Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 208 đăng ngày 2023-10-07
***
Ngư Ông và Biển Cả (2)
Tác giả: Ernest Hemingway
Dịch giả: Phùng Khánh, Phùng Thăng
Nguyên bản tiếng Anh: The Old Man and the Sea
Nguồn: Project Gutenberg Canada ebook #948

Ernest Hemingway

(Giải Nobel Văn học 1954)

-:-


“Hôm nay họ thua rồi”, thằng bé nói với lão.

“Điều đó chẳng hề gì. Di Maggio vĩ đại vẫn cứ là Di Maggio”.

“Họ có những cầu thủ khác trong đội”.

“Rõ rồi. Nhưng anh ta thì khác hẳn. Trong liên đoàn khác, nếu giữa Brooklyn và Philadelphia thì chắc ông chọn Brooklyn. Ông còn nhớ đến cả Dick Sisler và những cú vụt bóng lừng danh trên sân đấu trước đây nữa”.

“Không có ai sánh bằng đâu. Trong đời cháu mới chỉ thấy anh ấy là người vụt bóng đi xa nhất”.

“Cháu có còn nhớ thuở anh ấy thường đến Terrace không? Ông muốn mời anh ấy đi câu cùng nhưng lại quá nhút nhát để đưa ra lời đề nghị. Khi ông bảo cháu mời anh ấy thì cháu lại cũng nhát gan”.

“Cháu biết. Đấy là một lỗi lầm tai hại. Chắc anh ấy sẽ đi cùng chúng ta. Rồi chúng ta sẽ giữ kỷ niệm ấy trong suốt cả cuộc đời”.

“Ông cũng muốn đưa Di Maggio vĩ đại đi câu”, ông lão nói.

“Người ta bảo cha anh ấy là ngư dân. Có lẽ anh ấy cũng nghèo như ta và sẽ thông cảm”.

“Cha của Sisler lừng danh thì chẳng nghèo tí nào, ông ta, lúc vào độ tuổi của cháu, đã chơi cho Liên đoàn Big”.

“Khi bằng tuổi cháu, ông đã đứng trước cánh buồm, trên con tàu được trang bị chu đáo đến châu Phi và ông đã nhìn thấy sư tử trên bờ biển vào lúc chiều tối”.

“Cháu biết. Ông đã kể cho cháu nghe rồi”.

“Ta nên nói chuyện về châu Phi hay về bóng chày?”

“Cháu nghĩ là bóng chày”, thằng bé đáp.

“Kể cho cháu nghe về danh thủ John J. McGraw”. Nó nói Jota thay vì chỉ phát âm chữ J.

“Thỉnh thoảng vào những ngày xa xưa ấy, anh ta thường đến Terrace. Nhưng khi đã rượu vào thì anh ta nóng nảy, nói năng nhát gừng và khó đăm đăm. Đầu óc anh ta dồn hết cả vào ngựa và bóng chày. Lúc nào anh ta cũng giữ danh sách ngựa trong túi áo rồi cứ xướng tên qua điện thoại”.

“Ông ta là tay quản lý ra trò”, thằng bé nói.

“Cha cháu nghĩ ông ta là người vĩ đại nhất”.

“Bởi vì lúc nào anh ta cũng đến đây”, ông lão nói.

“Nếu hằng năm Durocher cứ đến đây thì chắc cha cháu sẽ nghĩ anh ta là tay quản lý cừ khôi nhất”.

“Thật ra ai là ông bầu vĩ đại nhất, Luque hay Mike Gonzalez?”

“Ông nghĩ hai người ngang nhau”.

“Còn người đánh cá tài ba nhất là ông”.

“Không. Ông biết nhiều người giỏi hơn”.

Que va”, thằng bé thốt lên.

“Có nhiều người đánh cá giỏi và vài người vĩ đại. Nhưng ông là người duy nhất”.

“Cám ơn. Cháu làm ông hạnh phúc. Ông hy vọng sẽ không có con cá nào cùng vĩ đại như thế để chứng minh rằng ông cháu ta sai”.

“Sẽ chẳng có con cá nào như thế nếu ông vẫn còn khỏe như ông nói”.

“Có lẽ ông không được khỏe như ông nghĩ đâu”, ông lão nói.

“Nhưng ông biết nhiều mẹo và có cách xử lý”.

“Giờ thì ông nên ngủ đi để sáng mai khỏe khoắn. Cháu mang mấy thứ trả Terrace”.

“Vậy thì tạm biệt. Sáng mai ông sẽ đến đánh thức cháu”.

“Ông là cái đồng hồ của cháu”, thằng bé nói.

“Tuổi tác là đồng hồ của ông”, ông lão nói.

“Tại sao người già lại thức giấc quá sớm? Phải chăng là muốn có một ngày dài hơn?”

“Cháu không biết”, thằng bé nói.

“Những gì cháu biết là người trẻ thì ngủ dậy muộn và khó”.

“Ông nhớ”, ông lão nói.

“Ông sẽ đánh thức cháu đúng giờ”.

“Cháu không thích ông đánh thức cháu. Việc đó như thể cháu là kẻ bề dưới”.

“Ông hiểu”.

“Chúc ông ngủ ngon”. Thằng bé đi ra. Ông lão ăn mò, không có đèn trên bàn; ông lão cởi quần dài, đi ngủ trong bóng tối. Lão quấn chiếc quần quanh tờ báo làm gối. Lão cuộn người trong chăn, nằm lên những tờ báo cũ trải trên giát giường.

Lão ngủ ngay và mơ về châu Phi, khi lão hãy còn là một chú nhóc, với những bờ biển cát vàng, cát trắng trải dài, trắng đến nỗi làm mắt đau nhức, những mũi đất cao nhô ra biển, những ngọn núi xám đồ sộ. Bây giờ hằng đêm lão về lại bờ biển ấy và trong mơ lão nghe tiếng sóng gầm, lão thấy đoàn thuyền của người bản địa đang trườn qua những con sóng. Khi ngủ, lão ngửi thấy mùi nhựa đường, mùi gỗ sồi lát boong tàu; rồi lão ngửi thấy hương vị châu Phi theo làn gió đất phả tới vào buổi sáng.

Thông thường khi ngửi thấy làn gió nội địa, lão thức dậy, mặc đồ, đến đánh thức thằng bé. Nhưng đêm nay, gió nội địa đến rất sớm và trong mơ lão biết hãy còn quá sớm nên lão tiếp tục mơ để thấy những mỏm trắng xóa của những hòn đảo nhô trên biển, lát sau lão mơ về những hải cảng khác, những vũng tàu đậu khác của quần đảo Canary.

Lão không còn mơ về bão, không còn mơ về đàn bà, về những sự kiện trọng đại, những con cá lớn, những trận đánh, những cuộc đấu sức hay vợ lão. Bây giờ lão chỉ mơ về các vùng đất, về những con sư tử trên bờ biển. Chúng nô đùa như những chú mèo con trong hoàng hôn; lão yêu chúng như yêu thằng bé. Lão không bao giờ mơ về thằng bé. Lão chợt thức giấc, nhìn ánh trăng bên ngoài cánh cửa để ngỏ rồi giũ quần mặc vào. Lão tiểu bên lều rồi đi lên đường đánh thức thằng bé. Lão rùng mình trong bầu không khí lạnh ban mai. Nhưng lão biết lão sẽ còn run mãi cho đến lúc tay chèo làm lão ấm lên.

Cánh cửa ngôi nhà thằng bé sống không khóa, lão mở rồi khẽ đưa đôi chân trần bước vào. Thằng bé ngủ trên chiếc giường nhỏ ở phòng đầu tiên; và ông lão, trong ánh trăng sắp lặn, có thể nhìn rõ nó. Lão nhẹ nhàng nắm lấy một bàn chân, giữ cho đến khi thằng bé thức giấc, quay lại nhìn lão.

Ông lão gật đầu, thằng bé lấy chiếc quần dài vắt trên ghế cạnh giường, mặc vào khi còn ngồi trên giường. Ông lão ra cửa, thằng bé đi theo. Nó đang ngái ngủ, lão quàng tay qua vai nó và nói, “Ông xin lỗi”.

Qué va”, thằng bé nói. “Đấy là việc mà một người đàn ông phải làm”.

Họ xuống đường đến lều ông lão và suốt dọc đường, trong bóng tối, nhiều người đi chân trần, vác buồm ra thuyền.

Khi hai người đến lều ông lão, thằng bé xách cái xô đựng cuộn dây, cây lao, cây sào móc; còn ông lão vác cột buồm với lá buồm đã quấn lại.

“Ông có muốn uống cà phê không?”, thằng bé hỏi.

“Chúng ta để dụng cụ xuống thuyền rồi đi uống”. Họ uống cà phê trong hộp đựng sữa đặc tại điểm phục vụ những người đánh cá vào sáng sớm.

“Ông ngủ có ngon không?”, thằng bé hỏi. Giờ thì nó dần tỉnh táo hơn như thể giấc ngủ hẵng cứ bám riết lấy nó.

“Rất ngon, Manolin à”, ông lão đáp. “Hôm nay ông cảm thấy tự tin”.

“Cháu cũng thế”, thằng bé nói.

“Bây giờ cháu phải đi lấy cá mòi của ông cháu ta và số mồi tươi của ông. Tự ông ấy mang dụng cụ. Ông ấy chẳng hề muốn bất kỳ ai mang bất cứ thứ gì”.

“Chúng ta thì khác”, ông lão nói. “Ông để cháu mang đồ nghề kể từ lúc cháu lên năm”.

“Cháu biết điều đó”, thằng bé nói.

“Cháu sẽ về ngay. Ông cứ uống thêm tí nữa. Chúng ta có thể uống chịu ở đây”. Nó đi chân không trên lớp san hô đến nhà ướp lạnh nơi mồi được giữ ở đấy. Ông lão chậm rãi uống cà phê. Đấy là tất cả thực phẩm lão có cho một ngày và lão biết lão nên uống. Đã từ lâu, ăn uống đối với lão trở nên chán ngắt và lão không bao giờ mang theo bữa trưa. Lão có một chai nước đằng mũi thuyền và đấy là tất cả lão cần trong một ngày.

Lúc này thằng bé đã quay lại, mấy con cá mòi và hai miếng mồi câu được bọc trong tờ báo, hai người men theo lối mòn đến thuyền, chân giẫm lên lớp cát pha sỏi, nâng con thuyền đẩy xuống nước.

“Chúc ông may mắn”.

“Chúc cháu may mắn”, ông lão nói. Lão tra quai chèo vào cọc, nghiêng người tới trước khua mạnh mái chèo xuống nước; trong bóng tối, lão chèo ra khỏi bến. Có nhiều chiếc thuyền từ các bãi khác ra khơi; ông lão nghe tiếng mái chèo khua nước mặc dù lão không thể nhìn thấy họ bởi bây giờ mặt trăng đã khuất sau rặng đồi.

Thỉnh thoảng, có tiếng ai đó nói trên thuyền. Nhưng hầu hết các thuyền đều im lặng trừ tiếng mái chèo khua nước. Họ tỏa rộng sau khi ra khỏi cửa biển; mỗi người đi đến phần đại dương nơi họ hy vọng tìm thấy cá. Ông lão biết mình sẽ đi thật xa, để lại mùi đất sau lưng, chèo vào vùng hương tinh khôi của đại dương ban mai. Lão thấy ánh lân quang của đám rong vùng Nhiệt lưu trong nước khi lão chèo qua vùng biển mà ngư dân gọi là vùng Giếng lớn, bởi vì độ sâu ở đấy bất thình lình tụt xuống đến bảy trăm sải nước; họ hàng nhà cá đều dồn tất tại đó do xoáy nước dội thẳng vào bờ vách dốc của đáy đại dương. Ở đấy tập trung tôm, cá mòi và thỉnh thoảng hàng đàn cá mực, sống trong những hố sâu nhất ngoi lên gần mặt nước vào ban đêm để làm mồi cho những con cá lang thang.

Trong bóng tối, ông lão có thể cảm nhận bình minh đang đến và lúc chèo, lão nghe thấy những âm thanh run rẩy khi đàn cá chuồn rời mặt nước và cả tiếng lao xao phát ra từ bộ cánh cứng khi chúng lao xao trong bóng tối. Lão rất quý loài cá chuồn bởi chúng là bạn gần gũi của lão trên đại dương. Lão thương cho lũ chim, đặc biệt là loài nhạn đen nhỏ, mỏng manh cứ bay và tìm kiếm mãi nhưng hầu như chẳng tìm thấy gì; lão nghĩ loài chim sống khổ hơn ta trừ mấy cái giống chim kẻ cướp và những loài to xác, kềnh càng. Tại sao tạo hóa lại sinh ra cái giống chim quá xinh xẻo mỏng manh như loài nhạn biển này trong khi đại dương lại có thể quá ư nghiệt ngã? Đại dương tử tế và rất đẹp. Nhưng nó có thể rất độc ác và tráo trở bất thình lình; còn loài chim kia thì phải bay, nhao xuống săn mồi; và tiếng kêu thảng thốt, khẽ khàng của chúng lại quá yếu ớt giữa trùng khơi.

Lão luôn nghĩ về biển như la mar, đấy là cách người ta gọi biển bằng tiếng Tây Ban Nha khi họ yêu biển. Thỉnh thoảng những người yêu biển cũng buông lời nguyền rủa biển nhưng họ luôn nói như thể biển là phụ nữ. Vài tay đánh cá trẻ, sử dụng phao nhựa làm phao câu và đi thuyền máy, sắm được khi gan cá mập được giá, gọi biển là el mar, tức giống đực. Chúng nói về biển như một đối thủ, một địa điểm hay thậm chí là một kẻ thù. Nhưng ông lão thì luôn nghĩ về biển như về một phụ nữ, như cái gì đó có thể ban phát hay chối giữ ơn huệ, và nếu biển làm điều ác độc hay tàn bạo thì bởi lẽ lúc ấy biển không thể nào kìm giữ nổi. Mặt trăng tỏa chiếu trên biển như thể tỏa chiếu trên cơ thể của người đàn bà, lão nghĩ.

Lão buông chèo nhịp nhàng, không phải mất nhiều sức bởi lão làm chủ tốc độ của mình và bởi đại dương bình lặng trừ đôi chỗ có dòng xoáy. Lão đang để dòng chảy đỡ đi một phần ba công việc và khi trời vừa hửng sáng lão thấy mình đã đi xa hơn quãng đường lão nghĩ vào thời điểm ấy.

Mình đã câu ở vùng Giếng lớn suốt cả tuần nay mà chẳng bắt được mống nào hết, lão nghĩ. Hôm nay mình sẽ ra tận nơi các đàn cá bonitoalbacore kiếm ăn và có thể con cá lớn sẽ quanh quẩn đâu đấy.

Trước khi trời sáng rõ, lão buông mồi và thả thuyền trôi theo dòng chảy. Một con mồi ở độ sâu bốn mươi sải. Mồi thứ hai sâu tới bảy mươi lăm sải; mồi thứ ba và thứ tư chìm sâu hút trong làn nước xanh đến độ sâu một trăm và một trăm hai mươi lăm sải. Mỗi con mồi được móc ngược đầu xuống, lưỡi câu giấu trong thân cá, buộc chặt, khâu kỹ và những phần thòi ra của lưỡi câu, đoạn cong và mũi nhọn, thì được che bằng những con cá mòi tươi rói. Chúng bị móc xuyên qua hai mắt tạo thành nửa vòng hoa trên cuống thép. Không còn phần nào của lưỡi câu để con cá lớn có thể nhận ra ngoại trừ hương vị thơm lừng quyến rũ.

Thằng bé cho ông lão hai con cá thu nhỏ tươi, thuộc loài albacore; lão móc chúng vào hai lưỡi câu sâu nhất, chúng nặng như thể mấy hòn chì; còn ở hai lưỡi kia, lão móc một con nục sòng lớn, màu xanh và một con ngừ bạc đã được sử dụng hôm trước; nhưng chúng vẫn còn tốt và xâu cá mòi thơm phức giúp chúng tỏa hương hấp dẫn. Mỗi dây câu, lớn bằng cây bút chì cỡ lớn, được buộc vào một cái phao bằng que gỗ màu xanh lục để bất kỳ một cú kéo, một cú đớp nào vào miếng mồi cũng khiến phao gỗ chìm xuống; mỗi dây câu còn có hai cuộn dây dài bốn mươi sải dự phòng sẵn sàng nối với các cuộn khác để khi cần thiết, con cá có thể có hơn ba trăm sải dây.

Bây giờ lão quan sát mũi của ba chiếc phao gỗ bên mạn thuyền, chèo nhẹ để giữ cho mấy sợi dây thẳng đứng đến độ sâu cần thiết của chúng. Trời đã sáng hẳn và chẳng mấy nữa mặt trời sẽ mọc lên.

Mặt trời nhô lên mặt biển, ông lão có thể nhìn thấy những thuyền khác, chìm thấp trong nước, dàn rộng qua dòng chảy, phía gần bờ. Khi mặt trời rực rỡ hơn, ánh nắng chiếu xuống mặt nước và lát sau, lúc nó cao hẳn lên, mặt biển phẳng lặng phản chiếu ánh nắng dội vào mắt lão làm đau nhức; lão chèo mà không nhìn vào nó nữa. Lão nhìn xuống nước, theo dõi mấy sợi dây được thả thẳng đứng xuống vùng đen của đại dương. Lão giữ chúng thẳng hơn bất kỳ một ai khác, để ở mỗi độ sâu trong vùng nước đen kia sẽ có một con mồi đợi đúng ngay ở đấy, nơi lão muốn dành cho bất cứ con cá nào bơi qua. Các tay câu khác thì để chúng trôi theo dòng chảy và đôi khi chúng chỉ ở độ sâu sáu mươi thay vì một trăm sải như họ muốn. Nhưng, lão nghĩ, mình giữ chúng chính xác. Duy chỉ mình không còn may mắn nữa thôi. Nhưng biết đâu được?

Có thể hôm nay. Mỗi ngày là một ngày mới. Gặp may thì tốt hơn. Nhưng mình ưa sự chính xác. Để khi vận may đến thì mình đã sẵn sàng.

Bây giờ mặt trời đã mọc cao được hai tiếng đồng hồ, nó không làm mắt lão đau nhiều khi nhìn về hướng Đông nữa. Giờ đây, trong tầm mắt, chỉ còn lại ba bóng thuyền, mạn lún sâu xuống nước và ở mãi tít phía trong bờ.

Suốt cả đời, bình minh làm buốt mắt ta, lão nghĩ. Nhưng chúng vẫn còn tinh anh. Vào lúc chiều tối, ta có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị những đốm đen trong mắt. Buổi chiều, ánh nắng mạnh hơn. Nhưng buổi sáng nó làm ta nhức nhối.

Ngay khi đó lão thấy một con hải bằng tung đôi cánh đen dài lượn trên bầu trời trên đầu lão. Nó sà xuống nhanh, nghiêng cánh chao người rồi bay vòng trở lại.

“Nó tóm được con gì rồi”, ông lão nói lớn.

“Nó không chỉ nhìn đâu”.

Lão chèo chậm rãi, đều đặn tiến về phía con chim đang lượn vòng. Lão không vội, lão cần giữ cho những sợi dây thẳng đứng xuống. Nhưng lão hơi nhanh hơn dòng nước một chút trong chừng mực lão vẫn câu đúng, nếu lão không cố bám theo con chim thì lão sẽ không chèo nhanh hơn cách lão thường câu. Con chim bay cao hơn, lại lượn vòng, đôi cánh bất động. Rồi thình lình nó lao xuống, lão thấy đàn cá chuồn tung mình lên khỏi mặt nước, tuyệt vọng bay trên mặt biển.

“Cá dorado”, ông lão nói lớn. “Cá dorado lớn”.

Lão dừng chèo, lôi ra sợi dây câu nhỏ đằng mũi thuyền. Dây câu này có đáy thép và lưỡi câu cỡ trung bình, lão móc mồi bằng một con mòi. Lão buông câu qua mạn thuyền rồi buộc nó vào cái khoen đằng sau lái. Lão tiếp tục móc mồi lưỡi câu khác rồi vẫn để nó cuộn như thế trong bóng mát mũi thuyền. Lão quay lại chèo và trông chừng con chim có sải cánh đen rộng bây giờ đang sà thấp xuống kiếm mồi trên mặt nước.

Khi lão quan sát, con chim lại nhào xuống, nghiêng cánh liệng rồi đập loạn xạ, bất lực khi bám theo đàn cá chuồn. Ông lão có thể nhìn thấy mặt nước khẽ cuộn lên chỗ đàn cá dorado lớn nhao người đuổi theo bầy cá chuồn đang lẩn trốn. Đám cá dorado đang cắt xuyên vùng nước bên dưới đường bay của đàn cá, lao hết tốc lực đợi đàn cá rơi xuống. Đàn cá dorado lớn, lão nghĩ. Chúng dàn rộng ra, lũ cá chuồn có ít cơ hội trốn thoát. Con chim cũng không có cơ hội. Đàn cá chuồn quá lớn so với nó, vả lại chúng lao đi rất nhanh.

Lão nhìn theo đàn cá chuồn cứ phóng lên lặn xuống và những cú chao mình vô ích của con chim. Đàn cá ấy đã rời xa ta, lão nghĩ. Chúng di chuyển nhanh quá và xa quá. Nhưng chắc chắn ta sẽ tóm được một chú đi lạc và có lẽ con cá lớn của ta hẳn quanh quẩn bên chúng. Con cá lớn của ta hẳn đang ở đâu đó.

Bây giờ những đám mây trên đất liền đùn lên tựa những quả núi và bờ biển chỉ còn là một vệt xanh dài với rặng đồi xanh thẫm đằng sau nó. Giờ đây, mặt nước xanh thẫm, thẫm đến nỗi như ngả sang màu tím. Khi nhìn xuống, lão thấy những vệt rêu đỏ trong làn nước tối sẫm và bây giờ mặt trời lấp lánh những tia sáng kỳ lạ. Lão dõi theo mấy sợi dây câu để thấy chúng chạy thẳng xuống ngút khỏi tầm mắt trong đáy nước và lão hạnh phúc khi thấy nhiều rêu biển, bởi đấy là dấu hiệu có cá. Ánh sáng kỳ lạ của mặt trời chiếu vào làn nước cho thấy giờ đây mặt trời đã lên cao hơn, có nghĩa thời tiết thuận; cả hình thù của những đám mây trên đất liền kia cũng báo hiệu điều đó. Nhưng giờ thì con chim đã gần như khuất khỏi tầm mắt, trên mặt nước chẳng còn gì nữa, ngoại trừ những vệt rong Sargasso vàng ệch, bạc màu dưới nắng trời và cái cơ thể nung núc, đỏ tía, nhão nhớt, sặc sỡ đủ màu của một con sứa đang lềnh bềnh bên mạn thuyền. Nó nghiêng mình rồi trở người lại ngay ngắn. Nó háo hức trôi đi tựa cái bong bóng xà phòng, kéo theo những sợi tua dài gần một mét màu đỏ tía chết chóc ngầm trong nước.

Agua mala”, lão nói. “Đồ điếm”.

Từ nơi khẽ đưa mái chèo, lão nhìn xuống nước và thấy những con cá nhỏ có cùng màu với đám sợi tua đang bơi giữa chúng và cả dưới cái bóng nhỏ mà con sứa kia tạo ra khi trôi đi. Lũ cá ấy có khả năng đề kháng với nọc độc sứa. Nhưng con người thì không và có dạo mấy sợi tua ấy vướng vào dây câu, bám ở đó, đỏ tía, nhờn nhợt rồi trong lúc xoay xở với con cá ông lão đã chạm phải làm cả cánh tay lẫn bàn tay nhức nhối như thể khi chạm phải một dây trường xuân độc hay loài sồi độc. Chỉ khác là chất độc từ sứa agua mala khuếch tán nhanh hơn, tựa nhát roi quất vụt xuống.

Cái giống sứa lấp lánh ngũ sắc trông thật đẹp. Nhưng chúng là loài man trá nhất đại dương, ông lão thích nhìn những con rùa biển lớn xơi thịt chúng. Loài rùa nhìn thấy, tiếp cận chúng trực diện, rồi nhắm nghiền mắt để che chắn toàn thân đoạn xông tới chén sạch cả mớ tua lẫn người ngợm của chúng. Ông lão ưa nhìn loài rùa chén thịt chúng và lão thích giẫm nát khi chúng bị bão đánh giạt vào bờ để nghe tiếng lốp bốp khi bị giẫm lên và những mảnh sứa lựt sựt nát ra dưới bàn chân.

Lão yêu giống rùa xanh, lưng khòm, duyên dáng, nhanh nhẹn và giá trị lớn của chúng; lão có tình cảm suồng sã theo kiểu bè bạn với cái giống to đầu, nặng nề, đần đần, da vàng phía trong mai, giao cấu theo kiểu kỳ quặc và hồ hởi chén thịt sứa với đôi mắt nhắm tịt ấy.

Lão chẳng còn lạ gì về giống rùa ấy nữa bởi đã nhiều năm làm nghề săn rùa. Lão xót thương cho cả họ hàng nhà chúng, thậm chí cả với loài lưng hộp khổng lồ, dài bằng chiếc thuyền và cân nặng cả tấn. Hầu hết mọi người đều ác độc với rùa bởi trái tim rùa vẫn đập trong nhiều giờ sau khi đã bị xẻ thịt phanh thây. Nhưng lão nghĩ, trái tim ta cũng như vậy, kể cả đôi chân và đôi tay cũng giống của chúng. Lão ăn những quả trứng rùa trắng để tăng thêm sức lực. Lão ăn suốt cả tháng Năm để đến tháng Chín, tháng Mười khỏe lên đợi con cá lớn thật sự.

Hằng ngày lão cũng uống một lá dầu gan cá mập ở cái thùng lớn trong căn lều nơi nhiều ngư dân cất dụng cụ. Chỗ dầu ấy dành cho bất cứ ngư dân nào muốn. Đa phần trong số họ ghét mùi vị của nó. Nhưng điều đó thì chẳng có tệ hơn việc phải thức dậy vào đúng cái giờ để ra khơi, hơn nữa nó chống cảm lạnh, cúm và rất tốt cho cả thị lực.

Bây giờ ông lão nhìn lên và thấy con chim lại lượn vòng.

“Nó tìm thấy cá”, lão nói lớn. Không có con cá chuồn nào tung mình lên mặt biển và cũng chẳng có con cá mồi nào lượn lờ. Nhưng khi ông lão quan sát, một con cá thu nhỏ phóng lên, vặn mình, lao đầu xuống nước. Con cá lấp lánh trong ánh nắng, sau khi nó rơi xuống thì lần lượt nhiều con khác nhảy lên, chúng túa ra khắp mọi hướng, quẫy tung nước, phóng những bước dài đuổi theo con mồi. Chúng quây tròn con mồi và xâu xé. Nếu chúng không bơi nhanh quá thì mình sẽ đuổi kịp, ông lão nghĩ và nhìn đàn cá quẫy tung bọt nước trắng xóa, con chim bây giờ buông mình sà xuống đàn cá mồi do hoảng sợ nên đã trồi hẳn lên mặt nước.

“Con chim được việc thật”, ông lão nói. Chỉ khi ấy sợi dây ở đuôi thuyền giật giật dưới chân, nơi lão buộc hờ; lão buông tay chèo và cảm thấy độ nặng của một chú cá thu nhỏ đang giật giật khi lão nắm chặt sợi dây, từ từ kéo vào. Sức giãy giụa tăng lên khi lão kéo đến gần và có thể nhìn thấy sống lưng xanh thẫm của con cá trong làn nước và cả màu vàng bên sườn nó trước khi lão kéo bổng nó lên đưa qua mạn vào thuyền. Con cá nằm ở phía đuôi thuyền, trong ánh nắng, trùi trũi như một viên đạn; đôi mắt to đờ đẫn của nó lồi ra khi cái đuôi gọn ghẽ cứ quật, nảy liên hồi trên ván thuyền tìm lối thoát. Động lòng trắc ẩn, ông lão nện vào đầu nó rồi đá cái thân hãy còn run rẩy vào dưới tấm ván sau lái.

“Cá thu”, lão nói lớn. “Nó sẽ là con mồi tuyệt hảo. Gần năm ki lô chứ chẳng chơi”.

Lão không nhớ lần đầu tiên lão nói to một mình như thế là tự bao giờ. Ngày xưa khi lủi thủi một mình, lão thường hát; thỉnh thoảng lão hát vào ban đêm cô đơn trong phiên trực lái trên những chiếc thuyền buồm đánh cá hay thuyền săn rùa. Có lẽ lão bắt đầu nói lớn khi chỉ có một mình, khi thằng bé ra đi. Nhưng lão không nhớ. Ngày lão và thằng bé còn câu cùng nhau, hai ông cháu chỉ nói khi thật cần thiết. Họ nói vào ban đêm hay những khi trời đổ gió mưa. Những người đi biển kiêng nói chuyện nhảm; ông lão luôn thực hiện và tôn trọng điều đó. Nhưng giờ thì lão đã nói rõ lớn ý nghĩ của mình hằng bao nhiêu lần bởi chẳng còn ai có thể nghe thấy để bực mình.

“Nếu người khác nghe mình nói lớn thì chắc họ nghĩ mình điên mất”, lão nói lớn. “Nhưng vì không điên nên mình chẳng quan tâm. Cánh nhà giàu có radio để bầu bạn trên thuyền và ngay cả trên sân bóng nữa”.

Giờ thì không phải là lúc nghĩ về bóng biếc, lão nghĩ. Giờ là lúc chỉ nghĩ về một điều duy nhất. Ta sinh ra để làm gì? Chắc là có một con lớn quẩn quanh đàn cá ấy, lão nghĩ. Mình chỉ tóm được một tên đi lạc trong đàn cá thu đang kiếm mồi. Nhưng chúng di chuyển rất nhanh và đã đi quá xa. Mọi vật xuất hiện trên mặt biển hôm nay sao lại cứ vùn vụt chuồn về hướng Đông Bắc. Có phải là tại giờ khắc trong ngày? Hay đấy là dấu hiệu của thời tiết mà mình không biết?

Bây giờ lão không còn nhìn thấy viền xanh của bờ mà chỉ còn thấy đỉnh của mấy ngọn đồi trắng xóa như thể phủ đầy tuyết, cả những đám mây tựa như ngọn núi tuyết đùn cao bên trên chúng. Biển đen ngòm, ánh nắng tạo thành những hình lăng trụ trong nước. Những cụm rong bể dày đặc bây giờ đã bị nhòa đi bởi mặt trời lên cao và ánh sáng chỉ còn là những khối lăng trụ đồ sộ trong làn nước thẫm; nơi mấy sợi dây câu của lão chìm sâu xuống đáy, lão thấy, sâu hơn cả ngàn rưỡi mét.

Đàn cá thu, dân chài gọi tất cả họ hàng nhà cá này như thế và chỉ phân biệt tên chúng khi mang đi bán hoặc đổi cá mồi, lại lặn sâu xuống nước. Bây giờ mặt trời nóng bỏng, ông lão cảm thấy cái nóng rọi trên gáy và mồ hôi tứa xuống lưng khi lão chèo.

Lão nghĩ mình có thể để thuyền trôi và chợp mắt một chốc trong lúc quấn một đầu dây câu vào ngón chân để nó đánh thức mình dậy. Nhưng hôm nay đã tám mươi lăm ngày và mình vẫn đủ sức để câu suốt cả ngày.

Đúng lúc ấy, quan sát mấy sợi dây, lão thấy một trong mấy cái phao xanh chìm nhanh xuống.

“Nào”, lão nói.

“Nào”, và thu mái chèo, tránh để va vào mạn thuyền. Lão vươn tay phải khẽ cầm sợi dây bằng ngón trỏ và ngón cái. Lão không cảm thấy sức kéo hay độ nặng nào và lão cứ thận trọng giữ sợi dây như thế. Lát sau, sự tiếp xúc lại xuất hiện. Lần này là một cú kéo thăm dò, không dứt khoát và cũng chẳng mạnh mẽ tí nào; lão biết ngay đấy là con gì. Cách xa một trăm sải nước, con cá kiếm đang ăn đám cá mòi che đầu mũi và thân lưỡi câu nơi phần lưỡi câu thòi ra khỏi đầu của con cá thu mồi nhỏ.

Ông lão giữ hờ sợi dây, tay trái nhẹ nhàng tháo nó khỏi phao gỗ. Lúc này lão có thể để nó dễ dàng lướt qua mấy ngón tay để con cá không cảm thấy chút vướng víu gì nữa.

Vào tháng này, xa bờ đến thế, hẳn nó là con cá khổng lồ, lão nghĩ. Đớp mồi đi, cá. Đớp mồi đi. Xin hãy đớp mồi đi. Chúng mới tươi ngon làm sao trong làn nước lạnh, tối om nơi mày ở cách gần hai trăm mét. Hãy lượn một vòng trong làn nước tối và quay lại đớp mồi đi. Lão cảm thấy một cú giật nhẹ rồi một nhát kéo mạnh hơn khi cái đầu của con cá mòi hẳn là khó rứt ra khỏi lưỡi câu. Lát sau hoàn toàn im ắng.

“Tiếp tục đi”, ông lão nói lớn. “Hãy quay lại. Thử ngửi xem. Chúng không hấp dẫn sao? Ăn ngay đi, cả con cá thu nữa. Cứng, mát lạnh và hấp dẫn. Đừng xấu hổ cá à. Ăn chúng đi”.

Lão cầm sợi dây giữa ngón cái và ngón trỏ chờ đợi, theo dõi nó và mấy dây câu khác trong cùng lúc, phòng trường hợp con cá bơi lên hay lặn sâu xuống. Thoáng chốc, dây câu ấy lại bị kéo nhẹ.

“Nó sắp đớp mồi”, ông lão nói lớn. “Xin Chúa hãy giúp nó đớp mồi”. Nhưng con cá không đớp. Nó bỏ đi, ông lão cảm thấy chống chếnh.

“Nó không thể đi”, lão nói. “Chúa biết là nó không thể đi. Nó đang lượn vòng. Có lẽ trước đây nó đã bị dính câu nên nó nhớ đôi điều về chuyện ấy”. Lúc ấy lão cảm thấy sợi dây khẽ giật, lão hớn hở.

“Nó chỉ lượn một vòng thôi mà”, lão nói. “Nó sẽ cắn câu”.

Lão sung sướng cảm nhận cái giật khẽ và rồi lão thấy cái gì đó nặng chịch, căng, không thể nào tưởng tượng nổi. Đấy là độ nặng của con cá và lão để sợi dây tuồn xuống, xuống, xuống mãi hết cuộn dây đầu tiên trong số hai cuộn dây dự trữ. Khi sợi dây tuột xuống, lướt nhẹ qua mấy ngón tay, lão vẫn cảm thấy độ cực nặng mặc dù áp lực của ngón cái và ngón trỏ của lão hầu như chỉ là con số không.

“Một con cá ra trò”, lão nói. “Bây giờ lưỡi câu đã được ngậm trong miệng và nó đang lôi đi”.

Lát nữa nó sẽ lượn lại và nuốt, lão nghĩ. Lão không nói ra điều ấy bởi lão biết nếu người ta nói ra điều tốt lành thì nó sẽ không xảy ra. Lão biết đấy là con cá khổng lồ và lão hình dung nó bơi trong vùng nước tối, miệng cắp ngang con cá thu. Vào lúc đó, lão cảm thấy nó ngừng di chuyển nhưng sức nặng vẫn cứ trĩu xuống. Rồi sức nặng gia tăng, lão nới thêm dây. Lão dùng ngón cái và ngón trỏ cố níu sợi dây lại một lúc nhưng sức nặng vẫn không ngừng tăng lên, lôi tuột sợi dây xuống.

“Nó đã đớp mồi”, lão nói. “Giờ thì ta sẽ để cho nó nuốt hẳn”.

Vẫn để sợi dây tuồn qua mấy ngón tay, lão dùng tay trái nối đầu sợi dây vào cả hai cuộn dây dự trữ kia. Lúc này lão đã sẵn sàng. Lão đã có ba cuộn dây dự trữ với tổng chiều dài là một trăm hai mươi sải cùng với cuộn lão đang sử dụng.

“Nuốt thêm tí nữa đi”, lão nói. “Nuốt ngay đi”.

Nuốt làm sao để mũi lưỡi câu đâm vào tim và giết chết mày, lão nghĩ. Hãy ngoan ngoãn trồi lên để tao cắm phập mũi lao này. Ổn thôi. Mày sẵn sàng chưa? Đánh chén như thế là đã đủ rồi chứ?

“Nào!”, lão nói lớn và dùng cả hai tay kéo mạnh được chừng một mét dây rồi lại kéo, kéo nữa, tay nọ tiếp tay kia, dồn hết sức mạnh của cánh tay và của cả cơ thể lên sợi dây.

Nhưng chẳng được gì, con cá vẫn chậm rãi bơi đi và ông lão thì chẳng thể nhúc nhích nổi nó dẫu chỉ một phân. Dây câu của lão rất bền, được bện để câu cá lớn; lão kéo căng sợi dây qua lưng cho đến lúc những giọt nước lăn ra khỏi nó. Thoáng chốc, sợi dây bắt đầu phát ra những âm thanh trầm trầm trong làn nước và lão vẫn giữ chặt, tì lên chỗ ngồi chèo thuyền, ưỡn người ra sau và kéo. Con thuyền bắt đầu từ từ tiến về hướng Tây Bắc.

Con cá vẫn một mực bơi đi và họ di chuyển chầm chậm trên mặt biển phẳng lặng. Những cái mồi khác vẫn còn ở dưới nước nhưng lão chẳng biết xoay xở ra sao nữa.

“Giá mà ta có thằng bé”, ông lão nói lớn. “Ta đang bị con cá kéo đi và ta là cái cọc kéo thuyền. Ta có thể buộc sợi dây lại. Nhưng như thế con cá sẽ bứt đứt. Mình phải giữ sợi dây cho đến lúc sức tàn lực kiệt và nới thêm dây khi nó cần. Đội ơn Chúa, nó cứ bơi ngang chứ không lặn xuống”.

“Mình sẽ làm gì nếu nó quyết định lặn xuống, mình không biết. Mình sẽ làm gì nếu nó lặn xuống và chết, mình cũng không biết. Nhưng mình sẽ làm cái gì đó. Có nhiều thứ mình có thể làm”.

Lão tì sợi dây vào lưng và nhìn độ nghiêng của nó trên mặt nước, con thuyền cứ lững thững trôi về hướng Tây Bắc. Thế này sẽ giết nó, lão nghĩ. Nó không thể cứ kéo mãi thế này. Nhưng bốn giờ sau, con cá vẫn bình thản bơi ra khơi, kéo theo chiếc thuyền và cả ông lão đang giữ chặt sợi dây vắt qua lưng.

“Mình câu được nó vào quãng trưa”, lão nói. “Nhưng mình chưa được nhìn thấy nó”.

Lão đã đẩy chiếc mũ rơm sụp mạnh xuống đầu trước lúc câu được con cá, cái mũ cứa đau trán lão. Lão cũng khát nước bèn quì gối xuống, cẩn thận không làm giật sợi dây, rán vươn người quờ tay về phía mũi thuyền lôi ra chai nước. Lão mở nắp, uống một ngụm. Rồi lão tựa lưng vào mũi thuyền. Lão ngồi nghỉ trên đống cột buồm, cố không nghĩ ngợi điều gì, ngoại trừ việc chịu đựng.

Khi nhìn về phía sau, lão không còn thấy bóng dáng đất liền đâu nữa. Chẳng có gì khác đâu, lão nghĩ. Mình luôn có thể quay về dựa vào ánh đèn từ Havana. Còn hai giờ nữa mặt trời mới lặn và có lẽ con cá sẽ trồi lên trước lúc trời tối. Nếu chưa ngoi lên thì có lẽ nó sẽ ngoi lên khi trăng mọc. Nếu cũng không thì chắc bình minh nó sẽ nổi lên. Mình không bị chuột rút và mình cảm thấy khỏe mạnh. Chính nó đã bị lưỡi câu móc vào miệng. Nhưng thử hỏi có con cá nào kéo được như nó. Miệng nó hẳn ngậm chặt đoạn dây thép. Mình ước mình có thể nhìn thấy nó. Ước chi mình có thể nhìn thấy nó dẫu chỉ một lần để biết đối thủ của mình là ai.

Con cá chẳng hề giảm tốc độ và đổi hướng suốt đêm ấy như lão có thể xác định bằng cách quan sát các vì sao. Trời lạnh sau lúc mặt trời lặn và mồ hôi của lão khô lạnh trên lưng, trên cánh tay và cả đôi chân già nua của lão. Lúc ban ngày, lão đã lấy cái bao tải đậy thùng đựng mồi ra trải phơi khô. Sau khi mặt trời lặn, lão cột nó quanh cổ, để phủ xuống lưng và bây giờ lão cẩn thận chèn nó xuống dưới sợi dây vắt qua vai. Cái bao lót dưới sợi dây và lão tìm cách tựa vào mạn thuyền để cơ thể bớt căng thẳng. Tư thế ấy thực ra cũng chỉ bớt được đôi phần, nhưng lão nghĩ là rất thoải mái.

Ta chẳng thể làm gì được nó và nó cũng chẳng làm gì được ta, lão nghĩ. Chẳng làm được gì nếu nó cứ kéo mãi thế này.

Một lần lão đứng dậy, đái qua mạn thuyền, ngước nhìn sao kiểm tra hướng đi. Từ vai lão, sợi dây như thể một đường lân tinh dài xuyên thẳng làn nước. Bây giờ họ di chuyển chậm và ánh điện Havana cũng không quá rõ, vậy là lão biết dòng nước hẳn đang đưa họ về hướng Đông. Nếu mình không còn thấy ánh sáng Havana thì chắc chúng mình đang tiến xa về phía Đông, lão nghĩ. Vì nếu con cá cứ giữ đúng hướng của nó thì mình phải thấy Havana thêm một lúc nữa. Mình không rõ mấy trận đấu bóng chày giải ngoại hạng hôm nay ra sao nữa, lão nghĩ. Có một chiếc rađiô khi đi câu như thế này thì thật tuyệt diệu. Rồi lão nghĩ, cứ phải nghĩ mãi về nó. Nghĩ về cái việc mày đang làm. Mày chớ có làm điều gì ngu ngốc.

Lát sau lão nói lớn, “Ước chi mình có thằng bé. Để giúp mình và chứng kiến cái cảnh này”.

Con người ta không nên sống một mình khi tuổi đã xế bóng, lão nghĩ. Nhưng không thể nào tránh khỏi. Mình phải nhớ ăn con thu trước lúc nó hỏng để giữ sức khỏe. Hãy nhớ, dù mày chẳng muốn ăn tí nào, mày phải ăn nó vào sáng mai. Nhớ đấy, lão tự nhủ.

Suốt đêm ấy, hai con cá heo bơi đến gần thuyền, lão có thể nghe tiếng chúng trở mình và thở. Lão có thể nhận biết sự khác nhau giữa tiếng thở dốc của con đực và tiếng thở dài của con cái.

“Chúng thật đáng yêu”, lão nói. “Chúng chơi đùa, nghịch ngợm và yêu nhau. Chúng là anh em của ta như đàn cá chuồn kia vậy”.

Rồi lão bắt đầu ái ngại cho con cá lớn mà lão đã câu. Nó tuyệt vời, kỳ lạ và tuổi tác của nó là sao nhỉ, lão nghĩ. Chưa bao giờ mình gặp một con cá nào kiêu hùng và hành động quá đỗi kỳ lạ như nó. Có lẽ nó cũng thừa khôn ngoan để không nhảy lên. Bởi nếu cứ phóng lên hoặc lao chạy thì nó có thể hủy hoại mình. Nhưng chắc trước kia cu cậu đã nhiều lần nếm mùi dây câu nên đã biết đây là cách chiến đấu tốt nhất. Nó không thể biết chỉ có mỗi một người duy nhất đang đương đầu với nó và cũng chẳng hay rằng đấy là một lão già. Nhưng cu cậu đúng là chú cá vĩ đại và sự vĩ đại ấy còn được thể hiện ở phản thịt nơi chợ nếu thịt nó hãy còn tươi khi được mang đến đó. Cu cậu đớp mồi hệt một trang nam tử và cái cách cu cậu kéo cũng là của đấng hào hoa; cu cậu chống cự không một chút hoảng sợ. Ta phân vân chẳng biết nó có mưu đồ gì không hay cũng chỉ cố gỡ gạc như cái thân của ta thôi?

Lão nhớ lần lão câu được một con trong cặp cá kiếm. Con đực luôn để con cái ăn trước và khi bị dính câu, con cái giãy giụa kinh hoàng, tuyệt vọng vẫy vùng thoát thân mạnh đến nỗi chẳng mấy chốc đã kiệt sức, suốt thời gian đó, con đực luôn ở bên bạn, bơi qua bơi lại dưới sợi dây và lượn tròn cùng bạn trên mặt nước. Nó bơi gần đến nỗi ông lão sợ nó có thể tiện phăng sợi dây câu bằng cái đuôi có hình dáng, kích cỡ và sắc tựa lưỡi hái. Khi ông lão móc con cá cái, giữ chặt cái kiếm xù xì tựa giấy nhám của nó và vung chày quật vào đỉnh đầu cho đến khi da nó chuyển sang màu như màu thủy ngân tráng phía sau gương, và rồi với sự trợ giúp của thằng bé, lão lôi con cá lên thuyền trong lúc con cá đực vẫn cứ sán lại bên mạn thuyền. Rồi trong lúc lão đang rửa sợi dây câu và xem xét lại cây lao, con cá đực tung mình nhảy vọt lên lửng lơ trong không trung bên cạnh chiếc thuyền để xem con cá cái ở đâu, rồi rơi lặn sâu xuống; đôi cánh màu đỏ hồng, tức đôi vây hai bên ngực, xòe rộng phô hết ra những đường sọc đỏ hồng rộng. Nó thật đẹp, ông lão nhớ, và nó thủy chung.

Đấy là chuyện buồn nhất mà mình từng chứng kiến qua đôi cá ấy, ông lão nghĩ. Thằng bé cũng buồn và bọn mình cầu xin nó tha thứ trước khi vội xả thịt nó.

 

➖➖➖


 

 

Phần tiếng Anh

The Old Man and the Sea (2)

“They lost today,” the boy told him.

“That means nothing. The great DiMaggio is himself again.”

“They have other men on the team.”

“Naturally. But he makes the difference. In the other league, between Brooklyn and Philadelphia I must take Brooklyn. But then I think of Dick Sisler and those great drives in the old park.”

“There was nothing ever like them. He hits the longest ball I have ever seen.”

“Do you remember when he used to come to the Terrace? I wanted to take him fishing but I was too timid to ask him. Then I asked you to ask him and you were too timid.”

“I know. It was a great mistake. He might have gone with us. Then we would have that for all of our lives.”

“I would like to take the great DiMaggio fishing,” the old man said. “They say his father was a fisherman. Maybe he was as poor as we are and would understand.”

“The great Sisler's father was never poor and he, the father, was playing in the big leagues when he was my age.”

“When I was your age I was before the mast on a square rigged ship that ran to Africa and I have seen lions on the beaches in the evening.”

“I know. You told me.”

“Should we talk about Africa or about baseball?”

“Baseball I think,” the boy said. “Tell me about the great John J. McGraw.” He said Jota for J.

“He used to come to the Terrace sometimes too in the older days. But he was rough and harsh-spoken and difficult when he was drinking. His mind was on horses as well as baseball. At least he carried lists of horses at all times in his pocket and frequently spoke the names of horses on the telephone.”

“He was a great manager,” the boy said. “My father thinks he was the greatest.”

“Because he came here the most times,” the old man said. “If Durocher had continued to come here each year your father would think him the greatest manager.”

“Who is the greatest manager, really, Luque or Mike Gonzalez?”

“I think they are equal.”

“And the best fisherman is you.”

“No. I know others better.”

“Qué va,” the boy said. “There are many good fishermen and some great ones. But there is only you.”

“Thank you. You make me happy. I hope no fish will come along so great that he will prove us wrong.”

“There is no such fish if you are still strong as you say.”

“I may not be as strong as I think,” the old man said. “But I know many tricks and I have resolution.”

“You ought to go to bed now so that you will be fresh in the morning. I will take the things back to the Terrace.”

“Good night then. I will wake you in the morning.”

“You're my alarm clock,” the boy said.

“Age is my alarm clock,” the old man said. “Why do old men wake so early? Is it to have one longer day?”

“I don't know,” the boy said. “All I know is that young boys sleep late and hard.”

“I can remember it,” the old man said. “I'll waken you in time.”

“I do not like for him to waken me. It is as though I were inferior.”

“I know.”

“Sleep well, old man.”

The boy went out. They had eaten with no light on the table and the old man took off his trousers and went to bed in the dark. He rolled his trousers up to make a pillow, putting the newspaper inside them. He rolled himself in the blanket and slept on the other old newspapers that covered the springs of the bed.

He was asleep in a short time and he dreamed of Africa when he was a boy and the long golden beaches and the white beaches, so white they hurt your eyes, and the high capes and the great brown mountains. He lived along that coast now every night and in his dreams he heard the surf roar and saw the native boats come riding through it. He smelled the tar and oakum of the deck as he slept and he smelled the smell of Africa that the land breeze brought at morning.

Usually when he smelled the land breeze he woke up and dressed to go and wake the boy. But tonight the smell of the land breeze came very early and he knew it was too early in his dream and went on dreaming to see the white peaks of the Islands rising from the sea and then he dreamed of the different harbours and roadsteads of the Canary Islands.

He no longer dreamed of storms, nor of women, nor of great occurrences, nor of great fish, nor fights, nor contests of strength, nor of his wife. He only dreamed of places now and of the lions on the beach. They played like young cats in the dusk and he loved them as he loved the boy. He never dreamed about the boy. He simply woke, looked out the open door at the moon and unrolled his trousers and put them on. He urinated outside the shack and then went up the road to wake the boy. He was shivering with the morning cold. But he knew he would shiver himself warm and that soon he would be rowing.

The door of the house where the boy lived was unlocked and he opened it and walked in quietly with his bare feet. The boy was asleep on a cot in the first room and the old man could see him clearly with the light that came in from the dying moon. He took hold of one foot gently and held it until the boy woke and turned and looked at him. The old man nodded and the boy took his trousers from the chair by the bed and, sitting on the bed, pulled them on.

The old man went out the door and the boy came after him. He was sleepy and the old man put his arm across his shoulders and said, “I am sorry.”

“Qué va,” the boy said. “It is what a man must do.”

They walked down the road to the old man's shack and all along the road, in the dark, barefoot men were moving, carrying the masts of their boats.

When they reached the old man's shack the boy took the rolls of line in the basket and the harpoon and gaff and the old man carried the mast with the furled sail on his shoulder.

“Do you want coffee?” the boy asked.

“We'll put the gear in the boat and then get some.”

They had coffee from condensed milk cans at an early morning place that served fishermen.

“How did you sleep old man?” the boy asked. He was waking up now although it was still hard for him to leave his sleep.

“Very well, Manolin,” the old man said. “I feel confident today.”

“So do I,” the boy said. “Now I must get your sardines and mine and your fresh baits. He brings our gear himself. He never wants anyone to carry anything.”

“We're different,” the old man said. “I let you carry things when you were five years old.”

“I know it,” the boy said. “I'll be right back. Have another coffee. We have credit here.”

He walked off, bare-footed on the coral rocks, to the ice house where the baits were stored.

The old man drank his coffee slowly. It was all he would have all day and he knew that he should take it. For a long time now eating had bored him and he never carried a lunch. He had a bottle of water in the bow of the skiff and that was all he needed for the day.

The boy was back now with the sardines and the two baits wrapped in a newspaper and they went down the trail to the skiff, feeling the pebbled sand under their feet, and lifted the skiff and slid her into the water.

“Good luck old man.”

“Good luck,” the old man said. He fitted the rope lashings of the oars onto the thole pins and, leaning forward against the thrust of the blades in the water, he began to row out of the harbour in the dark. There were other boats from the other beaches going out to sea and the old man heard the dip and push of their oars even though he could not see them now the moon was below the hills.

Sometimes someone would speak in a boat. But most of the boats were silent except for the dip of the oars. They spread apart after they were out of the mouth of the harbour and each one headed for the part of the ocean where he hoped to find fish. The old man knew he was going far out and he left the smell of the land behind and rowed out into the clean early morning smell of the ocean. He saw the phosphorescence of the Gulf weed in the water as he rowed over the part of the ocean that the fishermen called the great well because there was a sudden deep of seven hundred fathoms where all sorts of fish congregated because of the swirl the current made against the steep walls of the floor of the ocean. Here there were concentrations of shrimp and bait fish and sometimes schools of squid in the deepest holes and these rose close to the surface at night where all the wandering fish fed on them.

In the dark the old man could feel the morning coming and as he rowed he heard the trembling sound as flying fish left the water and the hissing that their stiff set wings made as they soared away in the darkness. He was very fond of flying fish as they were his principal friends on the ocean. He was sorry for the birds, especially the small delicate dark terns that were always flying and looking and almost never finding, and he thought, “The birds have a harder life than we do except for the robber birds and the heavy strong ones. Why did they make birds so delicate and fine as those sea swallows when the ocean can be so cruel? She is kind and very beautiful. But she can be so cruel and it comes so suddenly and such birds that fly, dipping and hunting, with their small sad voices are made too delicately for the sea.”

He always thought of the sea as la mar which is what people call her in Spanish when they love her. Sometimes those who love her say bad things of her but they are always said as though she were a woman. Some of the younger fishermen, those who used buoys as floats for their lines and had motorboats, bought when the shark livers had brought much money, spoke of her as el mar which is masculine. They spoke of her as a contestant or a place or even an enemy. But the old man always thought of her as feminine and as something that gave or withheld great favours, and if she did wild or wicked things it was because she could not help them. The moon affects her as it does a woman, he thought.

He was rowing steadily and it was no effort for him since he kept well within his speed and the surface of the ocean was flat except for the occasional swirls of the current. He was letting the current do a third of the work and as it started to be light he saw he was already further out than he had hoped to be at this hour.

I worked the deep wells for a week and did nothing, he thought. Today I'll work out where the schools of bonita and albacore are and maybe there will be a big one with them.

Before it was really light he had his baits out and was drifting with the current. One bait was down forty fathoms. The second was at seventy-five and the third and fourth were down in the blue water at one hundred and one hundred and twenty-five fathoms. Each bait hung head down with the shank of the hook inside the bait fish, tied and sewed solid and all the projecting part of the hook, the curve and the point, was covered with fresh sardines. Each sardine was hooked through both eyes so that they made a half-garland on the projecting steel. There was no part of the hook that a great fish could feel which was not sweet smelling and good tasting.

The boy had given him two fresh small tunas, or albacores, which hung on the two deepest lines like plummets and, on the others, he had a big blue runner and a yellow jack that had been used before; but they were in good condition still and had the excellent sardines to give them scent and attractiveness. Each line, as thick around as a big pencil, was looped onto a green-sapped stick so that any pull or touch on the bait would make the stick dip and each line had two forty-fathom coils which could be made fast to the other spare coils so that, if it were necessary, a fish could take out over three hundred fathoms of line.

Now the man watched the dip of the three sticks over the side of the skiff and rowed gently to keep the lines straight up and down and at their proper depths. It was quite light and any moment now the sun would rise.

The sun rose thinly from the sea and the old man could see the other boats, low on the water and well in toward the shore, spread out across the current. Then the sun was brighter and the glare came on the water and then, as it rose clear, the flat sea sent it back at his eyes so that it hurt sharply and he rowed without looking into it. He looked down into the water and watched the lines that went straight down into the dark of the water. He kept them straighter than anyone did, so that at each level in the darkness of the stream there would be a bait waiting exactly where he wished it to be for any fish that swam there. Others let them drift with the current and sometimes they were at sixty fathoms when the fishermen thought they were at a hundred.

But, he thought, I keep them with precision. Only I have no luck any more. But who knows? Maybe today. Every day is a new day. It is better to be lucky. But I would rather be exact. Then when luck comes you are ready.

The sun was two hours higher now and it did not hurt his eyes so much to look into the east. There were only three boats in sight now and they showed very low and far inshore.

All my life the early sun has hurt my eyes, he thought. Yet they are still good. In the evening I can look straight into it without getting the blackness. It has more force in the evening too. But in the morning it is painful.

Just then he saw a man-of-war bird with his long black wings circling in the sky ahead of him. He made a quick drop, slanting down on his back-swept wings, and then circled again.

“He's got something,” the old man said aloud. “He's not just looking.”

He rowed slowly and steadily toward where the bird was circling. He did not hurry and he kept his lines straight up and down. But he crowded the current a little so that he was still fishing correctly though faster than he would have fished if he was not trying to use the bird.

The bird went higher in the air and circled again, his wings motionless. Then he dove suddenly and the old man saw flying fish spurt out of the water and sail desperately over the surface.

“Dolphin,” the old man said aloud. “Big dolphin.”

He shipped his oars and brought a small line from under the bow. It had a wire leader and a medium-sized hook and he baited it with one of the sardines. He let it go over the side and then made it fast to a ring bolt in the stern. Then he baited another line and left it coiled in the shade of the bow. He went back to rowing and to watching the long-winged black bird who was working, now, low over the water.

As he watched the bird dipped again slanting his wings for the dive and then swinging them wildly and ineffectually as he followed the flying fish. The old man could see the slight bulge in the water that the big dolphin raised as they followed the escaping fish. The dolphin were cutting through the water below the flight of the fish and would be in the water, driving at speed, when the fish dropped. It is a big school of dolphin, he thought. They are wide spread and the flying fish have little chance. The bird has no chance. The flying fish are too big for him and they go too fast.

He watched the flying fish burst out again and again and the ineffectual movements of the bird. That school has gotten away from me, he thought. They are moving out too fast and too far. But perhaps I will pick up a stray and perhaps my big fish is around them. My big fish must be somewhere.

The clouds over the land now rose like mountains and the coast was only a long green line with the gray blue hills behind it. The water was a dark blue now, so dark that it was almost purple. As he looked down into it he saw the red sifting of the plankton in the dark water and the strange light the sun made now. He watched his lines to see them go straight down out of sight into the water and he was happy to see so much plankton because it meant fish. The strange light the sun made in the water, now that the sun was higher, meant good weather and so did the shape of the clouds over the land. But the bird was almost out of sight now and nothing showed on the surface of the water but some patches of yellow, sun-bleached Sargasso weed and the purple, formalized, iridescent, gelatinous bladder of a Portuguese man-of-war floating close beside the boat. It turned on its side and then righted itself. It floated cheerfully as a bubble with its long deadly purple filaments trailing a yard behind it in the water.

“Agua mala,” the man said. “You whore.”

From where he swung lightly against his oars he looked down into the water and saw the tiny fish that were coloured like the trailing filaments and swam between them and under the small shade the bubble made as it drifted. They were immune to its poison. But men were not and when some of the filaments would catch on a line and rest there slimy and purple while the old man was working a fish, he would have welts and sores on his arms and hands of the sort that poison ivy or poison oak can give. But these poisonings from the agua mala came quickly and struck like a whiplash.

The iridescent bubbles were beautiful. But they were the falsest thing in the sea and the old man loved to see the big sea turtles eating them. The turtles saw them, approached them from the front, then shut their eyes so they were completely carapaced and ate them filaments and all. The old man loved to see the turtles eat them and he loved to walk on them on the beach after a storm and hear them pop when he stepped on them with the horny soles of his feet.

He loved green turtles and hawks-bills with their elegance and speed and their great value and he had a friendly contempt for the huge, stupid loggerheads, yellow in their armour-plating, strange in their love-making, and happily eating the Portuguese men-of-war with their eyes shut.

He had no mysticism about turtles although he had gone in turtle boats for many years. He was sorry for them all, even the great trunk backs that were as long as the skiff and weighed a ton. Most people are heartless about turtles because a turtle's heart will beat for hours after he has been cut up and butchered. But the old man thought, I have such a heart too and my feet and hands are like theirs. He ate the white eggs to give himself strength. He ate them all through May to be strong in September and October for the truly big fish.

He also drank a cup of shark liver oil each day from the big drum in the shack where many of the fishermen kept their gear. It was there for all fishermen who wanted it. Most fishermen hated the taste. But it was no worse than getting up at the hours that they rose and it was very good against all colds and grippes and it was good for the eyes.

Now the old man looked up and saw that the bird was circling again.

“He's found fish,” he said aloud. No flying fish broke the surface and there was no scattering of bait fish. But as the old man watched, a small tuna rose in the air, turned and dropped head first into the water. The tuna shone silver in the sun and after he had dropped back into the water another and another rose and they were jumping in all directions, churning the water and leaping in long jumps after the bait. They were circling it and driving it.

If they don't travel too fast I will get into them, the old man thought, and he watched the school working the water white and the bird now dropping and dipping into the bait fish that were forced to the surface in their panic.

“The bird is a great help,” the old man said. Just then the stern line came taut under his foot, where he had kept a loop of the line, and he dropped his oars and felt the weight of the small tuna's shivering pull as he held the line firm and commenced to haul it in. The shivering increased as he pulled in and he could see the blue back of the fish in the water and the gold of his sides before he swung him over the side and into the boat. He lay in the stern in the sun, compact and bullet shaped, his big, unintelligent eyes staring as he thumped his life out against the planking of the boat with the quick shivering strokes of his neat, fast-moving tail. The old man hit him on the head for kindness and kicked him, his body still shuddering, under the shade of the stern.

“Albacore,” he said aloud. “He'll make a beautiful bait. He'll weigh ten pounds.”

He did not remember when he had first started to talk aloud when he was by himself. He had sung when he was by himself in the old days and he had sung at night sometimes when he was alone steering on his watch in the smacks or in the turtle boats. He had probably started to talk aloud, when alone, when the boy had left. But he did not remember. When he and the boy fished together they usually spoke only when it was necessary. They talked at night or when they were storm-bound by bad weather. It was considered a virtue not to talk unnecessarily at sea and the old man had always considered it so and respected it. But now he said his thoughts aloud many times since there was no one that they could annoy.

“If the others heard me talking out loud they would think that I am crazy,” he said aloud. “But since I am not crazy, I do not care. And the rich have radios to talk to them in their boats and to bring them the baseball.”

Now is no time to think of baseball, he thought. Now is the time to think of only one thing. That which I was born for. There might be a big one around that school, he thought. I picked up only a straggler from the albacore that were feeding. But they are working far out and fast. Everything that shows on the surface today travels very fast and to the north-east. Can that be the time of day? Or is it some sign of weather that I do not know?

He could not see the green of the shore now but only the tops of the blue hills that showed white as though they were snow-capped and the clouds that looked like high snow mountains above them. The sea was very dark and the light made prisms in the water. The myriad flecks of the plankton were annulled now by the high sun and it was only the great deep prisms in the blue water that the old man saw now with his lines going straight down into the water that was a mile deep.

The tuna, the fishermen called all the fish of that species tuna and only distinguished among them by their proper names when they came to sell them or to trade them for baits, were down again. The sun was hot now and the old man felt it on the back of his neck and felt the sweat trickle down his back as he rowed.

I could just drift, he thought, and sleep and put a bight of line around my toe to wake me. But today is eighty-five days and I should fish the day well.

Just then, watching his lines, he saw one of the projecting green sticks dip sharply.

“Yes,” he said. “Yes,” and shipped his oars without bumping the boat. He reached out for the line and held it softly between the thumb and forefinger of his right hand. He felt no strain nor weight and he held the line lightly. Then it came again. This time it was a tentative pull, not solid nor heavy, and he knew exactly what it was. One hundred fathoms down a marlin was eating the sardines that covered the point and the shank of the hook where the hand-forged hook projected from the head of the small tuna.

The old man held the line delicately, and softly, with his left hand, unleashed it from the stick. Now he could let it run through his fingers without the fish feeling any tension.

This far out, he must be huge in this month, he thought. Eat them, fish. Eat them. Please eat them. How fresh they are and you down there six hundred feet in that cold water in the dark. Make another turn in the dark and come back and eat them.

He felt the light delicate pulling and then a harder pull when a sardine's head must have been more difficult to break from the hook. Then there was nothing.

“Come on,” the old man said aloud. “Make another turn. Just smell them. Aren't they lovely? Eat them good now and then there is the tuna. Hard and cold and lovely. Don't be shy, fish. Eat them.”

He waited with the line between his thumb and his finger, watching it and the other lines at the same time for the fish might have swum up or down. Then came the same delicate pulling touch again.

“He'll take it,” the old man said aloud. “God help him to take it.”

He did not take it though. He was gone and the old man felt nothing.

“He can't have gone,” he said. “Christ knows he can't have gone. He's making a turn. Maybe he has been hooked before and he remembers something of it.”

Then he felt the gentle touch on the line and he was happy.

“It was only his turn,” he said. “He'll take it.”

He was happy feeling the gentle pulling and then he felt something hard and unbelievably heavy. It was the weight of the fish and he let the line slip down, down, down, unrolling off the first of the two reserve coils. As it went down, slipping lightly through the old man's fingers, he still could feel the great weight, though the pressure of his thumb and finger were almost imperceptible.

“What a fish,” he said. “He has it sideways in his mouth now and he is moving off with it.”

Then he will turn and swallow it, he thought. He did not say that because he knew that if you said a good thing it might not happen. He knew what a huge fish this was and he thought of him moving away in the darkness with the tuna held crosswise in his mouth. At that moment he felt him stop moving but the weight was still there. Then the weight increased and he gave more line. He tightened the pressure of his thumb and finger for a moment and the weight increased and was going straight down.

“He's taken it,” he said. “Now I'll let him eat it well.”

He let the line slip through his fingers while he reached down with his left hand and made fast the free end of the two reserve coils to the loop of the two reserve coils of the next line. Now he was ready. He had three forty-fathom coils of line in reserve now, as well as the coil he was using.

“Eat it a little more,” he said. “Eat it well.”

Eat it so that the point of the hook goes into your heart and kills you, he thought. Come up easy and let me put the harpoon into you. All right. Are you ready? Have you been long enough at table?

“Now!” he said aloud and struck hard with both hands, gained a yard of line and then struck again and again, swinging with each arm alternately on the cord with all the strength of his arms and the pivoted weight of his body.

Nothing happened. The fish just moved away slowly and the old man could not raise him an inch. His line was strong and made for heavy fish and he held it against his back until it was so taut that beads of water were jumping from it. Then it began to make a slow hissing sound in the water and he still held it, bracing himself against the thwart and leaning back against the pull. The boat began to move slowly off toward the North-West.

The fish moved steadily and they travelled slowly on the calm water. The other baits were still in the water but there was nothing to be done.

“I wish I had the boy,” the old man said aloud. “I'm being towed by a fish and I'm the towing bitt. I could make the line fast. But then he could break it. I must hold him all I can and give him line when he must have it. Thank God he is travelling and not going down.”

What I will do if he decides to go down, I don't know. What I'll do if he sounds and dies I don't know. But I'll do something. There are plenty of things I can do.

He held the line against his back and watched its slant in the water and the skiff moving steadily to the North-West.

This will kill him, the old man thought. He can't do this forever. But four hours later the fish was still swimming steadily out to sea, towing the skiff, and the old man was still braced solidly with the line across his back.

“It was noon when I hooked him,” he said. “And I have never seen him.”

He had pushed his straw hat hard down on his head before he hooked the fish and it was cutting his forehead. He was thirsty too and he got down on his knees and, being careful not to jerk on the line, moved as far into the bow as he could get and reached the water bottle with one hand. He opened it and drank a little. Then he rested against the bow. He rested sitting on the un-stepped mast and sail and tried not to think but only to endure.

Then he looked behind him and saw that no land was visible. That makes no difference, he thought. I can always come in on the glow from Havana. There are two more hours before the sun sets and maybe he will come up before that. If he doesn't maybe he will come up with the moon. If he does not do that maybe he will come up with the sunrise. I have no cramps and I feel strong. It is he that has the hook in his mouth. But what a fish to pull like that. He must have his mouth shut tight on the wire. I wish I could see him. I wish I could see him only once to know what I have against me.

The fish never changed his course nor his direction all that night as far as the man could tell from watching the stars. It was cold after the sun went down and the old man's sweat dried cold on his back and his arms and his old legs. During the day he had taken the sack that covered the bait box and spread it in the sun to dry. After the sun went down he tied it around his neck so that it hung down over his back and he cautiously worked it down under the line that was across his shoulders now. The sack cushioned the line and he had found a way of leaning forward against the bow so that he was almost comfortable. The position actually was only somewhat less intolerable; but he thought of it as almost comfortable.

I can do nothing with him and he can do nothing with me, he thought. Not as long as he keeps this up.

Once he stood up and urinated over the side of the skiff and looked at the stars and checked his course. The line showed like a phosphorescent streak in the water straight out from his shoulders. They were moving more slowly now and the glow of Havana was not so strong, so that he knew the current must be carrying them to the eastward. If I lose the glare of Havana we must be going more to the eastward, he thought. For if the fish's course held true I must see it for many more hours. I wonder how the baseball came out in the grand leagues today, he thought. It would be wonderful to do this with a radio. Then he thought, think of it always. Think of what you are doing. You must do nothing stupid.

Then he said aloud, “I wish I had the boy. To help me and to see this.”

No one should be alone in their old age, he thought. But it is unavoidable. I must remember to eat the tuna before he spoils in order to keep strong. Remember, no matter how little you want to, that you must eat him in the morning. Remember, he said to himself.

During the night two porpoise came around the boat and he could hear them rolling and blowing. He could tell the difference between the blowing noise the male made and the sighing blow of the female.

“They are good,” he said. “They play and make jokes and love one another. They are our brothers like the flying fish.”

Then he began to pity the great fish that he had hooked. He is wonderful and strange and who knows how old he is, he thought. Never have I had such a strong fish nor one who acted so strangely. Perhaps he is too wise to jump. He could ruin me by jumping or by a wild rush. But perhaps he has been hooked many times before and he knows that this is how he should make his fight. He cannot know that it is only one man against him, nor that it is an old man. But what a great fish he is and what he will bring in the market if the flesh is good. He took the bait like a male and he pulls like a male and his fight has no panic in it. I wonder if he has any plans or if he is just as desperate as I am?

He remembered the time he had hooked one of a pair of marlin. The male fish always let the female fish feed first and the hooked fish, the female, made a wild, panic-stricken, despairing fight that soon exhausted her, and all the time the male had stayed with her, crossing the line and circling with her on the surface. He had stayed so close that the old man was afraid he would cut the line with his tail which was sharp as a scythe and almost of that size and shape. When the old man had gaffed her and clubbed her, holding the rapier bill with its sandpaper edge and clubbing her across the top of her head until her colour turned to a colour almost like the backing of mirrors, and then, with the boy's aid, hoisted her aboard, the male fish had stayed by the side of the boat. Then, while the old man was clearing the lines and preparing the harpoon, the male fish jumped high into the air beside the boat to see where the female was and then went down deep, his lavender wings, that were his pectoral fins, spread wide and all his wide lavender stripes showing. He was beautiful, the old man remembered, and he had stayed.

That was the saddest thing I ever saw with them, the old man thought. The boy was sad too and we begged her pardon and butchered her promptly.

➖➖➖