
Ernest Hemingway
(Giải Nobel Văn học 1954)
-:-
Lão đã già, một mình một thuyền câu cá trên dòng Nhiệt lưu và đã tám mươi tư ngày qua lão không bắt được lấy một mống cá nào. Bốn mươi ngày đầu thằng bé đi với lão. Nhưng sau bốn mươi ngày không câu được cá, cha mẹ thằng bé bảo nó rằng rốt cuộc bây giờ ông lão đã hoàn toàn salao, cách diễn đạt tệ nhất của vận rủi, rồi buộc nó đi theo thuyền khác và ngay trong tuần lễ đầu tiên chiếc thuyền ấy đã câu được ba con cá lớn. Điều đó khiến thằng bé buồn khi hằng ngày thấy ông lão trở về với chiếc thuyền không, nó luôn xuống giúp lão mang khi thì cuộn dây, cái lao móc săn cá, khi thì cái sào hay tấm buồm quấn quanh cột. Tấm buồm được vá bằng bao bột, cuộn lại trông như một lá cờ bại trận triền miên. Ông lão gầy gò, giơ cả xương, gáy hằn sâu nhiều nếp nhăn. Những vệt nám vô hại trên làn da má của lão do bị ung thư bởi ánh mặt trời phản hồi trên mặt biển nhiệt đới. Những vệt ấy kéo dài xuống cả hai bên má, tay lão hằn những vết sẹo sâu bởi kéo những con cá lớn. Nhưng chẳng có vết nào trong số sẹo ấy còn mới cả. Chúng cũ kỹ như mấy vệt xói mòn trên sa mạc không cá. Mọi thứ trên cơ thể lão đều toát lên vẻ già nua, trừ đôi mắt; chúng có cùng màu với nước biển, vui vẻ và không hề thất bại.
“Ông Santiago, thằng bé nói khi hai người leo lên bờ nơi con thuyền được kéo lên.
“Cháu có thể lại đi cùng ông. Chúng ta đã có ít tiền rồi.
Ông lão dạy thằng bé câu cá và nó quý lão.
“Đừng”, lão nói.
“Cháu đang đi với con thuyền may mắn. Hãy ở lại với họ”.
“Nhưng ông còn nhớ có hồi suốt tám mươi bảy ngày ta không bắt được cá nhưng sau đó trong ba tuần lễ ngày nào ta cũng vớ được cá lớn”.
“Ông nhớ”, ông lão nói.
“Ông biết cháu đã không rời bỏ ông vì thiếu lòng tin”.
“Tại cha cháu bắt làm như thế. Cháu còn nhỏ, cháu phải nghe lời cha”.
"Ông hiểu”, ông lão nói.
“Đấy là chuyện thường”.
“Cha cháu chẳng tin đâu”.
“Phải”, ông lão nói.
“Nhưng chúng ta tin, đúng không?”
“Vâng”, thằng bé đáp.
“Cháu có thể mời ông một cốc bia ở khách sạn Terrace trước khi chúng ta mang mấy thứ này về nhà chứ?”
“Tại sao lại không?”, ông lão nói. “Dân chài với nhau cả mà”.
Họ ngồi ở Terrace và rất nhiều người đánh cá trêu ông lão nhưng lão không giận. Một số khác, những ngư dân lớn tuổi hơn, nhìn lão và cảm thấy buồn. Nhưng họ không để lộ ra mà chỉ từ tốn nói về dòng chảy, độ sâu buông câu, về thời tiết tốt, ổn định và về những thứ họ đã nhìn thấy. Mấy tay đánh cá thành công của ngày ấy đã trở về, xả thịt con cá kiếm của họ, sắp đầy lên hai tấm ván, mỗi người khiêng một đầu đi xuyên đến nhà để cá, đợi chiếc xe tải ướp lạnh đưa đến chợ Havana. Những người bắt được cá mập thì đưa chúng đến xưởng cá mập phía bên kia vịnh; chúng được móc treo lên bằng ròng rọc, gan bị mổ lấy, vi bị cắt, da bị lột và thịt thì được xẻ thành súc đưa ướp muối. Khi gió Đông thổi, mùi tanh nồng từ xưởng cá mập bên kia cảng phả đến. Nhưng hôm nay, mùi cá chỉ thoang thoảng vì gió thổi chếch sang hướng Bắc rồi lặng hẳn; trên Terrace trời tỏa nắng dễ chịu.
“Ông Santiago”, thằng bé gọi.
“Ừ”, ông lão đáp. Lão đang giữ cái lá và hồi tưởng về nhiều năm trước.
“Cháu đi kiếm giúp ông mấy con cá mòi cho ngày mai nhé?”
“Đừng. Đi chơi bóng chày đi. Ông vẫn có thể chèo và Rogelio sẽ quăng lưới”.
”Cháu thích đi. Nếu cháu không được câu cá với ông thì cháu muốn giúp ông việc gì đó”.
“Cháu đã mua bia cho ông”, ông lão nói. “Cháu thực sự là đàn ông rồi”.
“Lần đầu tiên ông đưa cháu ra khơi, cháu lên mấy?”
“Lên năm, và suýt nữa cháu bị chết khi ông lôi con cá quá lớn lên thuyền, nó gần như quật tan con thuyền ra nhiều mảnh. Cháu có còn nhớ không?”
“Cháu vẫn nhớ cái đuôi quật mạnh; chỗ ngồi chèo thuyền bị gãy và tiếng nện của cái chày. Cháu nhớ ông ném cháu ra đằng mũi thuyền, nơi lùng nhùng những sợi dây ướt rồi cháu cảm thấy toàn bộ con thuyền chao đảo và tiếng ông quật con cá nghe như thể đang đốn cây, máu nóng hổi bắn cả lên người cháu”.
“Có phải cháu thực sự nhớ chuyện ấy hay là do ông kể?”
“Cháu nhớ mọi thứ kể từ cái lần đầu tiên ông cháu ta đi cùng nhau”. Ông lão nhìn thằng bé bằng ánh mắt chan chứa tình thương, tin cậy, ấm áp của mình.
“Nếu cháu là con ta thì ta sẽ đưa cháu đi cầu may một phen”, lão nói. “Nhưng cháu là con của cha mẹ cháu và cháu đang đi trên con thuyền may mắn”.
“Cháu có thể đi kiếm cá mòi chứ? Cháu còn biết nơi cháu có thể kiếm được bốn con mồi”.
“Hôm nay ông vẫn còn mấy con. Ông đã muối chúng trong thùng”.
“Để cháu đi kiếm bốn con tươi”.
“Một thôi”, ông lão nói. Niềm hy vọng và lòng tin của ông lão chưa bao giờ nguội lạnh. Còn bây giờ thì chúng đang cuộn lên như khi gió đang nổi.
“Hai”, thằng bé nói.
“Hai”, ông lão đồng ý.
“Cháu không ăn cắp đấy chứ?”
“Cháu không”, thằng bé đáp. “Cháu mua”.
“Cảm ơn cháu”, ông lão nói. Lão quá giản dị để không tự hỏi tính nhún nhường của mình có tự bao giờ. Nhưng lão biết lão đã có nó và lão biết nó chẳng có gì xấu hổ và cũng chẳng mảy may phương hại đến niềm kiêu hãnh thực sự.
“Với con nước này, mai sẽ là một ngày tốt lành”, lão nói.
“Ông sẽ đến đâu”, thằng bé hỏi.
“Đi thật xa, khi gió trở thì mới quay về. Ông muốn đến đấy trước khi trời sáng”.
“Cháu sẽ tìm cách để ông ấy ra câu xa”, thằng bé nói.
“Rồi khi ông câu được một con gì đấy thật sự lớn, cháu sẽ có thể đến giúp”.
“Ông ấy không thích ra khơi xa đâu”.
“Vâng”, thằng bé nói.
“Nhưng cháu sẽ thấy cái gì đó, một con chim săn mồi chẳng hạn, mà ông ấy không thể thấy rồi giục ông ta bám theo bầy cá dorado”.
“Mắt ông ấy kém đến thế ư?”.
"Ông ấy gần như mù”.
“Lạ thật”, ông lão nói.
“Ông ấy chưa bao giờ đi săn rùa. Đấy là lý do làm mắt kém thị lực”.
“Nhưng ông đã nhiều năm đi săn rùa tận Mosquito Coast mà mắt ông vẫn còn tốt”.
“Ta là một lão già kỳ lạ”.
“Nhưng giờ đây ông có còn đủ sức để dành cho con cá thật lớn không?”
“Ông chắc thế. Vả lại còn có nhiều mẹo nữa”.
“Chúng ta hãy mang dụng cụ về nhà”, thằng bé nói.
“Rồi cháu có thể mang lưới-quăng đi bắt cá mòi”. Họ tháo vật dụng khỏi thuyền. Ông lão vác cột buồm, thằng bé mang thùng gỗ đựng dây, những sợi dây câu màu nâu được bện thật chắc, cái móc, ngọn lao với cán của nó. Thùng đựng mồi để ở đuôi thuyền, bên cạnh cái chày được dùng để quật những con cá lớn khi bị kéo lên khoang.
Chẳng ai ăn trộm đồ đạc của ông lão, nhưng tốt hơn thì cứ đưa cánh buồm, cuộn dây nặng vào nhà bởi sương có thể làm chúng hỏng và dẫu cho lão có hoàn toàn tin chắc là chẳng có người địa phương nào ăn cắp của lão thì lão vẫn nghĩ cái móc và ngọn lao hẳn có sức cám dỗ khi để trên thuyền. Họ cùng đi bộ trên con đường đến lều ông lão rồi bước vào qua cánh cửa để ngỏ. Ông lão dựng cột buồm với lá buồm quấn quanh vào vách, thằng bé đặt cái thùng gỗ và mấy thứ khác bên cạnh. Cột buồm cao gần bằng chiều cao của căn lều một buồng. Vách lều được ghép bằng thân loài cọ xù xì có tên gọi là guano; trong lều có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cái bếp trên nền đất để nấu bằng than củi. Trên bức tường màu nâu của những thân cọ guano đập giập với mấy chiếc lá cứng queo của chúng chồng lên nhau, là hai bức ảnh màu của Đức Chúa Jesus và Đức Mẹ Đồng Trinh xứ Cobre. Đấy là di vật của vợ lão. Có dạo bức ảnh tô màu của vợ lão cũng được treo trên tường nhưng rồi lão đã tháo xuống bởi nó khiến lão càng cô đơn hơn khi nhìn thấy, lão để nó trên giá trong góc dưới chiếc sơ mi sạch của lão.
“Ông có gì ăn không?”, thằng bé hỏi.
“Một niêu cơm gạo vàng với cá. Cháu có muốn ăn không?”.
“Thưa không. Cháu sẽ ăn ở nhà. Ông có cần cháu nhóm lửa không?”.
“Không. Để lát nữa ông nhóm. Hoặc có lẽ ông sẽ ăn cơm nguội”.
“Cháu có thể mang cái lưới-quăng đi chứ?”.
“Dĩ nhiên”. Không có cái lưới-quăng nào cả, thằng bé nhớ rõ cái lúc họ bán nó. Nhưng ngày nào hai ông cháu cũng vờ tưởng tượng như thế. Và thằng bé cũng biết chẳng có niêu cơm gạo vàng và cá nào cả.
“Tám mươi lăm là con số may mắn”, ông lão nói.
“Cháu có thích ông mang về con cá nặng gần nửa tấn không?”.
“Cháu sẽ lấy cái lưới-quăng đi bắt cá mòi. Ông ngồi sưởi nắng trên ngưỡng cửa chứ?”.
“Ừ. Ông có tờ báo hôm qua và sẽ đọc về trận bóng chày”. Thằng bé không chắc liệu cái tờ báo hôm qua ấy có phải là sản phẩm của trí tưởng tượng nữa không.
Nhưng ông lão đã lôi tờ báo từ dưới giường ra.
“Perico cho ông ở bodega”, lão giải thích.
“Cháu sẽ quay lại khi kiếm được vài con cá mòi. Cháu sẽ ướp đá mấy con của ông cùng của cháu rồi sáng mai chúng ta chia nhau. Khi cháu quay lại, ông nhớ kể cho cháu nghe chuyện đội bóng đấy”.
“Đội Yankee không thể thua”.
“Nhưng cháu sợ đội Da Đỏ Cleveland”.
“Hãy tin vào đội Yankee, cháu à. Hãy tin tưởng ở Di Maggio vĩ đại”.
“Cháu sợ cả đội Hổ Detroit lẫn đội Da Đỏ Cleveland”.
“Hãy coi chừng không khéo cháu lại sợ cả đội Đỏ Cincinnati và đội White Sox của Chicago”.
"Ông đọc đi rồi kể cho cháu lúc cháu quay lại”.
“Cháu có nghĩ chúng ta nên mua tờ vé số có số cuối là tám mươi lăm không? Mai là ngày thứ tám mươi lăm”.
“Chúng ta có thể mua”, thằng bé nói.
“Nhưng thế còn con số cực kỳ kỷ lục của ông là tám mươi bảy”.
“Không thể xảy ra lần thứ hai đâu. Cháu có chắc là cháu có thể tìm được tờ vé số tám mươi lăm ấy chứ?”
“Cháu có thể mua một chiếc”.
“Một chiếc. Hai đô la rưỡi đấy. Ai có thể cho chúng ta vay món tiền ấy?”
“Dễ thôi mà. Cháu luôn có khả năng vay hai đô rưỡi”.
“Ông nghĩ có lẽ ông cũng có khả năng đó. Nhưng ông cố không vay mượn. Thoạt tiên thì vay mượn. Rồi sau đó là ăn mày”.
“Hãy giữ ấm ông ạ”, thằng bé nói.
“Chúng ta đã qua tháng chín”. “Tháng này là mùa cá lớn”, ông lão nói.
“Vào tháng năm thì ai cũng có thể trở thành người đánh cá”.
“Bây giờ cháu đi kiếm cá mòi đây”, thằng bé nói. Khi thằng bé trở lại ông lão đã ngủ trên ghế, mặt trời đã lặn. Thằng bé mang cái mền lính cũ trong giường ra trải lên phía sau ghế, đắp qua vai ông lão. Đôi vai thật kỳ lạ, vẫn chắc nịch dẫu đã rất già, cả cái cổ vẫn còn khỏe, những nếp nhăn mờ đi khi ông lão ngủ gục đầu về phía trước. Chiếc sơ mi của ông được vá nhiều lần đến nỗi trông nó cũng hệt như tấm buồm; mặt trời làm mấy miếng vá ấy phai nhạt theo nhiều màu khác nhau. Dẫu sao thì cái đầu ông lão cũng đã rất già và khi đôi mắt nhắm lại thì khuôn mặt lão không còn sinh khí. Tờ báo nằm vắt qua đầu gối lão, độ nặng của cánh tay giữ nó ở lại đó trong làn gió nhẹ buổi tối. Lão đi chân trần. Thằng bé để lão ở đó và khi nó quay lại ông lão vẫn còn ngủ.
“Ông ơi, dậy đi”, thằng bé gọi và đặt tay lên đầu gối lão. Ông lão mở mắt, ngơ ngác một lúc rồi mới tỉnh hẳn. Rồi lão mỉm cười.
“Cháu có cái gì đấy”, lão hỏi.
“Đồ ăn tối”, thằng bé nói.
“Chúng ta sẽ ăn tối”.
“Ông không đói lắm đâu”.
“Thì cứ ăn vậy. Ông không thể không ăn mà bắt cá được”.
“Vẫn cứ câu được”, ông lão nói lúc đứng dậy cầm tờ báo gấp lại. Rồi lão chuẩn bị xếp mền.
“Ông cứ quấn mền quanh người”, thằng bé nói.
“Trong lúc cháu còn sống thì ông không phải nhịn đói mà đi câu cá”.
“Vậy thì hãy sống cho thật lâu và quan tâm đến bản thân mình”, ông lão nói.
“Ta ăn gì vậy?”.
“Đậu đen, cơm, chuối chiên và ít thịt hầm”. Thằng bé đựng mấy món ấy trong chiếc cặp lồng hai ngăn, mang về từ Terrace. Hai bộ dao nĩa, thìa được quấn bằng giấy ăn đút trong túi nó.
“Ai cho cháu mấy món này?”
“Bác Martin. Chủ quán”.
“Ông phải cảm ơn bác ấy”.
“Cháu đã cảm ơn rồi”, thằng bé nói. “Ông không phải cảm ơn bác ấy nữa”.
“Ông sẽ biếu bác ấy miếng thịt bụng của con cá lớn”, ông lão nói. “Bác ấy đã nhiều lần cho chúng ta như thế này phải không?”
“Cháu nghĩ thế”.
“Vậy thì ông phải biếu bác ấy cái gì quí hơn miếng thịt bụng. Bác ấy rất tử tế với chúng ta”.
“Bác ấy gửi biếu hai chai bia”.
“Ông thích bia lon nhất”.
“Cháu biết. Nhưng đây là bia Hatuey đóng chai, cháu sẽ mang trả chai”.
“Cháu chu đáo quá”, ông lão nói. “Ta ăn chứ?”
“Thì cháu đã mời ông mãi,” thằng bé dịu dàng nói. “Cháu chưa muốn mở cặp lồng trước khi ông đã sẵn sàng”.
“Ông sẽ sẵn sàng ngay”, ông lão nói. “Ông chỉ rửa sơ qua một tí”.
Ông rửa ở đâu nhỉ, thằng bé nghĩ. Nguồn nước của làng cách đây hai con đường. Mình phải lấy nước về cho ông, thằng bé nghĩ, xà phòng và cả khăn tắm tươm tất nữa. Sao mình lại vô tâm đến thế? Mình phải kiếm cho ông chiếc sơ mi khác, một chiếc jacket mặc mùa đông, đôi giày và một cái mền nữa.
“Món thịt hầm của cháu tuyệt lắm”, ông lão nói.
“Kể cho cháu nghe về trận bóng đi”, thằng bé giục lão.
“Như ông đã nói, trong Liên đoàn Mỹ, đấy là đội Yankee”, ông lão hạnh phúc nói.
➖➖➖
Phần tiếng Anh
The Old Man and the Sea (1)
He was an old man who fished alone in a skiff in the Gulf Stream and he had gone eighty-four days now without taking a fish. In the first forty days a boy had been with him. But after forty days without a fish the boy's parents had told him that the old man was now definitely and finally salao, which is the worst form of unlucky, and the boy had gone at their orders in another boat which caught three good fish the first week. It made the boy sad to see the old man come in each day with his skiff empty and he always went down to help him carry either the coiled lines or the gaff and harpoon and the sail that was furled around the mast. The sail was patched with flour sacks and, furled, it looked like the flag of permanent defeat.
The old man was thin and gaunt with deep wrinkles in the back of his neck. The brown blotches of the benevolent skin cancer the sun brings from its reflection on the tropic sea were on his cheeks. The blotches ran well down the sides of his face and his hands had the deep-creased scars from handling heavy fish on the cords. But none of these scars were fresh. They were as old as erosions in a fishless desert.
Everything about him was old except his eyes and they were the same color as the sea and were cheerful and undefeated.
“Santiago,” the boy said to him as they climbed the bank from where the skiff was hauled up. “I could go with you again. We've made some money.”
The old man had taught the boy to fish and the boy loved him.
“No,” the old man said. “You're with a lucky boat. Stay with them.”
“But remember how you went eighty-seven days without fish and then we caught big ones every day for three weeks.”
“I remember,” the old man said. “I know you did not leave me because you doubted.”
“It was papa made me leave. I am a boy and I must obey him.”
“I know,” the old man said. “It is quite normal.”
“He hasn't much faith.”
“No,” the old man said. “But we have. Haven't we?”
“Yes,” the boy said. “Can I offer you a beer on the Terrace and then we'll take the stuff home.”
“Why not?” the old man said. “Between fishermen.”
They sat on the Terrace and many of the fishermen made fun of the old man and he was not angry. Others, of the older fishermen, looked at him and were sad. But they did not show it and they spoke politely about the current and the depths they had drifted their lines at and the steady good weather and of what they had seen. The successful fishermen of that day were already in and had butchered their marlin out and carried them laid full length across two planks, with two men staggering at the end of each plank, to the fish house where they waited for the ice truck to carry them to the market in Havana. Those who had caught sharks had taken them to the shark factory on the other side of the cove where they were hoisted on a block and tackle, their livers removed, their fins cut off and their hides skinned out and their flesh cut into strips for salting.
When the wind was in the east a smell came across the harbour from the shark factory; but today there was only the faint edge of the odour because the wind had backed into the north and then dropped off and it was pleasant and sunny on the Terrace.
“Santiago,” the boy said.
“Yes,” the old man said. He was holding his glass and thinking of many years ago.
“Can I go out to get sardines for you for tomorrow?”
“No. Go and play baseball. I can still row and Rogelio will throw the net.”
“I would like to go. If I cannot fish with you, I would like to serve in some way.”
“You bought me a beer,” the old man said. “You are already a man.”
“How old was I when you first took me in a boat?”
“Five and you nearly were killed when I brought the fish in too green and he nearly tore the boat to pieces. Can you remember?”
“I can remember the tail slapping and banging and the thwart breaking and the noise of the clubbing. I can remember you throwing me into the bow where the wet coiled lines were and feeling the whole boat shiver and the noise of you clubbing him like chopping a tree down and the sweet blood smell all over me.”
“Can you really remember that or did I just tell it to you?”
“I remember everything from when we first went together.”
The old man looked at him with his sun-burned, confident loving eyes.
“If you were my boy I'd take you out and gamble,” he said. “But you are your father's and your mother's and you are in a lucky boat.”
“May I get the sardines? I know where I can get four baits too.”
“I have mine left from today. I put them in salt in the box.”
“Let me get four fresh ones.”
“One,” the old man said. His hope and his confidence had never gone. But now they were freshening as when the breeze rises.
“Two,” the boy said.
“Two,” the old man agreed. “You didn't steal them?”
“I would,” the boy said. “But I bought these.”
“Thank you,” the old man said. He was too simple to wonder when he had attained humility. But he knew he had attained it and he knew it was not disgraceful and it carried no loss of true pride.
“Tomorrow is going to be a good day with this current,” he said.
“Where are you going?” the boy asked.
“Far out to come in when the wind shifts. I want to be out before it is light.”
“I'll try to get him to work far out,” the boy said. “Then if you hook something truly big we can come to your aid.”
“He does not like to work too far out.”
“No,” the boy said. “But I will see something that he cannot see such as a bird working and get him to come out after dolphin.”
“Are his eyes that bad?”
“He is almost blind.”
“It is strange,” the old man said. “He never went turtle-ing. That is what kills the eyes.”
“But you went turtle-ing for years off the Mosquito Coast and your eyes are good.”
“I am a strange old man.”
“But are you strong enough now for a truly big fish?”
“I think so. And there are many tricks.”
“Let us take the stuff home,” the boy said. “So I can get the cast net and go after the sardines.”
They picked up the gear from the boat. The old man carried the mast on his shoulder and the boy carried the wooden box with the coiled, hard-braided brown lines, the gaff and the harpoon with its shaft. The box with the baits was under the stern of the skiff along with the club that was used to subdue the big fish when they were brought alongside. No one would steal from the old man but it was better to take the sail and the heavy lines home as the dew was bad for them and, though he was quite sure no local people would steal from him, the old man thought that a gaff and a harpoon were needless temptations to leave in a boat.
They walked up the road together to the old man's shack and went in through its open door. The old man leaned the mast with its wrapped sail against the wall and the boy put the box and the other gear beside it. The mast was nearly as long as the one room of the shack. The shack was made of the tough bud-shields of the royal palm which are called guano and in it there was a bed, a table, one chair, and a place on the dirt floor to cook with charcoal. On the brown walls of the flattened, overlapping leaves of the sturdy fibered guano there was a picture in color of the Sacred Heart of Jesus and another of the Virgin of Cobre. These were relics of his wife. Once there had been a tinted photograph of his wife on the wall but he had taken it down because it made him too lonely to see it and it was on the shelf in the corner under his clean shirt.
“What do you have to eat?” the boy asked.
“A pot of yellow rice with fish. Do you want some?”
“No. I will eat at home. Do you want me to make the fire?”
“No. I will make it later on. Or I may eat the rice cold.”
“May I take the cast net?”
“Of course.”
There was no cast net and the boy remembered when they had sold it. But they went through this fiction every day. There was no pot of yellow rice and fish and the boy knew this too.
“Eighty-five is a lucky number,” the old man said. “How would you like to see me bring one in that dressed out over a thousand pounds?”
“I'll get the cast net and go for sardines. Will you sit in the sun in the doorway?”
“Yes. I have yesterday's paper and I will read the baseball.”
The boy did not know whether yesterday's paper was a fiction too. But the old man brought it out from under the bed.
“Perico gave it to me at the bodega,” he explained.
“I'll be back when I have the sardines. I'll keep yours and mine together on ice and we can share them in the morning. When I come back you can tell me about the baseball.”
“The Yankees cannot lose.”
“But I fear the Indians of Cleveland.”
“Have faith in the Yankees my son. Think of the great DiMaggio.”
“I fear both the Tigers of Detroit and the Indians of Cleveland.”
“Be careful or you will fear even the Reds of Cincinnati and the White Sox of Chicago.”
“You study it and tell me when I come back.”
“Do you think we should buy a terminal of the lottery with an eighty-five? Tomorrow is the eighty-fifth day.”
“We can do that,” the boy said. “But what about the eighty-seven of your great record?”
“It could not happen twice. Do you think you can find an eighty-five?”
“I can order one.”
“One sheet. That's two dollars and a half. Who can we borrow that from?”
“That's easy. I can always borrow two dollars and a half.”
“I think perhaps I can too. But I try not to borrow. First you borrow. Then you beg.”
“Keep warm old man,” the boy said. “Remember we are in September.”
“The month when the great fish come,” the old man said. “Anyone can be a fisherman in May.”
“I go now for the sardines,” the boy said.
When the boy came back the old man was asleep in the chair and the sun was down. The boy took the old army blanket off the bed and spread it over the back of the chair and over the old man's shoulders. They were strange shoulders, still powerful although very old, and the neck was still strong too and the creases did not show so much when the old man was asleep and his head fallen forward. His shirt had been patched so many times that it was like the sail and the patches were faded to many different shades by the sun. The old man's head was very old though and with his eyes closed there was no life in his face. The newspaper lay across his knees and the weight of his arm held it there in the evening breeze. He was barefooted.
The boy left him there and when he came back the old man was still asleep.
“Wake up old man,” the boy said and put his hand on one of the old man's knees.
The old man opened his eyes and for a moment he was coming back from a long way away. Then he smiled.
“What have you got?” he asked.
“Supper,” said the boy. “We're going to have supper.”
“I'm not very hungry.”
“Come on and eat. You can't fish and not eat.”
“I have,” the old man said getting up and taking the newspaper and folding it. Then he started to fold the blanket.
“Keep the blanket around you,” the boy said. “You'll not fish without eating while I'm alive.”
“Then live a long time and take care of yourself,” the old man said. “What are we eating?”
“Black beans and rice, fried bananas, and some stew.”
The boy had brought them in a two-decker metal container from the Terrace. The two sets of knives and forks and spoons were in his pocket with a paper napkin wrapped around each set.
“Who gave this to you?”
“Martin. The owner.”
“I must thank him.”
“I thanked him already,” the boy said. “You don't need to thank him.”
“I'll give him the belly meat of a big fish,” the old man said. “Has he done this for us more than once?”
“I think so.”
“I must give him something more than the belly meat then. He is very thoughtful for us.”
“He sent two beers.”
“I like the beer in cans best.”
“I know. But this is in bottles, Hatuey beer, and I take back the bottles.”
“That's very kind of you,” the old man said. “Should we eat?”
“I've been asking you to,” the boy told him gently. “I have not wished to open the container until you were ready.”
“I'm ready now,” the old man said. “I only needed time to wash.”
Where did you wash? the boy thought. The village water supply was two streets down the road. I must have water here for him, the boy thought, and soap and a good towel. Why am I so thoughtless? I must get him another shirt and a jacket for the winter and some sort of shoes and another blanket.
“Your stew is excellent,” the old man said.
“Tell me about the baseball,” the boy asked him.
“In the American League it is the Yankees as I said,” the old man said happily.
➖➖➖