Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 211 đăng ngày 2023-10-28
***
Ngư Ông và Biển Cả (5)
Tác giả: Ernest Hemingway
Dịch giả: Phùng Khánh, Phùng Thăng
Nguyên bản tiếng Anh: The Old Man and the Sea
Nguồn: Project Gutenberg Canada ebook #948

Ernest Hemingway

(Giải Nobel Văn học 1954)

---


Lời tựa trước khi đọc truyện:

Trước khi nhàn đọc bài post lần này, “Tiểu thuyết chiều thứ Bảy” xin phép đăng vài dòng nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập “Hội sinh viên và Việt kiều yêu nước tại Bỉ” (ngày 6&7/10/1973), 45 năm đoàn học sinh BelUnion đầu tiên đặt chân lên đất Bỉ.

“Hội sinh viên và Việt kiều yêu nước tại Bỉ”

Xin trích đoạn bài viết “Phong trào sinh viên và Việt kiều yêu nước tại Bỉ” do anh Đỗ Tấn Sĩ biên soạn (đăng lần đầu ngày 23-9-2005, hiệu đính ngày 12-12-2020):

***

4. Giai đoạn thành lập Hội 1972-1973

Giữa năm 1972, nhận thấy việc thống nhất lực lượng trong một Hội đoàn chung đã được mọi người tán thành, được sự khuyến khích của phong trào Pháp và đại diện của cách mạng trong nước tại Paris, anh chị nòng cốt phong trào Bỉ cũng người anh lớn nhất trong phong trào là PGS. Tăng Văn Hải, PGS UCL. Anh Hải sốt sắng đứng ra kêu gọi mọi nhóm tham gia, lập Ban trù bị, dự thảo nội quy. Trên nguyên tắc thì dễ, đi vào cụ thể từng câu chữ mới thấy khó vì khái niệm tập trung dân chủ, phương thức bầu cử, v.v… hãy còn mới mẻ, dễ sinh hiểu lầm, phải mất nhiều ngày tháng, nhiều phiên họp sóng gió mới đi đến nhất trí.

Việc chuẩn bị thành lập Hội đang tiến hành thì tin vui Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết ngày 27-01-1973 sau chiến thắng Điện Biên Phủ trên không vô cùng hào hùng của quân dân miền Bắc vào mùa Noël 1972.

Hội được thành lập trong hai ngày 6 và 7-10-1973 tại Werbomont trong vùng đồi núi Ardennes nước Bỉ với khoảng 60 hội viên đầu tiên, lấy tên là Hội sinh viên và Việt kiều yêu nước tại Bỉ, trong một tuần lễ trang nghiêm và cảm động. Các chị và nhiều anh không cầm được nước mắt khi đứng lên nghe đọc Tuyên ngôn thành lập Hội, trong đó có lời hứa với đồng bào hai miền Nam Bắc, với các ba má ở các đô thị miền Nam còn bị chiếm đóng sẽ cố gắng học giỏi, công tác hăng say, xứng đáng là con em của một dân tộc anh hùng. Đại hội bầu ra Ban chấp hành do anh Tăng Văn Hải làm chủ tịch, anh Đỗ Tấn Sĩ làm phó chủ tịch và anh Ngô Đức Chí làm Tổng thư ký. Hội có 5 chi hội, hoạt động bán công khai để bảo vệ hội viên, xuất bản một tờ báo lấy tên là Kết Hợp với ý nghĩa phải đoàn kết, hợp sức với nhau để đấu tranh cho đất nước.

Cũng vào năm 1973, Hội hữu nghị Bỉ - Việt Nam (Association Belgique-Viet-nam) được thành lập với GS. François Houtart làm chủ tịch và nguyên TNS Đảng cộng sản Bỉ Jean Verstappen làm Tổng thư ký. Từ đó đến nay, dưới sự lãnh đạo của ông Verstappen, ABV luôn luôn kề vai sát cánh với Hội, tổ chức thành công hàng trăm hoạt động như mít-tinh, hội thảo, chiếu phim, Quốc khánh, Tết, giúp các đoàn trong nước sang dự hội nghị, mít tinh tố cáo tội ác Mỹ ngụy, công tác, v.v…

Trong thời gian thành lập Hội, hoạt động của phong trào thêm khởi sắc với sự ra đời của Nhóm sinh hoạt văn nghệ sinh viên Liège, được rất đông anh chị em sinh viên trẻ tham gia, không thể kể hết ra đây trong khuôn khổ bài viết này. Phải nói rằng các anh chị em trong nhóm hết sức có công trong việc vận động người sinh viên bình thường trở thành người yêu quê hương, đất nước qua những đêm dân ca, sử ca, tranh đấu ca, đêm hát cứu trợ đồng bào, các đêm hát nhạc sinh viên Sài Gòn, trình diễn vở kịch thơ Tiếng gọi Lam Sơn, đêm Hòa Bình.

Từ kỳ lễ Pâque (lễ Phục sinh) năm 1973 cho đến hơn mười năm sau, phong trào Bỉ đều đặn tổ chức những trại mùa xuân, mùa hè, có các bạn ở phong trào Đức qua tham dự, rất vui tươi, đầm ấm và ích lợi.

***

BelUnion

Xin phép được trích đăng bài viết nhân chuyến trở lại thăm Bỉ của một số thành viên BelUnion từ ngày 12/09/2019 đến ngày 18/09/2019.

***

#BelUnion. Ngày xửa ngày xưa … cuối năm 1978 và năm 1979. Để dễ hình dung, năm đấy sau năm 1975 là 3 năm. Mà năm 1975 sau 1945 là 30 năm. Việt Nam sau ngày Độc lập (2/9/1945) là chiến tranh và chia cắt. Chúng tôi lớn lên trong chiến tranh, bom đạn, đói khổ, chia cắt. Cả một dân tộc như vậy, không riêng gì chúng tôi. Người ta nói rằng một vết thương 30 năm của một đất nước phải cần ít nhất 40-50 năm để hồi phục. (Hình như là đúng phải không nhỉ?) Thế hệ chúng tôi được “may mắn” trải nghiệm qua tất cả các giai đoạn ấy.

Chúng tôi đến Belgium chia làm 3 đợt, gọi theo “phương ngữ” BelUnion là 3 thê đội:

@Thê đội 1: Đến Bruxelles sáng thứ Năm 26/10/1978 gồm 10 anh (xếp theo ABC): Đặng Quốc Anh, Phạm Mạnh Cổn, Trương Quốc Dũng, Lê Thái Hồng, Nguyễn Khiêm, Lê Đức Kiển, Nguyễn Hồng Quang, Mai Huy Thế, Trần Văn Thìn, Lê Văn Vọng;

@Thê đội 2: Đến Bruxelles vào thứ Tư 1/11/1978: gồm 11 anh (xếp theo ABC): Lương Mạnh Bá, Nguyễn Ngọc Hà, Phạm Hồng Hải, Phan Huấn, Nguyễn Sỹ Huề, Nguyễn Quốc Khánh, Lê Văn Lợi, Vũ Xuân Minh, Trần Hữu Nam, Lê Thanh Nhân, Trần Quốc Trung;

@Thê đội 3: Đến Bruxelles vào cuối năm 1979 gồm 20 anh (xếp theo ABC): Dương Văn An, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Đàm, Trần Quang Đẩu, Trần Văn Điệt, Phạm Quang Hà, Nguyễn Viết Hải, Trần Văn Hùng, Nguyễn Viết Khôi, Phạm Mạnh Lâm, Tạ Ngọc Long, Phạm Văn Năng, Nguyễn Kỳ Phượng, Đặng Đình Quang, Nguyễn Minh Tân, Bạch Văn Thuần, Trương Tiến Thục, Vũ Đức Trọng, Nguyễn Văn Vinh, Ngô Trọng Vũ;

Chú ý: Các đoàn đến sau, do không có thông tin chính xác nên xin phép không đăng.

-

Sao lại có tên là BelUnion. Chúng ta tách từ này ra thành 2 vế gồm BelUnion.

*. Bel là tiếp đầu ngữ của Belgium (Belgique). Đồng thời khi phát âm Bel cũng có nghĩa là đẹp – trong tiếng Pháp là Beau - Belle, trong ngôn ngữ Latin là Bellus – Bella. Belle trong tiếng Anh còn có nghĩa là “đẹp nhất”, ví dụ: “Belle of the season”.

*. Union có nhiều nghĩa nhưng chúng tôi chọn từ “Hợp nhất”. Từ “Union” có lịch sử phát triển từ Latin (và tiếng Pháp cổ) là “Unus” (một) – “Unio” (đoàn kết) biến thành từ “Union” trong tiếng Anh vào thời kỳ Trung hưng.

**. Như vậy, BelUnion là “Hợp nhất các bạn hữu đã từng học tập, nghiên cứu và sinh sống tại đất nước Belgium (Belgique) xinh đẹp từ thời kỳ từ năm 1978 đến nay”.

***

Kỷ niệm xưa

Hẳn nhiên, các dịp như thế này là lúc chúng ta cùng nhau ôn lại kỷ niệm xưa. Chắc chắn là rất nhiều. Lục tìm trong kho tàng lưu ký, tôi tìm thấy một video clip do UVB (Union des Vietnamiens en Belgique) biên soạn mà chủ biên (tôi đoán mò một cách có cơ sở) là Madame Đỗ Thị Chương Đài và Mr. Phan Ngọc Lân. Video clip này tập hợp các bức ảnh chụp được từ năm 1972 đến năm 2018 nhân dịp kỷ niệm 45 năm thành lập Hội, năm 2018. Để tiện cho anh/chị tham khảo, tôi đã upload video clip này lên kênh Youtube tại đây: https://www.youtube.com/watch?v=OqO-4o-9E-I 

-:-


Phần truyện “Ngư Ông và Biển Cả (5)

***

“Cũng không đến nỗi tồi”, lão nói. “Và nỗi đau nhức thì chẳng hề gì đối với một người đàn ông”.

Lão thận trọng nắm sợi dây để nó không lọt xuống những đường vừa bị cứa và di chuyển người để bàn tay trái có thể nhúng xuống nước bên phía mạn thuyền kia.

“Kể ra mày cũng được việc đấy”, lão nói với bàn tay trái. “Nhưng có lúc tao đã không tìm thấy mày”.

Tại sao ta không được sinh ra với hai bàn tay khỏe? Lão nghĩ. Có lẽ đấy là lỗi của ta vì ta không chịu tập luyện đúng cách. Nhưng Chúa biết nó có đủ cơ hội để học hỏi. Dẫu sao tối qua nó cũng không đến nỗi quá tồi. Nếu nó lại bị chuột rút thì ta cứ để sợi dây cắt phăng nó đi.

Khi nghĩ như thế, lão biết đầu lão không còn minh mẫn nữa và lão nghĩ nên ăn thêm ít thịt cá dorado. Nhưng mình không thể, lão tự nhủ. Thà rằng hơi váng đầu một chút còn hơn là bị xuống sức do nôn. Kể từ lúc mặt mình vùi vào đó, mình biết mình chẳng kiềm được nôn nếu mình ăn chỗ cá ấy. Mình sẽ để đấy đến lúc thật cần thiết dẫu cho nó có hỏng thì thôi. Bây giờ đã quá muộn để giữ gìn sức khỏe dẫu cho đấy có là chất bổ dưỡng gì đi nữa. Mày thật ngốc, lão tự mắng. Ăn ngay con cá chuồn kia đi.

Con cá nằm đó, sạch sẽ và sẵn sàng; lão đưa tay phải nhặt lên, nhai xương thật cẩn thận, ăn hết, từ đầu đến tận đuôi.

Thịt cá chuồn nhiều đạm hơn nhiều loài cá khác, lão nghĩ. Chí ít thì cũng giúp mình phục hồi sức đến mức cần thiết. Giờ thì mình đã làm xong những việc có thể, lão nghĩ. Nó cứ lượn vòng đi và trận đấu hãy bắt đầu.

Mặt trời đang mọc lên lần thứ ba kể từ lúc lão ra khơi thì con cá bắt đầu lượn vòng.

Lão chưa thể nhìn độ nghiêng của sợi dây để biết con cá đang bơi tròn. Hãy còn quá sớm cho điều đó. Lão chỉ cảm nhận áp lực của sợi dây hơi chùng lại và dùng tay phải, lão nhẹ nhàng kéo vào. Sợi dây chững lại, như mọi khi, nhưng lão kéo đến điểm sắp đứt thì sợi dây bắt đầu thu vào. Lão lách vai và đầu ra khỏi sợi dây và bắt đầu từ từ kéo nhịp nhàng. Lão dùng cả hai tay, lắc người, dồn hết lực của cả cơ thể, của chân trụ ra mà kéo. Đôi chân già nua và vai lão bắt nhịp với mỗi cử động qua lại của đôi tay.

“Vòng tròn rất lớn”, lão nói. “Nhưng con cá đã quay tròn”.

Rồi sợi dây không nhích thêm tí nào nữa, lão kéo cho tới lúc lão thấy trong ánh nắng, những giọt nước từ sợi dây bắn ra. Thế rồi sợi dây bị kéo xuống, ông lão quì gối để nó lao hút trở lại vào trong vùng nước tối.

“Bây giờ nó đang lượn đến chỗ xa nhất của vòng tròn rồi đấy”, lão nói. Mình phải dốc sức ra mà níu lại, lão nghĩ. Độ căng sẽ dần thu hẹp các vòng lượn. Có lẽ độ tiếng nữa mình sẽ nhìn thấy nó. Bây giờ mình phải khuất phục nó rồi sau đó mình phải giết nó.

Nhưng con cá vẫn chậm rãi lượn vòng và hai giờ sau mồ hôi ướt đẫm người ông lão, lão mệt đến tận xương. Bây giờ vòng tròn đã hẹp hơn nhiều; nhìn độ chếch của sợi dây lão có thể biết con cá dần ngoi lên trong lúc bơi.

Ông lão thấy hoa mắt suốt cả tiếng đồng hồ, mồ hôi làm mắt lão cay xè, vết cắt trên trán và mắt lão ran rát. Lão không ngại chuyện hoa mắt. Chứng ấy bình thường khi cứ phải căng người ra mà kéo sợi dây. Nhưng đã hai lần lão cảm thấy chóng mặt và choáng váng; điều ấy khiến lão sợ.

“Ta không thể lả người chết vì một con cá như thế này được”, lão nói. “Bây giờ là lúc ta đưa nó lên một cách thật hoàn hảo, Chúa giúp ta chịu đựng. Ta sẽ đọc một trăm lần kinh lạy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ. Nhưng lúc này thì ta chưa thể”.

Cứ xem như mình đã hứa, lão nghĩ. Mình sẽ đọc sau vậy.

Đúng lúc đó lão cảm thấy sợi dây nảy mạnh, đột ngột; lão dùng cả hai tay giữ. Sợi dây nặng nề, nghiến mạnh, bỏng rát. Lưỡi kiếm của con cá đang quật vào đoạn dây thép đáy, lão nghĩ. Chuyện ấy tất xảy ra. Nó phải làm như thế. Nhưng điều đó sẽ làm con cá nhảy lên, bây giờ mình muốn nó hãy lượn vòng đi thôi. Những cú nhảy cũng cần để nó chứa đầy không khí. Nhưng sau mỗi lần nhảy, chỗ lưỡi câu móc vào sẽ bị rộng hơn rồi nó có thể hất văng ra.

“Đừng nhảy, cá”, lão nói. “Đừng nhảy”.

Con cá quật sợi dây thêm vài lần nữa và cứ mỗi lần nó văng đầu, ông lão lại nới thêm chút dây.

Mình phải giữ cho nó đừng đau quá, lão nghĩ. Nỗi đau của ta thì không thành vấn đề. Ta có thể chế ngự. Nhưng nỗi đau của con cá thì có thể khiến nó cuồng lên.

Lát sau, con cá không quật dây đáy nữa và bắt đầu lại lượn vòng chầm chậm. Bây giờ ông lão thong thả thu dây. Nhưng lão lại cảm thấy choáng váng. Lão đưa tay trái vốc ít nước biển vỗ lên đầu. Rồi lão tiếp tục vỗ thêm, xoa cả xuống gáy.

“Ta không để bị chuột rút”, lão nói. “Chốc nữa nó sẽ ngoi lên và ta có thể cầm cự. Mày phải cầm cự. Chớ có nói lằng nhằng”.

Lão tì gối vào mạn thuyền một lúc rồi lại quàng sợi dây lên lưng. Bây giờ mình sẽ nghỉ một lát trong lúc nó mải lượn vòng dưới kia rồi khi nó ngoi lên mình sẽ đứng dậy chiến đấu, lão quyết định.

Được nghỉ ngơi ở đằng mũi thuyền, để mặc con cá bơi vòng mà không phải kéo dây thì quả thật là cám dỗ quá mức. Nhưng khi độ căng của sợi dây cho thấy con cá quay về phía thuyền, ông lão nhổm người dậy, xoay, lắc người dốc sức kéo sợi dây vào.

Chưa bao giờ mình mệt như thế này, lão nghĩ, bây giờ gió mậu dịch đang nổi lên. Hướng gió thuận lợi để đưa con cá vào bờ. Mình rất cần thứ gió này.

“Lát nữa nó lượn ra, ta sẽ nghỉ”, lão nói. “Ta cảm thấy đỡ hơn nhiều. Chỉ hai ba vòng nữa thôi thì ta sẽ giáp mặt với nó”.

Chiếc mũ rơm của lão trật ra sau gáy, để ý sức kéo của sợi dây, khi cảm thấy con cá lượn lại, lão ngồi xuống mũi thuyền.

Bây giờ mày cứ lượn đi, cá, lão nghĩ. Tao sẽ đợi khi mày quay lại.

Biển dậy sóng. Nhưng gió ấy chỉ xuất hiện vào những lúc thời tiết tốt và lão cần nó để trở về đất liền.

“Ta chỉ việc lái theo hướng Tây Nam”, lão nói.

“Người ta không bao giờ lạc trên biển và xứ sở của mình lại là một hòn đảo dài”.

Đến vòng thứ ba, lão thoáng thấy con cá.

Thoạt tiên lão thấy một cái bóng đen trùi trũi vượt dài qua dưới con thuyền, đến mức lão không thể tin nổi độ dài của nó.

“Không”, lão nói. “Nó không thể lớn như thế được”.

Nhưng đúng là con cá lớn như thế và đến cuối đường vòng, chỉ cách chừng hai lăm mét, nó trồi lên và lão nom thấy cái đuôi nhô lên khỏi mặt nước. Cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm. Nó lại lặn xuống và khi con cá hãy còn mấp mé mặt nước, ông lão có thể nhìn thấy thân hình đồ sộ và những sọc tím sẫm trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to lớn bên sườn đang xòe rộng.

Lần lượn này, ông lão có thể nhìn thấy mắt con cá và cả hai con cá chét xám bơi bên cạnh. Thỉnh thoảng hai con cá này rúc vào mình nó. Rồi có lúc chúng giạt ra. Chốc chốc chúng nhẹ nhàng bơi trong bóng của con cá lớn. Mỗi con dài cả thước và khi bơi nhanh, chúng vặn vẹo toàn thân như thể loài lươn.

Bây giờ ông lão đang toát mồ hôi đầm đìa nhưng không phải vì mặt trời mà là vì một nguyên nhân khác. Cứ mỗi vòng bơi bình lặng của con cá thì lão lại thu dây vào và lão chắc chỉ chừng hai vòng nữa thôi thì lão sẽ có cơ hội phóng lao vào nó.

Nhưng mình phải để nó đến gần, gần, thật gần, lão nghĩ. Mình không cần nhằm vào đầu. Mình phải nhằm thẳng vào tim.

“Hãy bình tĩnh và giữ sức, lão già ạ”, lão nói.

Vòng lượn tiếp theo, lưng con cá đã nhô lên nhưng hãy còn khá xa thuyền. Vòng tiếp theo đó, nó vẫn ở xa nhưng đã nhô mình lên cao hơn và ông lão tin chắc rằng nếu thu thêm dây thì con cá sẽ cặp sát thuyền.

Lão đã chuẩn bị mũi lao trước đấy khá lâu; cuộn dây nhỏ của nó để trong cái xô tròn và một đầu dây đã được buộc vào cái mấu ở mũi thuyền.

Bây giờ con cá lại tiếp tục lượn theo vòng tròn của nó, chỉ có cái đuôi đồ sộ cử động, trông điềm tĩnh và tuyệt đẹp. Ông lão dốc hết sức ra kéo con cá vào gần hơn. Con cá khẽ nghiêng mình trong chốc lát. Rồi trở mình thẳng dậy và bắt đầu lượn thêm vòng nữa.

“Ta đã điều khiển nó”, ông lão nói. “Ta đã điều khiển được nó rồi”.

Lúc này lão thấy xây xẩm mặt mày nhưng vẫn gượng hết sức bình sinh ra mà kéo. Mình khuất phục được nó, lão nghĩ. Có lẽ lần này mình sẽ cho nó đi đứt. Kéo đi, tay ơi, lão thầm giục. Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh táo vì tao, đầu à. Hãy tỉnh táo vì tao. Bọn mày chưa bao giờ bại trận. Lần này ta sẽ khử nó.

Nhưng khi lão tập trung hết sức lực, chuẩn bị dốc kiệt ra trước khi con cá bơi song song với mạn thuyền thì con cá chao mình tránh ra, lật thẳng người lên bơi đi.

“Cá ơi”, ông lão nói. “Cá này, dẫu sao thì mày cũng sẽ chết. Mày muốn tao cùng chết nữa à?”

Cứ cái đà này thì không ổn rồi, lão nghĩ. Miệng lão khô khốc không thể nói nổi, nhưng lúc này lão không thể với lấy chai nước. Lần này mình phải kéo nó cặp mạn, lão nghĩ. Cứ thêm vài vòng nữa thì mình sẽ đuối sức. Không, mày khỏe, lão tự nhủ. Mày sẽ luôn khỏe.

Vòng lượn tiếp theo, lão gần như kìm được con cá. Nhưng lần nữa nó lại lách mình, từ từ bơi ra xa. Mày đang giết tao, cá à, ông lão nghĩ. Nhưng mày có quyền làm như thế. Tao chưa bao giờ thấy bất kỳ ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai.

Giờ thì đầu óc mày đang lú lẫn lên hết cả rồi, lão nghĩ. Mày phải giữ đầu óc tỉnh táo. Hãy giữ đầu óc tỉnh táo và biết cách chịu đựng như một con người. Hay như một con cá, lão nghĩ.

“Đầu ơi, hãy tỉnh táo”, lão nói bằng giọng mà bản thân hầu như không còn nghe nổi. “Hãy tỉnh táo”.

Con cá điềm nhiên lượn thêm hai vòng nữa.

Mình không biết, ông lão nghĩ. Lão có cảm giác như lão có thể đổ sụp xuống bất cứ lúc nào. Mình không biết. Nhưng mình sẽ cố thêm lần nữa.

Lão cố thêm lần nữa và khi kìm con cá, lão tưởng như mình đang ngất đi. Con cá lại giãy ra, chầm chậm bơi xa, cái đuôi đồ sộ lắc lư trong không trung.

Mình sẽ lại cố thêm, ông lão hứa mặc dù hai tay lão đã rã rời và mắt lão không thể nhìn rõ vì hoa quá.

Lão lại cố và mọi chuyện vẫn như cũ. Thế đấy, lão nghĩ và lão cảm thấy xây xẩm cả mặt mày trước lúc bắt đầu. Mình sẽ lại cố thêm một lần nữa.

Cố nén cơn đau, dồn hết tàn lực, dốc hết lòng kiêu hãnh còn lại lão mang ra đương đầu với nỗi đớn đau vô bờ của con cá; con cá tiến gần mạn thuyền, từ từ bơi nghiêng, mõm nó gần như chạm vào ván thuyền và sắp sửa vượt qua, dài, sâu, rộng, ánh bạc, vằn tím sẫm và bất tận trong dòng nước.

Ông lão buông sợi dây xuống, giẫm chân giữ rồi nhấc cao ngọn lao hết mức, vận hết sức bình sinh, cộng thêm sức lực lão vừa huy động trong người, phóng xuống sườn con cá ngay sau cái vây ngực đồ sộ, vươn cao trong không trung ngang ngực ông lão. Cảm thấy mũi sắt cắm phập vào, lão tì người lên ấn sâu xuống rồi dồn hết trọng lực lên cán lao.

Con cá sực tỉnh; mang cái chết trong mình, nó phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trong không trung phía trên ông lão và chiếc thuyền. Thoáng chốc nó rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm lên cả ông lão lẫn con thuyền.

Ông lão cảm thấy choáng váng, đau đớn; lão không thể nhìn rõ. Nhưng lão vẫn kịp đón sợi dây của ngọn lao rồi để nó từ từ chạy qua đôi tay xây xát, và khi đã nhìn rõ, lão thấy con cá nằm ngửa phơi cái bụng ánh bạc của nó lên trời. Cán lao nhô ra từ cái hốc sau vây cá, còn biển thì đang đổi màu bởi máu đỏ loang ra từ tim cá. Thoạt tiên, làn máu đen sẫm trông như bãi cát ngầm trong làn nước biếc sâu hơn ngàn thước. Rồi nó lan rộng nom tựa đám mây. Con cá trắng bạc, thẳng đơ, bồng bềnh trên sóng.

Ông lão thận trọng quan sát khi thị lực còn tỏ. Rồi lão quấn sợi dây mũi lao hai vòng quanh cái mấu ở đầu thuyền và gục đầu vào lòng bàn tay.

“Hãy giữ đầu óc tỉnh táo”, lão nói khi tựa vào mạn thuyền. “Ta là lão già mệt mỏi. Nhưng ta đã giết con cá này, người anh em ta, và bây giờ ta phải làm cái việc nhọc nhằn”.

Lúc này mình phải chuẩn bị dây và thòng lọng để buộc con cá vào mạn thuyền, lão nghĩ. Dẫu cho mình có hai người để nghiêng thuyền kéo nó lên rồi tát nước ra thì chiếc thuyền này cũng không thể chứa nổi nó. Mình phải chuẩn bị mọi thứ, kéo nó vào buộc chặt rồi dựng cột, giong buồm trở về.

Lão kéo con cá cặp sát thuyền để có thể luồn sợi dây qua mang, ra mõm rồi buộc nó vào mũi thuyền. Mình muốn ngắm nó, lão nghĩ, muốn chạm và sờ vào mình nó. Con cá là vận may của ta, lão nghĩ. Nhưng đấy không phải là lý do để ta muốn sờ nó. Ta chắc ta đã sờ trúng tim, lão nghĩ. Khi ta ấn cái cán lao lần thứ hai. Bây giờ phải kéo nó vào, buộc chặt; tròng một chiếc thòng lọng vào giữa thân và một chiếc nữa vào đuôi để buộc nó vào thuyền.

“Làm ngay đi, lão già ơi”, lão nói. Lão hớp một ngụm nước rất nhỏ. “Bây giờ khi trận đấu đã kết thúc, vẫn phải làm một công việc hết sức nhọc nhằn”.

Lão ngước nhìn bầu trời rồi cúi nhìn con cá. Lão chăm chú quan sát mặt trời. Chỉ vừa xế trưa thôi, lão nghĩ. Và gió mậu dịch đang thổi. Cả đám dây câu ấy bây giờ không quan trọng. Thằng bé sẽ cùng mình nối lại khi về đến nhà.

“Đến đây, cá”, lão nói. Nhưng con cá không nhúc nhích. Thay vào đó, lúc này nó nằm dầm mình trong nắng và ông lão phải lôi con thuyền lại chỗ nó.

Khi đến bên con cá và kéo đầu nó tì sát mũi thuyền, lão không thể nào tin được kích thước của nó. Lão tháo sợi dây ở cán lao ra khỏi cái mấu, luồn nó qua mang cá ra miệng, quấn một vòng quanh cái kiếm rồi lại đút sợi dây qua miệng ra mang kia, quấn một vòng quanh miệng cá, gút hai mối dây lại rồi cột vào cái mấu đằng mũi thuyền.

Sau đó lão cắt sợi dây mang ra sau lái buộc thòng lọng vào đuôi cá. Da cá chuyển từ màu gốc, tím sẫm ánh bạc, sang màu trắng bạc và những cái sọc cũng có cùng màu tím nhạt như đuôi nó. Những đường sọc ấy lớn hơn cả bàn tay người xòe rộng, còn mắt nó trông đờ đẫn như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như mắt một vị Thánh trong đám rước.

“Đấy là cách duy nhất để giết nó”, ông lão nói. Kể từ lúc uống nước, lão cảm thấy khỏe hơn và biết lão sẽ không bị ngất, đầu óc lão tỉnh táo. Với cái lối này thì con cá chắc phải nặng hơn nửa tấn, lão nghĩ. Có lẽ còn hơn cả thế. Nếu chỉ tính hai phần ba số lượng thịt từ trọng lượng ấy với giá ba mươi cent một pound thì sẽ được bao nhiêu?

“Ta cần một cái bút chì để tính”, lão nói. “Đầu ta không thạo tính toán. Nhưng ta nghĩ Di Maggio vĩ đại sẽ tự hào về ta hôm nay. Ta không mắc chứng nẻ cựa gà. Nhưng đôi tay và lưng thì thực sự nhức nhối”. Mình chẳng hay chứng nẻ cựa gà là gì, lão nghĩ. Không chừng mình đã mắc chứng ấy mà không biết.

Lão buộc chặt con cá vào mũi, đuôi thuyền và cả vào cái gióng ngang giữa thuyền. Con cá lớn đến nỗi trông như thể ông lão buộc một con thuyền khác lớn hơn nhiều vào thuyền mình. Lão cắt một mẩu dây mang đến buộc chặt cái hàm dưới của con cá vào miệng để miệng nó không há ra, để con thuyền lướt đi càng êm càng tốt. Rồi lão dựng cột, căng buồm với thanh đỡ là cái sào móc ở bên trên và cây sào dài giữ ở bên dưới; cánh buồm vá căng phồng, con thuyền bắt đầu lướt đi; tựa ngả người lên đuôi thuyền, lão lái về hướng Tây Nam.

Lão không cần địa bàn để biết hướng Tây Nam. Lão chỉ cần nương theo hướng gió mậu dịch và chiều xoay trở của cánh buồm. Tốt hơn là mình nên buông một cái vó buộc vào sợi dây nhỏ để kiếm cái gì đó bỏ bụng và làm dịu cơn khát. Nhưng lão chẳng tìm thấy nó, còn mấy con cá mòi thì đã ươn ình. Vậy nên lão dùng cái móc khua một đám rong vàng vùng Nhiệt Lưu lên thuyền khi đám rong đó trôi qua và rũ bắt những con tôm nhỏ rơi xuống lòng thuyền. Chừng hơn mười con và chúng nhảy búng chân như loài bọ chét trên cát. Ông lão dùng ngón cái và ngón trỏ rứt đầu rồi nhai gọn cả vỏ lẫn đuôi. Mấy con tôm rất bé nhưng lão biết chúng giàu chất dinh dưỡng, vả lại mùi vị của chúng thật dễ chịu.

Ông lão vẫn còn trong chai độ hai ngụm nước và sau khi ăn xong chỗ tôm ấy, lão uống hết một nửa. Con thuyền vẫn lướt êm bất chấp vật cản kia; ông lão cặp tay lái vào nách, lái thuyền đi. Lão có thể nhìn thấy con cá, và chỉ khi nhìn đôi tay và cảm nhận cái mạn thuyền dưới lưng, lão biết việc này đã thực sự xảy ra chứ đâu phải trong mơ. Đã có lúc khi cuộc đấu sắp kết thúc, người lão rệu rã đến nỗi lão nghĩ chuyện con cá hẳn là trong mơ. Rồi khi lão thấy con cá tung mình lên khỏi mặt nước, lơ lửng bất động trong không trung trước lúc rơi xuống thì lão chắc chắn là có điều gì đó thực sự quái đản và lão không thể nào tin nổi. Khi ấy lão không thể nhìn rõ, nhưng bây giờ mắt lão lại tỏ như thường.

Bây giờ lão biết con cá, đôi bàn tay và lưng lão đâu phải là mơ. Ta sẽ chóng lành, lão nghĩ. Mình đã rửa sạch máu và nước biển sẽ làm chúng bình phục. Dòng nước tối sẫm của chính vùng Nhiệt Lưu là phương thuốc làm nhanh lành da tay kì diệu nhất. Những gì phải làm bây giờ là giữ cho đầu óc tỉnh táo. Đôi tay đang làm bổn phận của chúng, chúng ta đi nhanh. Với cái miệng bị buộc chặt, cái đuôi dựng thẳng dứng, nhấp nhô, con cá và mình lướt đi như thể hai anh em. Rồi đầu óc lão bắt đầu hơi lẫn lộn, lão nghĩ, nó đang đưa ta vào bờ hay ta đang đưa nó? Nếu ta đang kéo nó phía sau thì chẳng cần phải thắc mắc gì nữa. Nếu con cá ở trên thuyền và dáng vẻ hiên ngang của nó tiêu tan hết thì cũng chẳng cần phải thắc mắc gì nữa. Nhưng cả con cá lẫn ông lão lại đang cặp kè lướt đi nên lão nghĩ, cứ để nó đưa ta vào bờ nếu việc đó làm hài lòng nó. Ta chỉ thạo hơn nó ở mỗi cái trò mánh lới; còn nó thì đâu có làm hại ta chút mảy may.

Thuyền đi nhanh, ông lão nhúng hai bàn tay xuống nước mặn và cố giữ đầu óc tỉnh táo. Nhìn những đám mây tầng vươn cao và những dải mây tơ bên trên, ông lão biết gió nhẹ sẽ còn thổi suốt đêm. Ông lão thường xuyên nhìn con cá để chắc chắn là nó có thực. Đấy là giờ đồng hồ đầu tiên trước khi con cá mập tấn công.

Con cá mập này không phải là tình cờ. Nó ngoi lên từ phía biển sâu khi đám mây máu đen sẫm được hình thành rồi lan nhanh xuống vùng nước sâu hơn ngàn thước. Nó bơi lên rất nhanh và hoàn toàn bất cẩn đến mức đã xé tung mặt nước xanh thẳm, nhao mình trong ánh nắng. Thoáng chốc, nó rơi tõm xuống biển, bắt mùi bơi theo chiếc thuyền và con cá.

Thỉnh thoảng nó bị lạc đường. Nhưng nó lập tức bắt lại mùi, hay một dấu hiệu gì đó, rồi cật lực bơi nhanh về hướng ấy. Nó là loài cá mập Mako cực lớn, cơ thể được cấu trúc để bơi nhanh như bất kì loài cá nào bơi nhanh nhất trên đại dương; mọi thứ trên người nó đều đẹp chỉ trừ bộ hàm.

Lưng nó cũng xanh như lưng loài cá kiếm, bụng nó ánh bạc, da đẹp và bóng mượt. Thân hình nó nom tựa một con cá kiếm, trừ bộ hàm đồ sộ lúc này đang ngậm chặt khi lao nhanh mấp mé mặt nước, chiếc vi cao ngồng trên lưng sừng sững cắt đôi mặt biển. Bên trong cặp môi đôi mím chặt của bộ hàm, tám hàng răng nghiêng chếch vào trong. Chúng không phải là những chiếc răng bình thường có hình kim tự tháp như răng của những loài cá mập khác. Hình dạng chúng như ngón tay của con người quắp lại khi bị chuột rút. Chúng dài gần bằng ngón tay ông lão và sắc bén cả hai mặt. Đây là giống cá được cấu tạo để ăn thịt tất cả các loài cá khác ở đại dương, chúng nhanh nhẹn, khỏe mạnh và được trang bị lợi hại đến mức chúng chẳng còn có bất kỳ đối thủ nào nữa. Bây giờ khi bắt được mùi rõ hơn, con cá tăng tốc, cái vi xanh vùn vụt cắt mặt nước.

Khi nhìn thấy nó lao đến, lão biết đấy là con cá mập không hề biết sợ hãi và sẽ thực hiện đúng những gì nó muốn. Trong lúc quan sát con cá mập tiến đến, lão chuẩn bị cây lao và buộc dây vào. Sợi dây ngắn bởi vì lão đã cắt bớt để buộc con cá.

Bây giờ, đầu óc lão tỉnh táo, bình thản; lão có nhiều quyết tâm nhưng lại ít hi vọng. Cái quá tốt đẹp thì chẳng bền, lão nghĩ. Khi theo dõi con cá mập đang đến gần, lão liếc nhìn con cá kiếm khổng lồ. Cứ như thể là giấc chiêm bao ấy, lão nghĩ. Mình không thể ngăn nó đừng tấn công nhưng có lẽ mình sẽ giết được nó. Dentuso, lão nghĩ. Mẹ mày.

Con cá mập áp nhanh mạn thuyền và khi nó đớp con cá, ông lão trông thấy cái mồm rộng, đôi mắt kì lạ và hàm răng bổ đánh cách một tiếng khi nó cắm phập vào chỗ thịt phía trên đuôi.

Đầu con cá mập nhô khỏi mặt nước, lưng nó cũng đang bềnh lên và ông lão có thể nghe thấy tiếng da thịt từ con cá lớn bị rứt đứt khi lão cắm phập mũi lao xuống đầu con cá mập, ngay điểm giao nhau giữa những đường kẻ ngang mắt và đường chạy thẳng từ mũi nó vắt ra sau. Chẳng có những đường như vậy đâu. Chỉ có cái đầu xanh nhẫy, nặng nề, đôi mắt lớn, tiếng răng nghiến xuống, và tiếng kéo nuốt. Nhưng đấy là vị trí của não và ông lão đã đâm trúng. Lão đâm bằng cả hai bàn tay tứa máu, dốc hết sức lực ấn sâu mũi lao xuống. Lão đâm không bằng hi vọng mà bằng quyết tâm và cả lòng căm hận.

Con cá trằn mình ra, ông lão thấy nó dại đi và khi lật người sang phía kia, con cá tự quấn sợi dây quanh mình hai vòng. Ông lão biết con cá đã chết nhưng nó không thừa nhận điều đó. Lát sau, nằm phơi bụng lên trời, đuôi quật mạnh, hai hàm răng đớp cạch cạch, con cá mập càn đi trên mặt nước như chiếc thuyền đua. Chỗ đuôi nó quật xuống, nước tung trắng xóa, ba phần tư người nó nhô khỏi mặt nước khi sợi dây bị kéo căng, rung rung rồi bật đứt. Con cá mập nằm im một lúc trên mặt nước; ông lão ngắm nó. Rồi nó lặn xuống, rất chậm.

“Nó đớp khoảng hai mươi cân rồi”, ông lão nói lớn. Nó cũng đoạt luôn mũi lao và cả dây nữa, lão nghĩ, còn bây giờ, con cá của mình lại chảy máu rồi những con khác sẽ kéo đến.

Lão chẳng còn muốn nhìn con cá thêm chút nào nữa kể từ lúc nó bị đớp tóc cả thịt da. Lúc con cá bị cắn thì như thể chính bản thân lão cũng đang bị cắn. Nhưng ta đã giết con cá mập cắn con cá của ta, lão nghĩ. Nó là con dentuso lớn nhất mà ta đã từng thấy. Chúa chứng giám rằng ta đã thấy nhiều con cá lớn.

Cái quá tốt đẹp thì khó bền, lão nghĩ. Bây giờ mình ước giá mà chuyện này chỉ như là một giấc mơ và mình chưa hề câu được con cá và hãy còn nằm ngủ một mình trên lớp giấy báo lót giường.

Nhưng con người sinh ra không phải để thất bại”, lão nói. “Con người có thể bị hủy diệt chứ không thể bị khuất phục”. Dẫu sao thì mình cũng lấy làm ân hận vì đã giết chết con cá, lão nghĩ. Bây giờ sắp đến lúc vất vả và mình thì lại không có lấy một mũi lao. Con dentuso đấy độc ác, nham hiểm, khỏe mạnh và liều lĩnh. Nhưng mình thì lại khôn ngoan hơn nó bội phần. Có lẽ không, lão nghĩ. Có lẽ mình chỉ giỏi giang khi còn vũ khí.

“Đừng nghĩ nữa, lão già ạ”, ông lão nói lớn. “Cứ giong buồm theo hướng này và hãy sẵn sàng đối đầu khi sự việc xảy đến”.

Nhưng mình phải tư duy, lão nghĩ. Bởi vì đấy là tất cả những gì mình còn lại. Tư duy và bóng chày. Mình không chắc Di Maggio vĩ đại có thích cái cách mình đâm mũi lao vào não con cá không? Việc ấy chẳng to tát gì, lão nghĩ. Ai cũng có thể làm được. Nhưng anh ta có nghĩ đôi tay ta cũng can đảm trong lúc bị thương như chứng nẻ cựa gà kia không? Ta không thể biết. Gót chân ta chưa bao giờ mắc bệnh gì cả chỉ trừ hồi con cá nhám cựa châm nọc vào khi bị ta đạp phải lúc đang bơi; nọc độc làm tê liệt cả phần chân dưới và nhức nhối không tài nào chịu nổi.

“Nghĩ về chuyện gì vui vui đi, lão già ơi”, lão nói. “Lúc này cứ mỗi phút thì mày lại gần đến nhà hơn. Mất đi hai mươi cân cá thì mày lướt nhẹ hơn”.

Khi vào đến giữa dòng nước thì lão biết rõ chuyện gì có thể xảy ra. Nhưng lúc này thì chẳng thể làm được gì nữa.

“Ừ, phải đấy”, lão nói lớn. “Ta có thể buộc lưỡi dao vào đầu một mái chèo”.

Cặp tay lái vào nách, chận chân lên dây lèo buồm lão làm ngay điều đó.

“Bây giờ”, lão nói, “Ta vẫn là một lão già. Nhưng ta đã có vũ khí”.

Lúc này gió mát rượi, lão lướt nhanh. Lão chỉ nhìn phần phía trước của con cá và hi vọng lại lóe lên.

Có mà ngốc mới không hi vọng, lão nghĩ. Thêm nữa, mình tin chắc đấy là tội lỗi. Đừng nghĩ về tội lỗi nữa, lão nghĩ. Bây giờ, trừ cái chuyện tội lỗi ra thì cũng đã có quá đủ rắc rối rồi. Vả chăng mình đâu có hiểu gì về nó.

Mình đâu có hiểu gì về nó và mình cũng không chắc là mình tin có tội lỗi. Có lẽ giết con cá là tội lỗi. Mình cứ cho là thế mặc dù mình làm điều đó để nuôi sống mình và nhiều người khác. Nhưng nếu thế thì mọi việc đều là tội lỗi hết. Đừng nghĩ về tội lỗi nữa. Đã quá muộn để ân hận và đã có nhiều người được trả lương để làm việc đó. Cứ để họ nghĩ về điều đó. Mày được sinh ra để làm ngư dân như con cá kia được sinh ra để làm cá. San Pedro là dân chài lưới, cha của Di Maggio vĩ đại cũng vậy.

Bởi vì không có gì để đọc và chẳng có radio nên lão cứ nghĩ về mọi thứ có liên quan đến lão, lão nghĩ lan man và cứ tiếp tục nghĩ về tội lỗi. Mày giết con cá không chỉ để giữ mạng sống và để đổi lương thực, lão nghĩ. Mày còn giết nó vì lòng kiêu hãnh và vì mày là người đánh cá. Mày yêu nó khi nó còn sống và mày cũng yêu nó sau đó. Nếu mày yêu con cá thì chẳng có tội lỗi gì khi giết nó. Còn gì nữa không?

“Mày nghĩ quá nhiều, lão già ạ”, lão nói lớn.

Nhưng mày hả dạ khi giết con dentuso, lão nghĩ. Nó sống bằng những con cá sống như mày. Nó không phải là loài vật tìm thịt thối để ăn và cũng không phải là cái dạ dày biết bơi như lũ cá mập kia. Nó đẹp đẽ, cao thượng và chẳng sợ bất cứ thứ gì.

“Ta giết nó chỉ để tự vệ”, ông lão nói lớn. “Và ta đã giết được nó”.

Ngoài ra, lão nghĩ, bằng cách này hay cách khác thì vạn vật cũng sát hại lẫn nhau. Nghề câu cá hại ta y hệt như đã nuôi sống ta vậy. Thằng bé giúp ta sống, lão nghĩ. Ta chớ tự lừa dối mình quá nhiều.

Lão cúi người qua mạn rứt mẩu thịt cá chỗ con cá mập ngoạm dứt. Lão nhai và cảm nhận chất cá và mùi vị dễ chịu của nó. Thịt con cá săn, nhiều nước như chất thịt súc vật, nhưng không đỏ bằng. Thịt con cá không dai, lão biết loại thịt này sẽ được giá cao nhất trên thị trường. Nhưng chẳng có cách nào ngăn không cho mùi cá tỏa trong đại dương và lão biết rằng giai đoạn rất cam go đang đến gần.

Gió vẫn thổi đều. Hướng gió hơi chuyển sang Đông Bắc và lão biết điều đó có nghĩa là gió sẽ không tắt. Nhìn thẳng phía trước, lão chẳng hề thấy một lá buồm, một bóng thuyền hay một làn khói tàu nào cả. Chỉ có đàn cá chuồn phóng lên từ dưới mũi thuyền, bay giạt sang phía kia và những vệt rong vàng của vùng Nhiệt Lưu. Thậm chí lão không còn thấy bóng dáng của một con chim nào nữa.

Trong suốt hai tiếng đồng hồ, lão lái thuyền đi và sau khi tựa người sau lái, thỉnh thoảng nhai một mẩu thịt cá kiếm, cố nghỉ ngơi để phục hồi sức thì lão nom thấy con đầu tiên trong hai con cá mập.

Ay”, lão thốt lớn. Không thể nào diễn nghĩa được từ này và có lẽ nó chỉ là thứ âm thanh vô tình thốt lên khi một người cảm thấy cái đinh xuyên qua tay mình ghim vào gỗ.

Galanos”, lão nói lớn. Bây giờ lão mới trông thấy chiếc vây thứ hai bám sau con thứ nhất; nhìn chiếc vây hình tam giác màu nâu và cách thức quẫy đuôi, lão nhận dạng đó là loài cá-mập-mũi-xẻng. Chúng bắt được mùi, háo hức và trong cơn điên cuồng do bị cái đói thôi thúc, chúng lạc lối rồi lại huyên náo khi định hướng mùi vị. Nhưng mỗi lúc chúng lại đến gần hơn.

Ông lão buộc chặt dây lèo buồm, nêm kỹ bánh lái. Rồi lão cầm mái chèo đã buộc sẵn lưỡi dao. Lão ráng nâng lên từ từ bởi hai bàn tay lão đang nhức nhối. Rồi lão cứ khẽ buông, nắm mái chèo để đôi tay quen dần. Lúc này lão nắm chặt để chúng quen với cơn đau; không nao núng, lão nhìn hai con cá mập đang đến. Giờ thì lão có thể nhìn thấy mấy cái đầu dẹt, phẳng, nhọn như hai mũi xẻng và những chiếc lông vi bên sườn rộng, viền chóp trắng của chúng. Những con cá mập đáng ghét, thối tha, những kẻ săn tìm thịt chết và cũng là những kẻ giết thịt; khi đói chúng đớp cả mái chèo hay cả bánh lái của con thuyền. Loài cá mập này có thể cắt đứt phăng chân và chân chèo của loài rùa khi chúng ngủ lơ mơ trên mặt nước; nếu đói thì chúng tấn công cả con người dưới nước dẫu cho người ấy không có mùi máu cá hay chút nhớt cá nào trên mình.

Ay”, ông lão gọi. “Galanos! Hãy đến đây galanos”.

Chúng đến nhưng lại không theo kiểu của con Mako. Một con lắc mình, lặn khuất dưới thân thuyền; lão có thể nhận thấy chiếc thuyền rung lên khi nó đớp và rứt thịt con cá. Còn con kia giương đôi mắt vàng ti hí nhìn lão rồi há rộng cái mõm như nửa vòng tròn của nó, bất thình lình xáp vào đớp con cá ngay nơi đã bị đớp. Đường nhăn hằn rõ trên đỉnh đầu nâu xám vắt ngược ra sau nơi não của con cá mập nối với xương sống, ông lão cắm mũi dao đầu mái chèo vào chỗ ấy, rút ra đâm vào đôi mắt vàng như mắt mèo của nó. Con cá mập buông mồi, chìm xuống, nuốt vội chỗ thịt đã ngoạm được trong cơn hấp hối.

Chiếc thuyền vẫn cứ chao đảo bởi sức tàn phá của con cá mập còn lại vào con cá; ông lão buông chùng dây lèo buồm để con thuyền lạng sang bên làm con cá mập phải hiện ra. Khi nhìn thấy, lão cúi người qua mạn phóng mũi dao vào nó. Lão mới chỉ chạm vào phần thịt bởi da cá mập rất cứng và lão khó có thể thọc sâu lưỡi dao xuống. Cú đâm dội lại không chỉ làm buốt đôi tay mà còn làm đau cả vai lão nữa. Nhưng con cá mập lại trồi nhanh đầu lên, ông lão đâm thẳng xuống đỉnh đầu bẹt khi mũi nó nhô khỏi mặt nước, áp chặt vào con cá. Ông lão rút dao ra rồi đâm trở lại ngay chính chỗ ấy. Nó vẫn bám chặt con cá bởi bộ hàm đã ngoạm vào, ông lão đâm vào mắt trái. Con cá mập vẫn cứ đeo cứng.

“Không hả?”, ông lão nói rồi phóng dao đâm vào giữa điểm nối xương sống và não. Lúc này, cú đâm đã dễ dàng, lão cảm thấy chỗ xương sụn vỡ tan. Ông lão rút mái chèo lách lưỡi dao vào giữa hàm con cá mập, cạy mở. Lão xoáy lưỡi dao và khi con cá mập buông ra, lão nói, “Cút đi galanos. Cứ chìm sâu cả ngàn thước. Đi mà gặp bạn mày, hay gặp con mẹ mày ấy”.

Ông lão chùi lưỡi dao rồi đặt cây chèo nằm xuống. Lão tìm dây lèo buồm, cánh buồm no gió, lão đưa con thuyền vào bờ.

“Bọn chúng đã xơi hết một phần tư con cá, mà lại vào chỗ thịt ngon nhất nữa cơ chứ”, lão nói lớn. “Giá mà đây chỉ là giấc mộng và ta chưa hề câu được nó. Ta lấy làm tiếc về điều đó, cá à. Nó khiến mọi chuyện hỏng bét cả rồi”. Lão ngừng lại và bây giờ không muốn nhìn con cá nữa. Kiệt máu và bềnh bồng trên sóng, trông con cá có màu bạc xỉn của lớp thủy tráng gương nhưng những cái sọc của nó vẫn rõ nét.

“Lẽ ra ta đừng nên đi quá xa, cá à”, lão nói. “Không nên đối với mày và cả đối với ta. Ta lấy làm tiếc, cá à”.

Nào, lão tự nhủ. Hãy nhìn sợi dây buộc dao xem nó có bị đứt không. Rồi chuẩn bị sẵn sàng bởi vì những con khác sẽ đến.

“Giá mà mình có hòn đá mài dao”, lão nói sau lúc kiểm tra xong sợi dây buộc lưỡi dao vào mái chèo.

“Lẽ ra mình nên mang theo hòn đá ấy”. Lẽ ra mày phải mang theo nhiều thứ, lão nghĩ. Nhưng mày đã không mang, lão già ơi. Giờ thì không phải lúc nghĩ về những thứ mày mang hay không mang. Hãy nghĩ về những việc mày có thể xoay xở với những dụng cụ có sẵn ở đây.

“Mày răn bảo tao quá nhiều lời hay hớm rồi đấy”, lão nói lớn. “Tao mệt mỏi lắm rồi”.

Lão cặp tay lái vào nách và nhúng cả hai bàn tay xuống nước khi con thuyền lướt về phía trước.

“Lạy Chúa, cái con cuối cùng ấy đớp mới nhiều làm sao”, lão nói. “Nhưng bây giờ con thuyền đã nhẹ hơn nhiều”. Lão không muốn nghĩ đến cái bụng dưới rách nát của con cá. Lão biết mỗi cú giật rung của con cá mập thì một mảng thịt bị rứt đi và bây giờ con cá lại để lại một vệt máu loang rộng, trải dài như con đường cao tốc trên đại dương cho họ hàng lũ lĩ nhà cá mập kia.

Con cá này có thể nuôi sống một người suốt cả mùa đông, lão nghĩ. Đừng nghĩ về điều đó nữa. Hãy nghỉ ngơi và xoa dịu đôi tay để bảo vệ chỗ thịt cá còn lại. Bây giờ với tất cả khối mùi vị ấy trong nước, mùi máu từ đôi tay mình sẽ chẳng nghĩa lý gì cả. Vả lại chúng không chảy nhiều máu. Bất kì vết cắt nào cũng đâu phải hoàn toàn vô giá trị. Không chừng, chỗ máu chảy kia sẽ ngăn bàn tay trái khỏi chứng chuột rút.

Bây giờ mình có thể nghĩ về cái gì nhỉ? Lão nghĩ. Chẳng gì cả. Mình phải không suy nghĩ và chờ đợi những con sắp đến. Giá mà chuyện này chỉ là giấc mơ thật, lão nghĩ. Nhưng ai biết được? Không chừng nó lại hóa ra tốt lành.

Con cá mập tiếp theo đi một mình, thuộc loài mũi-xẻng. Nó lao tới như con lợn xông vào máng ăn nếu con lợn ấy có cái mõm rộng đủ để bạn đút lọt đầu mình vào. Ông lão chờ nó đớp con cá rồi phóng mũi dao đầu mái chèo vào não nó. Con cá mập trằn mạnh người ra sau, lúc nó lăn tròn lưỡi dao gãy.

Ông lão cầm lấy tay lái. Thậm chí lão cũng chẳng buồn nhìn con cá mập đồ sộ từ từ chìm xuống nước, lúc đầu còn giữ nguyên kích cỡ, rồi nhỏ dần chỉ còn một chấm nhỏ. Cảnh ấy luôn hấp dẫn lão. Nhưng bây giờ lão cũng chẳng buồn liếc mắt nhìn.

“Bây giờ ta còn cây sào móc”, lão nói.

“Nhưng cây sào ấy chẳng giúp ích gì nhiều. Ta cũng còn hai mái chèo, tay lái và cái chày ngắn”.

Giờ thì chúng thắng ta rồi, lão nghĩ. Còn ta thì đã quá già để có thể vung chày đập chết lũ cá mập kia. Nhưng ta sẽ cố cầm cự nếu trong tay còn hai mái chèo, cái chày ngắn và tay lái.

Lão lại nhúng tay xuống biển. Chiều đang xế, lão chẳng nhìn thấy gì cả ngoài mặt biển và bầu trời. Gió thổi mạnh hơn lúc trước, và lão hi vọng chẳng mấy chốc lão sẽ về đến đất liền.

“Mày đã rã rời, lão già kia”, lão nói.

 

➖➖➖


 

 

Phần tiếng Anh

The Old Man and the Sea (5)

"It is not bad," he said. "And pain does not matter to a man."

He took hold of the line carefully so that it did not fit into any of the fresh line cuts and shifted his weight so that he could put his left hand into the sea on the other side of the skiff.

"You did not do so badly for something worthless," he said to his left hand. "But there was a moment when I could not find you."

Why was I not born with two good hands? he thought. Perhaps it was my fault in not training that one properly. But God knows he has had enough chances to learn. He did not do so badly in the night, though, and he has only cramped once. If he cramps again let the line cut him off.

When he thought that he knew that he was not being clear-headed and he thought he should chew some more of the dolphin. But I can't, he told himself. It is better to be light-headed than to lose your strength from nausea. And I know I cannot keep it if I eat it since my face was in it. I will keep it for an emergency until it goes bad. But it is too late to try for strength now through nourishment. You're stupid, he told himself. Eat the other flying fish.

It was there, cleaned and ready, and he picked it up with his left hand and ate it chewing the bones carefully and eating all of it down to the tail.

It has more nourishment than almost any fish, he thought. At least the kind of strength that I need. Now I have done what I can, he thought. Let him begin to circle and let the fight come.

The sun was rising for the third time since he had put to sea when the fish started to circle.

He could not see by the slant of the line that the fish was circling. It was too early for that. He just felt a faint slackening of the pressure of the line and he commenced to pull on it gently with his right hand. It tightened, as always, but just when he reached the point where it would break, line began to come in. He slipped his shoulders and head from under the line and began to pull in line steadily and gently. He used both of his hands in a swinging motion and tried to do the pulling as much as he could with his body and his legs. His old legs and shoulders pivoted with the swinging of the pulling.

"It is a very big circle," he said. "But he is circling."

Then the line would not come in any more and he held it until he saw the drops jumping from it in the sun. Then it started out and the old man knelt down and let it go grudgingly back into the dark water.

"He is making the far part of his circle now," he said. I must hold all I can, he thought. The strain will shorten his circle each time. Perhaps in an hour I will see him. Now I must convince him and then I must kill him.

But the fish kept on circling slowly and the old man was wet with sweat and tired deep into his bones two hours later. But the circles were much shorter now and from the way the line slanted he could tell the fish had risen steadily while he swam.

For an hour the old man had been seeing black spots before his eyes and the sweat salted his eyes and salted the cut over his eye and on his forehead. He was not afraid of the black spots. They were normal at the tension that he was pulling on the line. Twice, though, he had felt faint and dizzy and that had worried him.

"I could not fail myself and die on a fish like this," he said. "Now that I have him coming so beautifully, God help me endure. I'll say a hundred Our Fathers and a hundred Hail Marys. But I cannot say them now."

Consider them said, he thought. I'll say them later.

Just then he felt a sudden banging and jerking on the line he held with his two hands. It was sharp and hard-feeling and heavy.

He is hitting the wire leader with his spear, he thought. That was bound to come. He had to do that. It may make him jump though and I would rather he stayed circling now. The jumps were necessary for him to take air. But after that each one can widen the opening of the hook wound and he can throw the hook.

"Don't jump, fish," he said. "Don't jump."

The fish hit the wire several times more and each time he shook his head the old man gave up a little line.

I must hold his pain where it is, he thought. Mine does not matter. I can control mine. But his pain could drive him mad.

After a while the fish stopped beating at the wire and started circling slowly again. The old man was gaining line steadily now. But he felt faint again. He lifted some sea water with his left hand and put it on his head. Then he put more on and rubbed the back of his neck.

"I have no cramps," he said. "He'll be up soon and I can last. You have to last. Don't even speak of it."

He kneeled against the bow and, for a moment, slipped the line over his back again. I'll rest now while he goes out on the circle and then stand up and work on him when he comes in, he decided.

It was a great temptation to rest in the bow and let the fish make one circle by himself without recovering any line. But when the strain showed the fish had turned to come toward the boat, the old man rose to his feet and started the pivoting and the weaving pulling that brought in all the line he gained.

I'm tireder than I have ever been, he thought, and now the trade wind is rising. But that will be good to take him in with. I need that badly.

"I'll rest on the next turn as he goes out," he said. "I feel much better. Then in two or three turns more I will have him."

His straw hat was far on the back of his head and he sank down into the bow with the pull of the line as he felt the fish turn.

You work now, fish, he thought. I'll take you at the turn.

The sea had risen considerably. But it was a fair-weather breeze and he had to have it to get home.

"I'll just steer south and west," he said. "A man is never lost at sea and it is a long island."

It was on the third turn that he saw the fish first.

He saw him first as a dark shadow that took so long to pass under the boat that he could not believe its length.

"No," he said. "He can't be that big."

But he was that big and at the end of this circle he came to the surface only thirty yards away and the man saw his tail out of water. It was higher than a big scythe blade and a very pale lavender above the dark blue water. It raked back and as the fish swam just below the surface the old man could see his huge bulk and the purple stripes that banded him. His dorsal fin was down and his huge pectorals were spread wide.

On this circle the old man could see the fish's eye and the two gray sucking fish that swam around him. Sometimes they attached themselves to him. Sometimes they darted off. Sometimes they would swim easily in his shadow. They were each over three feet long and when they swam fast they lashed their whole bodies like eels.

The old man was sweating now but from something else besides the sun. On each calm placid turn the fish made he was gaining line and he was sure that in two turns more he would have a chance to get the harpoon in.

But I must get him close, close, close, he thought. I mustn't try for the head. I must get the heart.

"Be calm and strong, old man," he said.

On the next circle the fish's back was out but he was a little too far from the boat. On the next circle he was still too far away but he was higher out of water and the old man was sure that by gaining some more line he could have him alongside.

He had rigged his harpoon long before and its coil of light rope was in a round basket and the end was made fast to the bitt in the bow.

The fish was coming in on his circle now calm and beautiful looking and only his great tail moving. The old man pulled on him all that he could to bring him closer. For just a moment the fish turned a little on his side. Then he straightened himself and began another circle.

"I moved him," the old man said. "I moved him then."

He felt faint again now but he held on the great fish all the strain that he could. I moved him, he thought. Maybe this time I can get him over. Pull, hands, he thought. Hold up, legs. Last for me, head. Last for me. You never went. This time I'll pull him over.

But when he put all of his effort on, starting it well out before the fish came alongside and pulling with all his strength, the fish pulled part way over and then righted himself and swam away.

"Fish," the old man said. "Fish, you are going to have to die anyway. Do you have to kill me too?"

That way nothing is accomplished, he thought. His mouth was too dry to speak but he could not reach for the water now. I must get him alongside this time, he thought. I am not good for many more turns. Yes you are, he told himself. You're good for ever.

On the next turn, he nearly had him. But again the fish righted himself and swam slowly away.

You are killing me, fish, the old man thought. But you have a right to. Never have I seen a greater, or more beautiful, or a calmer or more noble thing than you, brother. Come on and kill me. I do not care who kills who.

Now you are getting confused in the head, he thought. You must keep your head clear. Keep your head clear and know how to suffer like a man. Or a fish, he thought.

"Clear up, head," he said in a voice he could hardly hear. "Clear up."

Twice more it was the same on the turns.

I do not know, the old man thought. He had been on the point of feeling himself go each time. I do not know. But I will try it once more.

He tried it once more and he felt himself going when he turned the fish. The fish righted himself and swam off again slowly with the great tail weaving in the air.

I'll try it again, the old man promised, although his hands were mushy now and he could only see well in flashes.

He tried it again and it was the same. So, he thought, and he felt himself going before he started; I will try it once again.

He took all his pain and what was left of his strength and his long gone pride and he put it against the fish's agony and the fish came over onto his side and swam gently on his side, his bill almost touching the planking of the skiff and started to pass the boat, long, deep, wide, silver and barred with purple and interminable in the water.

The old man dropped the line and put his foot on it and lifted the harpoon as high as he could and drove it down with all his strength, and more strength he had just summoned, into the fish's side just behind the great chest fin that rose high in the air to the altitude of the man's chest. He felt the iron go in and he leaned on it and drove it further and then pushed all his weight after it.

Then the fish came alive, with his death in him, and rose high out of the water showing all his great length and width and all his power and his beauty. He seemed to hang in the air above the old man in the skiff. Then he fell into the water with a crash that sent spray over the old man and over all of the skiff.

The old man felt faint and sick and he could not see well. But he cleared the harpoon line and let it run slowly through his raw hands and, when he could see, he saw the fish was on his back with his silver belly up. The shaft of the harpoon was projecting at an angle from the fish's shoulder and the sea was discolouring with the red of the blood from his heart. First it was dark as a shoal in the blue water that was more than a mile deep. Then it spread like a cloud. The fish was silvery and still and floated with the waves.

The old man looked carefully in the glimpse of vision that he had. Then he took two turns of the harpoon line around the bitt in the bow and laid his head on his hands.

"Keep my head clear," he said against the wood of the bow. "I am a tired old man. But I have killed this fish which is my brother and now I must do the slave work."

Now I must prepare the nooses and the rope to lash him alongside, he thought. Even if we were two and swamped her to load him and bailed her out, this skiff would never hold him. I must prepare everything, then bring him in and lash him well and step the mast and set sail for home.

He started to pull the fish in to have him alongside so that he could pass a line through his gills and out his mouth and make his head fast alongside the bow. I want to see him, he thought, and to touch and to feel him. He is my fortune, he thought. But that is not why I wish to feel him. I think I felt his heart, he thought. When I pushed on the harpoon shaft the second time. Bring him in now and make him fast and get the noose around his tail and another around his middle to bind him to the skiff.

"Get to work, old man," he said. He took a very small drink of the water. "There is very much slave work to be done now that the fight is over."

He looked up at the sky and then out to his fish. He looked at the sun carefully. It is not much more than noon, he thought. And the trade wind is rising. The lines all mean nothing now. The boy and I will splice them when we are home.

"Come on, fish," he said. But the fish did not come. Instead he lay there wallowing now in the seas and the old man pulled the skiff up onto him.

When he was even with him and had the fish's head against the bow he could not believe his size. But he untied the harpoon rope from the bitt, passed it through the fish's gills and out his jaws, made a turn around his sword then passed the rope through the other gill, made another turn around the bill and knotted the double rope and made it fast to the bitt in the bow. He cut the rope then and went astern to noose the tail. The fish had turned silver from his original purple and silver, and the stripes showed the same pale violet colour as his tail. They were wider than a man's hand with his fingers spread and the fish's eye looked as detached as the mirrors in a periscope or as a saint in a procession.

"It was the only way to kill him," the old man said. He was feeling better since the water and he knew he would not go away and his head was clear. He's over fifteen hundred pounds the way he is, he thought. Maybe much more. If he dresses out two-thirds of that at thirty cents a pound?

"I need a pencil for that," he said. "My head is not that clear. But I think the great DiMaggio would be proud of me today. I had no bone spurs. But the hands and the back hurt truly." I wonder what a bone spur is, he thought. Maybe we have them without knowing of it.

He made the fish fast to bow and stern and to the middle thwart. He was so big it was like lashing a much bigger skiff alongside. He cut a piece of line and tied the fish's lower jaw against his bill so his mouth would not open and they would sail as cleanly as possible. Then he stepped the mast and, with the stick that was his gaff and with his boom rigged, the patched sail drew, the boat began to move, and half lying in the stern he sailed south-west.

He did not need a compass to tell him where south-west was. He only needed the feel of the trade wind and the drawing of the sail. I better put a small line out with a spoon on it and try and get something to eat and drink for the moisture. But he could not find a spoon and his sardines were rotten. So he hooked a patch of yellow gulf weed with the gaff as they passed and shook it so that the small shrimps that were in it fell onto the planking of the skiff. There were more than a dozen of them and they jumped and kicked like sand fleas. The old man pinched their heads off with his thumb and forefinger and ate them chewing up the shells and the tails. They were very tiny but he knew they were nourishing and they tasted good.

The old man still had two drinks of water in the bottle and he used half of one after he had eaten the shrimps. The skiff was sailing well considering the handicaps and he steered with the tiller under his arm. He could see the fish and he had only to look at his hands and feel his back against the stern to know that this had truly happened and was not a dream. At one time when he was feeling so badly toward the end, he had thought perhaps it was a dream. Then when he had seen the fish come out of the water and hang motionless in the sky before he fell, he was sure there was some great strangeness and he could not believe it. Then he could not see well, although now he saw as well as ever.

Now he knew there was the fish and his hands and back were no dream. The hands cure quickly, he thought. I bled them clean and the salt water will heal them. The dark water of the true gulf is the greatest healer that there is. All I must do is keep the head clear. The hands have done their work and we sail well. With his mouth shut and his tail straight up and down we sail like brothers. Then his head started to become a little unclear and he thought, is he bringing me in or am I bringing him in? If I were towing him behind there would be no question. Nor if the fish were in the skiff, with all dignity gone, there would be no question either. But they were sailing together lashed side by side and the old man thought, let him bring me in if it pleases him. I am only better than him through trickery and he meant me no harm.

They sailed well and the old man soaked his hands in the salt water and tried to keep his head clear. There were high cumulus clouds and enough cirrus above them so that the old man knew the breeze would last all night. The old man looked at the fish constantly to make sure it was true. It was an hour before the first shark hit him.

The shark was not an accident. He had come up from deep down in the water as the dark cloud of blood had settled and dispersed in the mile deep sea. He had come up so fast and absolutely without caution that he broke the surface of the blue water and was in the sun. Then he fell back into the sea and picked up the scent and started swimming on the course the skiff and the fish had taken.

Sometimes he lost the scent. But he would pick it up again, or have just a trace of it, and he swam fast and hard on the course. He was a very big Mako shark built to swim as fast as the fastest fish in the sea and everything about him was beautiful except his jaws.

His back was as blue as a sword fish's and his belly was silver and his hide was smooth and handsome. He was built as a sword fish except for his huge jaws which were tight shut now as he swam fast, just under the surface with his high dorsal fin knifing through the water without wavering. Inside the closed double lip of his jaws all of his eight rows of teeth were slanted inwards. They were not the ordinary pyramid-shaped teeth of most sharks. They were shaped like a man's fingers when they are crisped like claws. They were nearly as long as the fingers of the old man and they had razor-sharp cutting edges on both sides. This was a fish built to feed on all the fishes in the sea, that were so fast and strong and well armed that they had no other enemy. Now he speeded up as he smelled the fresher scent and his blue dorsal fin cut the water.

When the old man saw him coming he knew that this was a shark that had no fear at all and would do exactly what he wished. He prepared the harpoon and made the rope fast while he watched the shark come on. The rope was short as it lacked what he had cut away to lash the fish.

The old man's head was clear and good now and he was full of resolution but he had little hope. It was too good to last, he thought. He took one look at the great fish as he watched the shark close in. It might as well have been a dream, he thought. I cannot keep him from hitting me but maybe I can get him. Dentuso, he thought. Bad luck to your mother.

The shark closed fast astern and when he hit the fish the old man saw his mouth open and his strange eyes and the clicking chop of the teeth as he drove forward in the meat just above the tail. The shark's head was out of water and his back was coming out and the old man could hear the noise of skin and flesh ripping on the big fish when he rammed the harpoon down onto the shark's head at a spot where the line between his eyes intersected with the line that ran straight back from his nose. There were no such lines. There was only the heavy sharp blue head and the big eyes and the clicking, thrusting all-swallowing jaws. But that was the location of the brain and the old man hit it. He hit it with his blood mushed hands driving a good harpoon with all his strength. He hit it without hope but with resolution and complete malignancy.

The shark swung over and the old man saw his eye was not alive and then he swung over once again, wrapping himself in two loops of the rope. The old man knew that he was dead but the shark would not accept it. Then, on his back, with his tail lashing and his jaws clicking, the shark plowed over the water as a speed-boat does. The water was white where his tail beat it and three-quarters of his body was clear above the water when the rope came taut, shivered, and then snapped. The shark lay quietly for a little while on the surface and the old man watched him. Then he went down very slowly.

"He took about forty pounds," the old man said aloud. He took my harpoon too and all the rope, he thought, and now my fish bleeds again and there will be others.

He did not like to look at the fish anymore since he had been mutilated. When the fish had been hit it was as though he himself were hit.

But I killed the shark that hit my fish, he thought. And he was the biggest dentuso that I have ever seen. And God knows that I have seen big ones.

It was too good to last, he thought. I wish it had been a dream now and that I had never hooked the fish and was alone in bed on the newspapers.

"But man is not made for defeat," he said. "A man can be destroyed but not defeated." I am sorry that I killed the fish though, he thought. Now the bad time is coming and I do not even have the harpoon. The dentuso is cruel and able and strong and intelligent. But I was more intelligent that he was. Perhaps not, he thought. Perhaps I was only better armed.

"Don't think, old man," he said aloud. "Sail on this course and take it when it comes."

But I must think, he thought. Because it is all I have left. That and baseball. I wonder how the great DiMaggio would have liked the way I hit him in the brain? It was no great thing, he thought. Any man could do it. But do you think my hands were as great a handicap as the bone spurs? I cannot know. I never had anything wrong with my heel except the time the sting ray stung it when I stepped on him when swimming and paralyzed the lower leg and made the unbearable pain.

"Think about something cheerful, old man," he said. "Every minute now you are closer to home. You sail lighter for the loss of forty pounds."

He knew quite well the pattern of what could happen when he reached the inner part of the current. But there was nothing to be done now.

"Yes there is," he said aloud. "I can lash my knife to the butt of one of the oars."

So he did that with the tiller under his arm and the sheet of the sail under his foot.

"Now," he said. "I am still an old man. But I am not unarmed."

The breeze was fresh now and he sailed on well. He watched only the forward part of the fish and some of his hope returned.

It is silly not to hope, he thought. Besides I believe it is a sin. Do not think about sin, he thought. There are enough problems now without sin. Also I have no understanding of it.

I have no understanding of it and I am not sure that I believe in it. Perhaps it was a sin to kill the fish. I suppose it was even though I did it to keep me alive and feed many people. But then everything is a sin. Do not think about sin. It is much too late for that and there are people who are paid to do it. Let them think about it. You were born to be a fisherman as the fish was born to be a fish. San Pedro was a fisherman as was the father of the great DiMaggio.

But he liked to think about all things that he was involved in and since there was nothing to read and he did not have a radio, he thought much and he kept on thinking about sin. You did not kill the fish only to keep alive and to sell for food, he thought. You killed him for pride and because you are a fisherman. You loved him when he was alive and you loved him after. It you love him, it is not a sin to kill him. Or is it more?

"You think too much, old man," he said aloud.

But you enjoyed killing the dentuso, he thought. He lives on the live fish as you do. He is not a scavenger nor just a moving appetite as some sharks are. He is beautiful and noble and knows no fear of anything.

"I killed him in self-defense," the old man said aloud. "And I killed him well."

Besides, he thought, everything kills everything else in some way. Fishing kills me exactly as it keeps me alive. The boy keeps me alive, he thought. I must not deceive myself too much.

He leaned over the side and pulled loose a piece of the meat of the fish where the shark had cut him. He chewed it and noted its quality and its good taste. It was firm and juicy, like meat, but it was not red. There was no stringiness in it and he knew that it would bring the highest price in the market. But there was no way to keep its scent out of the water and the old man knew that a very bad time was coming.

The breeze was steady. It had backed a little further into the north-east and he knew that meant that it would not fall off. The old man looked ahead of him but he could see no sails nor could he see the hull nor the smoke of any ship. There were only the flying fish that went up from his bow sailing away to either side and the yellow patches of gulf-weed. He could not even see a bird.

He had sailed for two hours, resting in the stern and sometimes chewing a bit of the meat from the marlin, trying to rest and to be strong, when he saw the first of the two sharks.

"Ay," he said aloud. There is no translation for this word and perhaps it is just a noise such as a man might make, involuntarily, feeling the nail go through his hands and into the wood.

"Galanos," he said aloud. He had seen the second fin now coming up behind the first and had identified them as shovel-nosed sharks by the brown, triangular fin and the sweeping movements of the tail. They had the scent and were excited and in the stupidity of their great hunger they were losing and finding the scent in their excitement. But they were closing all the time.

The old man made the sheet fast and jammed the tiller. Then he took up the oar with the knife lashed to it. He lifted it as lightly as he could because his hands rebelled at the pain. Then he opened and closed them on it lightly to loosen them. He closed them firmly so they would take the pain now and would not flinch and watched the sharks come. He could see their wide, flattened, shovel-pointed heads now and their white-tipped wide pectoral fins. They were hateful sharks, bad smelling, scavengers as well as killers, and when they were hungry they would bite at an oar or the rudder of a boat. It was these sharks that would cut the turtles' legs and flippers off when the turtles were asleep on the surface, and they would hit a man in the water, if they were hungry, even if the man had no smell of fish blood nor of fish slime on him.

"Ay," the old man said. "Galanos. Come on, Galanos."

They came. But they did not come as the Mako had come. One turned and went out of sight under the skiff and the old man could feel the skiff shake as he jerked and pulled on the fish. The other watched the old man with his slitted yellow eyes and then came in fast with his half circle of jaws wide to hit the fish where he had already been bitten. The line showed clearly on the top of his brown head and back where the brain joined the spinal cord and the old man drove the knife on the oar into the juncture, withdrew it, and drove it in again into the shark's yellow cat-like eyes. The shark let go of the fish and slid down, swallowing what he had taken as he died.

The skiff was still shaking with the destruction the other shark was doing to the fish and the old man let go the sheet so that the skiff would swing broadside and bring the shark out from under. When he saw the shark he leaned over the side and punched at him. He hit only meat and the hide was set hard and he barely got the knife in. The blow hurt not only his hands but his shoulder too. But the shark came up fast with his head out and the old man hit him squarely in the center of his flat-topped head as his nose came out of water and lay against the fish. The old man withdrew the blade and punched the shark exactly in the same spot again. He still hung to the fish with his jaws hooked and the old man stabbed him in his left eye. The shark still hung there.

"No?" the old man said and he drove the blade between the vertebrae and the brain. It was an easy shot now and he felt the cartilage sever. The old man reversed the oar and put the blade between the shark's jaws to open them. He twisted the blade and as the shark slid loose he said, "Go on, galano. Slide down a mile deep. Go see your friend, or maybe it's your mother."

The old man wiped the blade of his knife and laid down the oar. Then he found the sheet and the sail filled and he brought the skiff onto her course.

"They must have taken a quarter of him and of the best meat," he said aloud. "I wish it were a dream and that I had never hooked him. I'm sorry about it, fish. It makes everything wrong." He stopped and he did not want to look at the fish now. Drained of blood and awash he looked the colour of the silver backing of a mirror and his stripes still showed.

"I shouldn't have gone out so far, fish," he said. "Neither for you nor for me. I'm sorry, fish."

Now, he said to himself. Look to the lashing on the knife and see if it has been cut. Then get your hand in order because there still is more to come.

"I wish I had a stone for the knife," the old man said after he had checked the lashing on the oar butt. "I should have brought a stone." You should have brought many things, he thought. But you did not bring them, old man. Now is no time to think of what you do not have. Think of what you can do with what there is.

"You give me much good counsel," he said aloud. "I'm tired of it."

He held the tiller under his arm and soaked both his hands in the water as the skiff drove forward.

"God knows how much that last one took," he said. "But she's much lighter now." He did not want to think of the mutilated under-side of the fish. He knew that each of the jerking bumps of the shark had been meat torn away and that the fish now made a trail for all sharks as wide as a highway through the sea.

He was a fish to keep a man all winter, he thought. Don't think of that. Just rest and try to get your hands in shape to defend what is left of him. The blood smell from my hands means nothing now with all that scent in the water. Besides they do not bleed much. There is nothing cut that means anything. The bleeding may keep the left from cramping.

What can I think of now? he thought. Nothing. I must think of nothing and wait for the next ones. I wish it had really been a dream, he thought. But who knows? It might have turned out well.

The next shark that came was a single shovel-nose. He came like a pig to the trough if a pig had a mouth so wide that you could put your head in it. The old man let him hit the fish and then drove the knife on the oar down into his brain. But the shark jerked backwards as he rolled and the knife blade snapped.

The old man settled himself to steer. He did not even watch the big shark sinking slowly in the water, showing first life-size, then small, then tiny. That always fascinated the old man. But he did not even watch it now.

"I have the gaff now," he said. "But it will do no good. I have the two oars and the tiller and the short club."

Now they have beaten me, he thought. I am too old to club sharks to death. But I will try it as long as I have the oars and the short club and the tiller.

He put his hands in the water again to soak them. It was getting late in the afternoon and he saw nothing but the sea and the sky. There was more wind in the sky than there had been, and soon he hoped that he would see land.

"You're tired, old man," he said. "You're tired inside."

➖➖➖