Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 219 đăng ngày 2023-12-23
***
Thiên thần gẫy cánh
Tác giả: Gabriel García Márquez
Dịch giả: Trịnh Tường
Dịch từ bản tiếng Anh: “A Very Old Man with Enormous Wings” do Gregory Rabassa dịch từ nguyên bản tiếng Tây Ban Nha “Un señor muy viejo con unas alas enormes” (1968)

Nhân dịp lễ Giáng sinh năm 2023, Tiểu thuyết chiều thứ Bảy trân trọng gửi lời chúc Giáng sinh An lành / Joyeux Noël đến tất cả các thành viên BelUnion cùng gia đình, người thân và bạn hữu gần xa.


-

 

Gabriel García Márquez

(Giải Nobel Văn học 1982)

-:-


Truyện ngắn “Thiên thần gẫy cánh”,
dịch từ bản tiếng Anh “A Very Old Man with Enormous Wings”.

---

Khi mưa đến ngày thứ ba, cua bò vào nhà nhiều đến nỗi Pelayo giết cũng không xuể nữa. Chàng phải lội qua khoảng sân trước nhà để ném chúng ra biển. Vì vợ chồng Pelayo mới sanh thằng con và họ nghi rằng chính vì mùi cua mà thằng bé bị sốt nặng cả đêm. Từ thứ Ba, thế giới buồn thảm đạm. Biển cũng như trời xám như tro, và bờ biển thường sáng long lanh trong những đêm tháng Ba, bây giờ nhầy nhụa những bùn và mùi cá chết. Dù giữa trưa, ánh sáng mặt trời cũng yếu ớt đến nỗi khi Pelayo sau khi ném lũ cua ra biển trở vào nhà cũng không nhận ra một đống thù lù đang cựa quậy và rên rỉ ở sân sau. Chàng phải tiến lại thật gần mới nhận ra đó là một lão già lụ khụ đang nằm úp mặt xuống vũng bùn, và dù có cựa quậy thế nào đi nữa cũng không trở dậy nổi vì lão ta có một đôi cánh khổng lồ.

Kinh hoàng như gặp cơn ác mộng, Pelayo chạy vào gọi vợ, Elisenda, lúc đó đang đắp khăn ướt lên trán thằng nhỏ, ra xem. Hai vợ chồng đứng đờ ra nhìn hình thù quái lạ đang cựa quậy. Lão già trông như một người đi lượm rác. Đầu hói bóng, chỉ còn lưa thưa vài sợi tóc bạc, và vài chiếc răng lung lay còn sót lại. Trong tình trạng thảm hại này, nếu lão ta có được vẻ uy nghi nào thì cũng không còn nữa. Đôi cánh rộng như cánh chim ưng bẩn thỉu, cụp xuống, bị dính cứng vào đống bùn. Cả hai vợ chồng đứng sững nhìn lão ta thật lâu và khi đã bình tĩnh trở lại, họ thấy ở lão ta một vẻ quen thuộc. Cả hai cùng cất tiếng hỏi, nhưng lão đáp lại bằng một thứ tiếng lạ, với giọng ồm ồm như những tay thủy thủ. Vợ chồng Pelayo cũng bớt sợ, và cho rằng đây chỉ là một tay đi biển nào đó bị đắm tầu trôi dạt vào đây. Tuy vậy, họ cũng gọi bà hàng xóm thông thái của họ sang xem. Bà ta chỉ cần liếc qua là biết ngay họ đoán lầm.

“Thiên thần đấy,” bà ta bảo họ với giọng quan trọng. “Chắc ổng được phái xuống để chữa cho thằng nhỏ, nhưng chắc già yếu quá nên bị trận mưa làm cho rớt xuống đây luôn.”

Ngày hôm sau, cả làng đều biết là có một thiên thần bằng xương bằng thịt đang bị nhốt trong nhà Pelayo. Dù bà hàng xóm cho biết là ngày nay thiên thần là những kẻ phạm tội trên thiên đình trốn đi, họ cũng không nhẫn tâm đập chết lão già. Cả buổi chiều hôm đó, chàng còn cẩn thận kéo lão ra khỏi đống bùn, và nhốt vào chuồng gà. Cho đến nửa đêm, khi mưa dứt và cả hai vợ chồng Pelayo vẫn còn đang bận giết những con cua chạy lung tung trong nhà, bỗng thằng nhỏ tỉnh dậy, khoẻ khoắn như không, lại còn đòi ăn nữa. Hai vợ chồng bỗng thấy “lòng từ bi bất ngờ”, và quyết định cho lão ta lên một chiếc bè với lương thực đủ cho ba ngày và thả lão ta ra đương đầu với biển cả. Nhưng khi sáng dậy, cả làng đã kéo đến bu quanh chuồng gà, vừa ngắm nghía vừa chọc ghẹo ông già không nể nang gì cả. Họ ném đồ ăn cho ông lão qua mắt lưới chuồng gà như đối với một con thú trong gánh xiếc, chứ không phải đối với một sinh vật siêu nhiên.

Linh mục Gonzaga đến trước bảy giờ sáng, vì ông cũng nghe được những tin đồn vệ sự việc lạ lùng vừa xảy ra. Vào lúc đó những kẻ hiếu kỳ lúc sớm đã bỏ đi hết, những người mới đến sau xúm lại bàn tán chỉ trỏ lung tung, người thì cho rằng lão nên được bầu làm chủ tịch của cả thế giới. Những người khác cho rằng ông ta phải làm một ông tướng năm sao để có thể thắng được mọi trận chiến. Vài kẻ mộng mơ lại nghĩ rằng nên cho ông già này vào lò ngựa giống để có thể tạo ra một giống người thông minh, có cánh để chinh phục thế giới. Nhưng cha Gonzaga, trước khi thành một linh mục, hành nghề thợ rừng cho nên rất thực tế, ông phải ngẫm nghĩ xem nên dụng văn hay dụng võ. Song le, vì “cha là linh mục” cho nên khi đứng bên chuồng gà ông duyệt lại bộ giáo luật và bảo đám người bu xung quanh mở chuồng cho ông “vào trận”. Ông nhìn lão già đáng thương đang nằm như một con gà khổng lồ bịnh hoạn giữa đám gà con ngơ ngác. Lão ta nằm trong góc chuồng phơi đôi cánh giữa đống vỏ trái cây và thức ăn sáng còn dư do những người đến từ sáng sớm ném vào. Lạc lõng với thế giới loài người, lão chỉ mở đôi mắt xanh ngắt mầu nước biển, và lẩm bẩm thứ tiếng lạ khi cha Gonzaga cất tiếng chào bằng tiếng La-tinh. Ông cha xứ bỗng đâm nghi cái hình thù trước mặt vì lão ta không hiểu được ngôn ngữ của Thượng Đế, và không biết cách chào vị chủ chăn chút nào hết. Càng nhìn kỹ, ông càng thấy ông già không có chút gì “thiên thần” hết: mùi hôi nồng nặc bốc lên vì nhiều ngày không tắm rửa, đôi cánh bị đầy bọ bám vào, và những chiếc lông vũ bị gió thổi làm xơ xác cả. Sau khi nghiên cứu xong ông bước ra và cảnh cáo đám dân hiếu kỳ không được tưởng tượng ra những điều quái lạ. Ông cũng nhắc cho họ nhớ là quỉ sứ thường mượn các trò như đoàn xiếc để lừa bịp dân khờ.

Ông lý luận rằng nếu đôi cánh không phải là yếu tố chính để phân biệt một con chim và một chiếc máy bay, thì cũng khó nhận ra được một thiên thần chỉ vì đôi cánh. Song le, ông cũng hứa sẽ viết thư cho Cha Bề Trên để Đức Cha sẽ chuyển lên dần cho đến Đức Giáo Hoàng để xem ngài phán như thế nào.

Sự cẩn thận của cha xứ cũng chỉ vô ích cũng như phúc âm gieo vào những kẻ cứng lòng. Tin một thiên thần bị bắt truyền đi mau lẹ, và chỉ trong vài giờ, sân trước nhà Pelayo đã biến thành một cái chợ ồn ào, huyên náo đến nỗi người ta phải gửi lính mang lưỡi lê đến giữ trật tự khi đám đông tràn vào như muốn xô sập căn nhà. Elisenda, sau khi phải còng lưng quét dọn rác, nảy ra sáng kiến làm hàng rào quanh nhà, và bán vé vào cửa mỗi người 5 xu để xem thiên thần.

Những kẻ hiếu kỳ từ mọi nơi xa đều đến xem. Lúc đó có một đoàn xiếc từ xa đến, có màn trình diễn đu bay nhưng chẳng ai thèm xem cả vì cánh bay của họ không phải là cánh thật. Những kẻ tàn tật, bất hạnh đến xin thuốc chữa bệnh: một người đàn bà nghèo bị bịnh cứ đếm nhịp tim của mình từ lúc mới sinh ra và đã đếm hết cả số rồi; một người Bồ Đào Nha bị mất ngủ vì âm thanh của những vì sao quá ồn ào; một kẻ mộng du cứ đêm đêm thức dậy phá hết những gì ban ngày hắn làm được; và còn nhiều những kẻ khác bị bịnh nhẹ hơn. Đoàn người hành hương hỗn độn, ồn ào khiến cho trái đất rung động, nhưng Pelayo và Elisenda vừa mệt vừa vui, vì chỉ trong vòng chưa đến một tuần họ đã chất tiền vô đầy nhà, trong khi đoàn hành hương vẫn còn dài dằng dặc cho đến mãi chân trời.

Trong lúc thiên hạ chộn rộn, bận bịu mua vé vào xem thiên thần như xem diễn viên đóng trò thì thiên thần vẫn mặc kệ. Ông dùng hết thì giờ cố làm sao cho được thoải mái trong “cõi tạm” chuồng gà nóng như quỉ vì những ngọn đèn dầu, và những ngọn nến thánh đặt dọc theo cửa chuồng. Lúc đầu họ thử cho lão ăn những cục long não, vì theo bà hàng xóm thông-thái, long não là thức ăn chính của thiên thần. Nhưng lão không chịu ăn, cũng như không ăn những thức ăn dành cho các bậc tu hành do những kẻ đang ăn năn tội lỗi mang tới. Và họ cũng không thể hiểu nổi không biết vì lão là thiên thần, hay chỉ là một ông già mà cuối cùng lão cũng chỉ ăn những nụ cà pháo. Lão dường như chỉ có một đức hạnh siêu nhiên ấy là sự kiên nhẫn chịu đựng, nhất là trong những ngày đầu khi những con gà mái mổ vào đôi cánh to sù của lão để tìm những con bọ chét bám đầy trong đó, và khi những kẻ tật nguyền kéo những chiếc lông cánh để thoa vào chỗ tật nguyền của họ; ngay cả khi có những tên độc ác ném đá vào mình lão cố làm cho lão đứng dậy để xem hình thù thế nào. Chỉ có một lần họ thành công khi dí một thanh sắt nung nóng, vì lão cứ nằm bất động trong hàng giờ khiến họ nghi rằng lão đã chết. Nhưng lão choàng tỉnh dậy, gừ lên những tiếng lạ, và đôi mắt thì đẫm lệ, rồi vỗ vỗ đôi cánh khiến cho một cơn trốt đầy phân gà, và bụi kèm theo một cơn gió kinh hoàng dường như chưa có trên quả đất bao giờ làm cho họ kinh hoàng. Mặc dù nhiều người cho rằng phản ứng này của lão chỉ vì đau chứ không phải vì giận, họ cũng cẩn thận không dám chọc lão nữa, vì đa số hiểu rằng sự thụ động này không phải của một vị anh hùng sa cơ mà là của ngọn núi lửa đang bị đè nén.

Cha Gonzaga phải dùng chiêu chiều chuộng đám đông như một một người tớ gái để ngăn đám đông đừng làm thêm những hành động bất kính, cho đến khi nhận được phán quyết cuối cùng của Giáo Hoàng về số phận của “lão thiên thần”. Nhưng thư từ La-Mã không có gì lộ vẻ khẩn trương cả. Họ nhẩn nha tìm hiểu xem lão có lỗ rốn hay không, ngôn ngữ của lão có dính dáng đến tiếng Aramic, hay chỉ là một người Na-Uy có cánh. Những lá thư này có lẽ sẽ tiếp tục cho đến khi tận thế nếu không có một biến cố khác xảy ra cất đi cái bệnh nhức đầu ông cha xứ mắc phải từ khi thiên thần mắc đọa.

Trong suốt thời gian đó, ngoài các gánh hát đến rồi đi, có một cuộc trình diễn của một người đàn bà bị biến thành một con nhền nhện vì không vâng lời cha mẹ. Vé vào cửa cũng bằng vé vào xem thiên-thần-mắc-đọa, nhưng người ta được hỏi bà này và được sờ mó từ đầu đến chân để chứng thực là bà ta bị biến hình thật sự. Bà ta là một con nhện đầu người, to bằng một con cừu đực. Nhưng điều làm cho người ta não lòng nhất không phải vì hình dáng của bà ta mà vì sự đau khổ thành khẩn khi bà ta kể lại chi tiết về nỗi bất hạnh bà phải chịu. Khi còn là một cô bé, cô ta đã trốn nhà đi “nhót”. Khi về nhà, sau khi đã nhảy suốt đêm mà không xin phép cha mẹ, cô đi qua một cánh rừng, bỗng một tiếng sấm nổ vang xé bầu trời ra làm hai, và cô bị sét đánh hóa thành một con nhện. Thức ăn của bà ta bây giờ là những viên thịt mà những kẻ hảo tâm quăng vào miệng. Một cảnh tượng như thế, đầy chất “người”, và mang một bài học đáng sợ đến thế gần gũi với loài người hơn, và dĩ nhiên, “show” thiên thần không ăn khách nữa. Thêm vào đó, một vài phép lạ xảy ra từ “lão thiên thần” cho thấy lão tâm trí không được bình thường. Một kẻ mù không sáng mắt được mà mọc ra ba cái răng mới, hoặc kẻ què không đi được lại trúng số, và người cùi không hết bịnh mà những vết loét lại trổ những bông hoa hướng dương. Những phép lạ này làm cho lão thần tiên mất hết tiếng tăm khi bà nhện xuất hiện. Khi đó cha Gonzaga mới thực sự hết mất ngủ, và gia đình Pelayo mới trở lại bình thường, vắng vẻ như trong ba ngày mưa dầm với lũ cua bò lúc nhúc trong nhà.

Tuy vậy, chủ nhà cũng chẳng có gì tiếc nuối. Họ đã có đủ tiền để cất một căn nhà hai tầng có ban-công, có vườn, có hàng rào cao ngăn không cho lũ cua lọt vào nhà trong mùa đông, và cửa sổ có song sắt để ngăn không cho ông lão chui vào. Pelayo xây một trại nuôi thỏ gần phố, và bỏ nghề làm phú-lít vĩnh viễn. Elisenda cũng sắm sửa giầy cao gót, áo sa-teng, quần lụa lèo để mặc trong những ngày chủ nhật như những người đàn bà khác thời bấy giờ. Chuồng gà là nơi duy nhất không được tu bổ gì hết. Nếu họ có quét dọn bằng dầu thơm, hay xông trầm đều đều, không phải vì họ kính nể gì ông già mà vì phân dính đầy tứ tung, mùi hôi thối không thể tả cứ ám vào căn nhà mới sẽ làm cho nó cũ đi. Nhưng dần dần họ hết sợ, và dần dần quen với mùi khó chịu đó. Trước khi thằng nhỏ mọc chiếc răng thứ hai, nó lẫm chẫm đi vào chuồng gà để chơi, vì các song chắn đã xiêu vẹo, rụng rơi cả rồi. Lão thiên thần cũng chả tỏ vẻ gì thân mật với nó hơn đối với những sinh vật khác, nhưng lão chấp nhận sự nghịch ngợm vô tư của thằng nhỏ với sự kiên nhẫn của một con chó không có một ảo tưởng nào cả. Cả hai đều bị bệnh đậu gà cùng một lúc. Vị bác sĩ chữa cho thằng nhỏ không ngăn được tính tò mò cố nghe tim thiên thần xem nó đập như thế nào, nhưng ông ta chỉ nghe được những tiếng kêu rù rù trong quả tim, và hàng chục thứ tiếng khác nhau trong trái thận, khiến ông không thể tin là lão có thể sống được. Điều làm cho vị bác sĩ ngạc nhiên nhất là đôi cánh. Nó dính vào xác thịt lão già một cách tự nhiên đến nỗi ông ta tự hỏi tại sao những người khác không thể có được.

Khi thằng nhỏ đến tuổi đi học, thời gian và mưa nắng làm cho chuồng gà sụp đổ. Lão ta đi lê thê trong vườn từ nơi này sang nơi nọ như một bóng ma trơi. Thường sau khi dùng chổi quét lão ta từ trong buồng ngủ ra, lại thấy lão ở trỏng rồi. Dường như lão có thể có mặt tại nhiều nơi trong cùng một lúc đến nỗi họ tin rằng lão có phép phân thân làm Elisenda khó chịu như phải sống trong một địa ngục đầy những thiên thần. Hầu như lão không ăn uống gì cả, và đôi mắt mầu xanh nước biển lúc nào cũng như phủ một lớp sương mờ làm cho lão ta hết va đầu vào cột này lại đâm đầu vào cột khác. Quần áo lão đã rách nát hết, chỉ còn trơ trọi những sợi lông khiến cho Pelayo phải cho lão một tấm mền và động lòng trắc ẩn cho lão ngủ trong nhà kho, và chỉ khi đó họ mới biết lão bị sốt về đêm, và cứ lầu bầu thứ tiếng khó nghe như của một lão già người Na Uy. Có đôi lần họ tưởng rằng lão “đi đứt rồi”. Ngay cả bà hàng xóm thông-thái cũng không biết phải làm sao với một cái xác thiên thần.

Nhưng không những lão “qua hết một mùa đông” mà còn khoẻ ra trong những ngày nắng ấm. Lão vẫn nằm bất động trong vài ngày ở tận một góc vườn nơi ít người để ý. Khi tháng Chạp bắt đầu, một vài chiếc lông vũ mọc trở lại trên đôi cánh, những sợi lông cứng như lông quạ lại càng làm tăng thêm nỗi thảm hại trên một thân hình tiều tụy. Nhưng lão hẳn biết nguyên do của những sự thay đổi này, vì lão rất cẩn thận không để ai chú ý tới, cũng như bài hát về biển lão thường ngân nga dưới những vì sao. Một buổi sáng kia, khi Elisenda đang thái những củ hành cho bữa ăn trưa, thì một cơn gió dường như từ biển thổi vào trong bếp. Nàng chạy ra cửa sổ và bắt gặp lão đang vỗ cánh tập bay, nhưng rất vụng về vì khi té xuống móng tay lão cào thành những luống dài trên những liếp rau, đôi lần suýt nữa làm sụp luôn nhà kho vì đôi cánh chưa đủ sức cản gió. Nhưng sau một lúc lão bay lên được. Nàng thở ra một hơi nhẹ nhõm cho chính nàng, và cho cả lão nữa khi nàng thấy lão từ từ bay bay khuất khỏi những căn nhà cuối cùng với đôi cánh đập như cánh chim ưng. Nàng tiếp tục nhìn theo cho đến khi không còn nhìn thấy nữa, bởi vì lão không còn là một nỗi khó chịu trong đời nàng, mà chỉ như một chấm tưởng tượng ở cuối chân trời.

➖➖➖


 

Phần tiếng Anh

---

A Very Old Man with Enormous Wings

Translated from the Spanish by Gregory Rabassa.

On the third day of rain they had killed so many crabs inside the house that Pelayo had to cross his drenched courtyard and throw them into the sea, because the newborn child had a temperature all night and they thought it was due to the stench. The world had been sad since Tuesday. Sea and sky were a single ash-gray thing and the sands of the beach, which on March nights glimmered like powdered light, had become a stew of mud and rotten shellfish. The light was so weak at noon that when Pelayo was coming back to the house after throwing away the crabs, it was hard for him to see what it was that was moving and groaning in the rear of the courtyard. He had to go very close to see that it was an old man, a very old man, lying face down in the mud, who, in spite of his tremendous efforts, couldn’t get up, impeded by his enormous wings.

Frightened by that nightmare, Pelayo ran to get Elisenda, his wife, who was putting compresses on the sick child, and he took her to the rear of the courtyard. They both looked at the fallen body with a mute stupor. He was dressed like a ragpicker. There were only a few faded hairs left on his bald skull and very few teeth in his mouth, and his pitiful condition of a drenched great-grandfather took away any sense of grandeur he might have had. His huge buzzard wings, dirty and half-plucked, were forever entangled in the mud. They looked at him so long and so closely that Pelayo and Elisenda very soon overcame their surprise and in the end found him familiar. Then they dared speak to him, and he answered in an incomprehensible dialect with a strong sailor’s voice. That was how they skipped over the inconvenience of the wings and quite intelligently concluded that he was a lonely castaway from some foreign ship wrecked by the storm. And yet, they called in a neighbor woman who knew everything about life and death to see him, and all she needed was one look to show them their mistake.

“He’s an angel,” she told them. “He must have been coming for the child, but the poor fellow is so old that the rain knocked him down.”

On the following day everyone knew that a flesh-and-blood angel was held captive in Pelayo’s house. Against the judgment of the wise neighbor woman, for whom angels in those times were the fugitive survivors of a celestial conspiracy, they did not have the heart to club him to death. Pelayo watched over him all afternoon from the kitchen, armed with his bailiff’s club, and before going to bed he dragged him out of the mud and locked him up with the hens in the wire chicken coop. In the middle of the night, when the rain stopped, Pelayo and Elisenda were still killing crabs. A short time afterward the child woke up without a fever and with a desire to eat. Then they felt magnanimous and decided to put the angel on a raft with fresh water and provisions for three days and leave him to his fate on the high seas. But when they went out into the courtyard with the first light of dawn, they found the whole neighborhood in front of the chicken coop having fun with the angel, without the slightest reverence, tossing him things to eat through the openings in the wire as if he weren’t a supernatural creature but a circus animal.

Father Gonzaga arrived before seven o’clock, alarmed at the strange news. By that time onlookers less frivolous than those at dawn had already arrived and they were making all kinds of conjectures concerning the captive’s future. The simplest among them thought that he should be named mayor of the world. Others of sterner mind felt that he should be promoted to the rank of five-star general in order to win all wars. Some visionaries hoped that he could be put to stud in order to implant the earth a race of winged wise men who could take charge of the universe. But Father Gonzaga, before becoming a priest, had been a robust woodcutter. Standing by the wire, he reviewed his catechism in an instant and asked them to open the door so that he could take a close look at that pitiful man who looked more like a huge decrepit hen among the fascinated chickens. He was lying in the corner drying his open wings in the sunlight among the fruit peels and breakfast leftovers that the early risers had thrown him. Alien to the impertinences of the world, he only lifted his antiquarian eyes and murmured something in his dialect when Father Gonzaga went into the chicken coop and said good morning to him in Latin. The parish priest had his first suspicion of an imposter when he saw that he did not understand the language of God or know how to greet His ministers. Then he noticed that seen close up he was much too human: he had an unbearable smell of the outdoors, the back side of his wings was strewn with parasites and his main feathers had been mistreated by terrestrial winds, and nothing about him measured up to the proud dignity of angels. Then he came out of the chicken coop and in a brief sermon warned the curious against the risks of being ingenuous. He reminded them that the devil had the bad habit of making use of carnival tricks in order to confuse the unwary. He argued that if wings were not the essential element in determining the different between a hawk and an airplane, they were even less so in the recognition of angels. Nevertheless, he promised to write a letter to his bishop so that the latter would write his primate so that the latter would write to the Supreme Pontiff in order to get the final verdict from the highest courts.

His prudence fell on sterile hearts. The news of the captive angel spread with such rapidity that after a few hours the courtyard had the bustle of a marketplace and they had to call in troops with fixed bayonets to disperse the mob that was about to knock the house down. Elisenda, her spine all twisted from sweeping up so much marketplace trash, then got the idea of fencing in the yard and charging five cents admission to see the angel.

The curious came from far away. A traveling carnival arrived with a flying acrobat who buzzed over the crowd several times, but no one paid any attention to him because his wings were not those of an angel but, rather, those of a sidereal bat. The most unfortunate invalids on earth came in search of health: a poor woman who since childhood has been counting her heartbeats and had run out of numbers; a Portuguese man who couldn’t sleep because the noise of the stars disturbed him; a sleepwalker who got up at night to undo the things he had done while awake; and many others with less serious ailments. In the midst of that shipwreck disorder that made the earth tremble, Pelayo and Elisenda were happy with fatigue, for in less than a week they had crammed their rooms with money and the line of pilgrims waiting their turn to enter still reached beyond the horizon.

The angel was the only one who took no part in his own act. He spent his time trying to get comfortable in his borrowed nest, befuddled by the hellish heat of the oil lamps and sacramental candles that had been placed along the wire. At first they tried to make him eat some mothballs, which, according to the wisdom of the wise neighbor woman, were the food prescribed for angels. But he turned them down, just as he turned down the papal lunches that the pentinents brought him, and they never found out whether it was because he was an angel or because he was an old man that in the end ate nothing but eggplant mush. His only supernatural virtue seemed to be patience. Especially during the first days, when the hens pecked at him, searching for the stellar parasites that proliferated in his wings, and the cripples pulled out feathers to touch their defective parts with, and even the most merciful threw stones at him, trying to get him to rise so they could see him standing. The only time they succeeded in arousing him was when they burned his side with an iron for branding steers, for he had been motionless for so many hours that they thought he was dead. He awoke with a start, ranting in his hermetic language and with tears in his eyes, and he flapped his wings a couple of times, which brought on a whirlwind of chicken dung and lunar dust and a gale of panic that did not seem to be of this world. Although many thought that his reaction had not been one of rage but of pain, from then on they were careful not to annoy him, because the majority understood that his passivity was not that of a hero taking his ease but that of a cataclysm in repose.

Father Gonzaga held back the crowd’s frivolity with formulas of maidservant inspiration while awaiting the arrival of a final judgment on the nature of the captive. But the mail from Rome showed no sense of urgency. They spent their time finding out if the prisoner had a navel, if his dialect had any connection with Aramaic, how many times he could fit on the head of a pin, or whether he wasn’t just a Norwegian with wings. Those meager letters might have come and gone until the end of time if a providential event had not put and end to the priest’s tribulations.

It so happened that during those days, among so many other carnival attractions, there arrived in the town the traveling show of the woman who had been changed into a spider for having disobeyed her parents. The admission to see her was not only less than the admission to see the angel, but people were permitted to ask her all manner of questions about her absurd state and to examine her up and down so that no one would ever doubt the truth of her horror. She was a frightful tarantula the size of a ram and with the head of a sad maiden. What was most heartrending, however, was not her outlandish shape but the sincere affliction with which she recounted the details of her misfortune. While still practically a child she had sneaked out of her parents’ house to go to a dance, and while she was coming back through the woods after having danced all night without permission, a fearful thunderclap rent the sky in two and through the crack came the lightning bolt of brimstone that changed her into a spider. Her only nourishment came from the meatballs that charitable souls chose to toss into her mouth. A spectacle like that, full of so much human truth and with such a fearful lesson, was bound to defeat without even trying that of a haughty angel who scarcely deigned to look at mortals. Besides, the few miracles attributed to the angel showed a certain mental disorder, like the blind man who didn’t recover his sight but grew three new teeth, or the paralytic who didn’t get to walk but almost won the lottery, and the leper whose sores sprouted sunflowers. Those consolation miracles, which were more like mocking fun, had already ruined the angel’s reputation when the woman who had been changed into a spider finally crushed him completely. That was how Father Gonzaga was cured forever of his insomnia and Pelayo’s courtyard went back to being as empty as during the time it had rained for three days and crabs walked through the bedrooms.

The owners of the house had no reason to lament. With the money they saved they built a two-story mansion with balconies and gardens and high netting so that crabs wouldn’t get in during the winter, and with iron bars on the windows so that angels wouldn’t get in. Pelayo also set up a rabbit warren close to town and gave up his job as a bailiff for good, and Elisenda bought some satin pumps with high heels and many dresses of iridescent silk, the kind worn on Sunday by the most desirable women in those times. The chicken coop was the only thing that didn’t receive any attention. If they washed it down with creolin and burned tears of myrrh inside it every so often, it was not in homage to the angel but to drive away the dungheap stench that still hung everywhere like a ghost and was turning the new house into an old one. At first, when the child learned to walk, they were careful that he not get too close to the chicken coop. But then they began to lose their fears and got used to the smell, and before they child got his second teeth he’d gone inside the chicken coop to play, where the wires were falling apart. The angel was no less standoffish with him than with the other mortals, but he tolerated the most ingenious infamies with the patience of a dog who had no illusions. They both came down with the chicken pox at the same time. The doctor who took care of the child couldn’t resist the temptation to listen to the angel’s heart, and he found so much whistling in the heart and so many sounds in his kidneys that it seemed impossible for him to be alive. What surprised him most, however, was the logic of his wings. They seemed so natural on that completely human organism that he couldn’t understand why other men didn’t have them too.

When the child began school it had been some time since the sun and rain had caused the collapse of the chicken coop. The angel went dragging himself about here and there like a stray dying man. They would drive him out of the bedroom with a broom and a moment later find him in the kitchen. He seemed to be in so many places at the same time that they grew to think that he’d be duplicated, that he was reproducing himself all through the house, and the exasperated and unhinged Elisenda shouted that it was awful living in that hell full of angels. He could scarcely eat and his antiquarian eyes had also become so foggy that he went about bumping into posts. All he had left were the bare cannulae of his last feathers. Pelayo threw a blanket over him and extended him the charity of letting him sleep in the shed, and only then did they notice that he had a temperature at night, and was delirious with the tongue twisters of an old Norwegian. That was one of the few times they became alarmed, for they thought he was going to die and not even the wise neighbor woman had been able to tell them what to do with dead angels.

And yet he not only survived his worst winter, but seemed improved with the first sunny days. He remained motionless for several days in the farthest corner of the courtyard, where no one would see him, and at the beginning of December some large, stiff feathers began to grow on his wings, the feathers of a scarecrow, which looked more like another misfortune of decreptitude. But he must have known the reason for those changes, for he was quite careful that no one should notice them, that no one should hear the sea chanteys that he sometimes sang under the stars. One morning Elisenda was cutting some bunches of onions for lunch when a wind that seemed to come from the high seas blew into the kitchen. Then she went to the window and caught the angel in his first attempts at flight. They were so clumsy that his fingernails opened a furrow in the vegetable patch and he was on the point of knocking the shed down with the ungainly flapping that slipped on the light and couldn’t get a grip on the air. But he did manage to gain altitude. Elisenda let out a sigh of relief, for herself and for him, when she watched him pass over the last houses, holding himself up in some way with the risky flapping of a senile vulture. She kept watching him even when she was through cutting the onions and she kept on watching until it was no longer possible for her to see him, because then he was no longer an annoyance in her life but an imaginary dot on the horizon of the sea.

➖➖➖