm thấy hai đầu gối mình khụy xuống. Chẳng là trời lạnh, xe lại đông, để khỏi trễ chuyến tram thứ hai bác gái lật đật xuống xe cho lẹ. Bị lấn, bác gái bước xuống xe bị té rồi ngất luôn. Mấy người đi đường phải đỡ bác vào ngồi trong một cái quán cà phê cạnh đó. Lúc bác Năm vịn vợ ngồi xuống giường, bác gái nhìn chồng, nói nhỏ "sao tôi khổ quá ông ơi!"
***
Bác Năm trằn trọc hoài. Một phần tại cái lò sưởi gaz làm khô khốc căn phòng. Một phần tại bác suy nghĩ lung lắm. Cái quá khứ sáu tháng qua là một chuỗi ngày hiu quạnh khôn cùng. Còn đâu những buổi sáng ra đầu phố ngồi khề khà bên tô phở thơm phức, kháo chuyện với những ông bạn già của bác. Còn đâu những tiếng ồn ào quen thuộc trên đường, những màu sắc tươi vui của giàn hoa trước ngõ? Cuộc sống ở quê nhà tuy khó khăn vẫn có cái tươi vui của nó hơn hẳn cái thiên đường tự do, trù mật và cô đơn này! Cái ông trưởng khóm đôi khi mát mẻ với bác, vẫn tôn trọng bác và biết làm lành cho được lòng bà con cô bác. So với những người hiện ở chung nhà, sao mà nhạt phèo như điếu thuốc vấn bằng lá đu đủ khô!
Quê hương bác cứ lên tiếng gọi, cứ ám ảnh và chấp chới như chùm trái ngọc trong vườn Tây Vương mẫu. Ở đó, cứ bước ra khỏi nhà đi dạo khan cũng đủ vui rồi. Ở đó, lại có những buổi tối đi xem hát, xem cải lương, truyền hình. Ôi bao mối tơ vương trong tấm lòng già cỗi của bác như cái ngó sen hái lìa khỏi cọng. So sánh thiệt hơn giữa hai cảnh ngộ, bác thấy mình cũng nghĩ quá lố về cách mạng. Nghĩ cho cùng, bác thì đã tội tình gì đâu ngoài cái "tội" bóc lột nhân công mà chẳng ai nhắc nhở, dù bác có lúc cũng nơm nớp lo. Thằng Tân đi lính cũng chỉ là lính kiểng nên chỉ phải đi học tập có ba ngày, bây giờ thì làm công nhân, ở cái nhà khá lớn bác để lại, con cái đi học vui vẻ. Bác cũng đâu có phải là Kinh Kha tráng sĩ mà một đi không trở lại?
Như vừa thấy được lối ra, bác lay vợ tỉnh giấc:
- Má nó ơi, tôi nghĩ ra rồi, má nó chịu cực đi làm dành dụm ít tiền đi, vài năm nữa yên yên, có chút đỉnh xin về. Tôi cũng sẽ kiếm chuyện gì đó làm phụ với má nó.
Bác gái nghe chồng bàn chuyện trở về với mình cũng vui vui. Nhưng con đường về bắt đầu ở chỗ nào? Phải qua bao nhiêu khó khăn? Đó là những điều bác mù tịt.
- Má nó đừng lo, tôi sống với mấy ổng bốn năm tôi hiểu bụng mấy ổng. Chắc lần hồi rồi mấy ổng cũng cho về. Má nó cứ tin tui đi, số hai vợ chồng mình sẽ có quới nhơn giúp đỡ như ông thầy Cây Lơn nói trước khi mình qua đây đó mà.
Không hiểu chồng sẽ làm cách nào, bác gái vẫn nghe nhẹ nhõm trong lòng. Bác ngủ thiếp đi, và trong mơ, bác thấy mình xách giỏ đi chợ, lựa rau, lựa cá cho buổi cơm trưa của bầy cháu nội dễ thương của bác.
BRUXELLES 1-1980
XUÂN AN
➖ ➖ ➖