Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 206 đăng ngày 2023-09-23
***
Lĩnh Nam chích quái (37, 38, 39, 40 - Hết)
Tác giả: Trần Thế Pháp (sáng tác ~ 1370-1400)
Vũ Quỳnh hiệu đính (1492)
Bản dịch của GS. Lê Hữu Mục (1960)
► XXXVII. Truyện Bạch Hạc Thần Từ
► XXXVIII. Truyện Thần Châu Long Vương
► XXXIX. Truyện ni sư Đức Hạnh
► XL. Truyện Phạm Tử Hư thờ thầy 

Minh họa của Tạ Huy Long

-:-


XXXVII

Truyện Bạch Hạc Thần Từ

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Xét Giao Châu ký của Triệu Công thì thấy chép rằng: Thần này vốn hiệu là Thổ Lệnh Trưởng: Trong khoảng niên hiệu Vĩnh Huy Cao Tông nhà Đường, Lý Thường Minh sang làm Đô đốc Phong Châu.

Thường Minh mới đến nhậm chức, thấy đất rộng nghìn dặm, núi sông bao bọc, mới dựng quán Linh Quán tại làng Bạch Hạc, thờ tượng Tam Pháp cho xứng với phong cảnh kỳ vỹ; lại biệt lập trước sau hai cái nhà ngang, nghĩ muốn đắp tượng thần Hộ Quán nhưng chưa biết thần nào linh bèn đốt hương cầu rằng:

– Thần kỳ ở đây, nếu có linh hiển thì kíp hiện hình trạng để tiện đắp tượng.

Đêm mộng thấy hai dị nhân, diện mạo ôn nhã, có đồ đệ theo hầu, rầm rộ kéo đến nhà ngang trước sân.

Thường Minh hỏi rằng:

– Các ông tên họ là gì?

Một người xưng là Thổ Lệnh, một người xưng là Thạch Khanh. Xin thử so sánh võ nghệ, ai hơn thời ở trước. Thạch Khanh vâng lời, nhảy một cái qua bên kia bờ sông đã thấy Thổ Lệnh đứng đó rồi. Khi ấy Thổ Lệnh được ở trước. Thần tượng uy linh người trong châu kinh sợ, phụng sự hương hỏa, làm vị Phúc Thần ở Tam Giang vậy.

Triều nhà Trần, Hàn Lâm Học Sĩ Nguyễn Cố hộ giá vua đi đánh Ai Lao, đến đền bái yết, có đề bài thơ rằng:

Rùa, rồng, phù, ấn buộc lưng ngang.

Việc ấy mong cầu phụ tướng quan.

Hèn yếu thư sinh không chỗ cậy,

Đến xin từ quán được bình an.

Lại có Học Sĩ Vương Đức Thành hộ giá nam chinh, đến lúc khải hoàn, vua bảo làm bài thơ tán thần rằng:

Tỳ hưu mười vạn rõ Vương linh.

Thế ép Vân Nam ải ngoại thành.

Giang tả con con nào đủ mộ.

Gió reo tiếng hạc khiếp Tần binh.

 

➖➖➖


XXXVIII

Truyện Thần Châu Long Vương

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Đời truyền: Thần vương là tinh của Viêm Long Vương. Xưa đời Hồng Lạc có người làng Hãn Kiều, họ Đặng, một người tên là Quyết, một người tên là Thiện Xạ, anh em xuống biển làm nghề bắt cá. Lúc bấy giờ họ gặp một vật lạ, hình trạng giống như gỗ, dài vừa ba thước, màu như màu trứng chim, theo con nước mà nổi lên; hai người vớt được; đêm bỗng nghe trong đốt gỗ có tiếng như hai người nói chuyện; anh em cả kinh đem quăng gỗ ra sông, chống thuyền đi nơi khác mà ngủ thì mộng thấy một người đến bảo hai anh em rằng:

– Bởi vì trước đây bà Đông Hải Long Phi tư thông với Viêm Long Vương, sợ Đông Hải Vương biết nên đem gởi cho bọn ngươi gìn giữ, chớ cho kẻ khác xâm phạm đến; nó khôn lớn lên sẽ làm phúc cho các ngươi không việc gì mà sợ.

Hai người giật mình tỉnh dậy cùng nói với nhau hốt nhiên đã thấy đốt gỗ đen sán lại bên thuyền; hai người lấy làm lạ, vớt lên chở về. Về đến làng Bố Bái, đốt gỗ ở trong thuyền bỗng nhảy lên trên bờ. Hai anh em cho là thần muốn ở chỗ này mới lập đền thờ, thuê thợ khắc gỗ làm tượng mà phụng sự; thần linh ứng, hiệu là Long Quân.

Tiên triều sai người tìm ngọc châu ở cửa biển thì tìm được rất ít, duy chỉ có con cháu nhà họ Đặng là tìm được rất nhiều. Sai quan hỏi tại sao, con cháu họ Đặng đem sự thực trình cáo. Sai quan vâng triều mệnh sắp lễ đến tế, do đó tìm được rất nhiều ngọc châu. Vua bao phong cho hiệu là Thần Châu Long Vương, trải qua mấy đời đều gia phong mỹ hiệu rất có linh ứng, nhưng sau có kẻ gian hoài oán, trừ yểm, cũng có hại cho lương dân, thật đáng tiếc.

➖➖➖


XXXIX

Truyện ni sư Đức Hạnh

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Thanh Lương ni sư người họ Phạm, con nhà thế tộc Giao Chỉ, xuất gia làm Ni ở Thanh Lương, không kể đồ mặc chỉ biết khổ hạnh, cốt lấy cần khẩn giải ngộ làm thông sướng; sư thường tập phép xước ngại, diện mạo giống như La Hán, tăng đồ xa gần đều kinh sợ coi là một vị Ni Sư ở đời; nhà của Sư thì cho tăng đồ làm chùa Hồng Vũ. Có Trần Tứ, tên là Huệ Thông Đại Sĩ ở núi Vọng Đông, một hôm bảo đồ đệ rằng:

– Ta muốn đem thân này thí cho hổ lang.

Một đêm đạo sĩ ngồi vào phiến đá nhỏ và tuyệt thực ba ngày; hổ lang đến ngồi quanh không dám đến gần. Tăng đồ khẩn xin đạo sĩ trở về am, mở cửa nhập định. Khi gần mất, Huệ Thông tập họp tăng đồ để thuyết pháp, nhân đó đóng cửa ngồi yên mà hóa, thọ hơn tám mươi tuổi. Trà Tỳ có cốt Phật Xá Lỵ rất nhiều, vì vậy có quan dựng tháp ở bản tự.

Trước kia Huệ Thông thường dặn đệ tử rằng:

– Sau khi ta chết, nên lấy xương ta cho thế gian rửa bệnh.

Đến lúc thu cốt, đệ tử không nỡ lấy chỉ bỏ vào hòm đậy lại; cách đêm bỗng thấy cái xương lớn để ở trên ghế ngoài hòm; chúng lấy làm lạ, cho là linh nghiệm.

Sau người nào có bệnh đến cầu đảo, đệ tử mài vào nước đem cho rửa, lập tức lành ngay; lời thề nguyền sâu xa đến như thế.

➖➖➖


XL

Truyện Phạm Tử Hư thờ thầy

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Thời vua Lý Huệ Tông, có Phạm Tử Hư, người làng Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giang, nhà nghèo túng, dời đến ở Hoa Phong; người thiếu niên sống cô độc, nhưng lại lạc đạo và hiếu học; theo thầy là Công Trạng, tên chữ là Công Trực, chàng thường như lời giáo huấn, học tập ý kiến thầy mà làm văn chương. Đến khi Công Trực mất, đứa con tuổi còn ấu thơ chưa có thể phụng sự, Tử Hư thưa với mẹ rằng:

– Thầy nghèo con dại, mẹ có thể để cho con bao nhiêu ruộng?

Bà mẹ nói:

– Có thể cho con sáu sào.

Từ Hư khóc:

– Xin mẹ trích ra hai sào bán cho người trong thôn lấy tiền để giúp thầy.

Bà mẹ cũng khóc nghe theo, bán hai sào ruộng được ba mươi quan tiền. Tử Hư mua sắm các vật để trợ tế cho thầy. Lại làm nhà ở bên mộ thầy, ngày đêm hương hỏa, phụng sự trong ba năm, xong việc mới trở về. Đến khoa Giáp Tý thì ứng thí, đậu tam trường; khoa Đinh Mão lại ứng thí đậu tứ trường. Năm ấy tháng Mười một, trên đường từ nhà đến Kinh, Tử Hư đi đến chùa Châu Võ; gặp ngày trời nắng to, Tử Hư vào nghỉ ở chùa, bỗng thấy Công Ttực ngồi ở trong. Tử Hư kinh sợ vừa lạy vừa khóc rằng:

– Thầy về âm ty đã bảy tám năm nay, không hiểu vì sao lại thấy ở đây?

Thầy bảo:

– Tử Hư có nghĩa với ta nên ta hiển hiện lên đây để bảo cho biết.

Tử Hư cúi đầu khóc rống:

– Ngày thầy về, nhà con nghèo túng không lấy gì làm lễ, ngày nay gặp thầy cũng tại tay không mà thôi, lấy gì làm nghĩa?

Thầy đáp:

– Sinh thời, ta ở trên dương thế có công bình chính trực nên Thượng đế cho làm Phán quan, kiêm trị việc cống cử.

Tử Hư thưa:

– Thầy có biết phận mệnh của con ra sao không?

– Nay thì ta chưa biết, con cứ về đi, đến ngày hai mươi tháng Chạp sang năm lại đến chùa này, ta sẽ bảo cho.

Tử Hư bái lạy về nhà. Đêm ngày, chàng suy nghĩ và tin vào lời nói của Thầy. Đến ngày, Tử Hư thưa với mẹ rằng:

– Mẹ ở nhà, con đi qua Kinh sư theo quan Kinh có việc.

Rồi đem theo rượu thịt đến chùa, đã thấy thầy và các đệ tử ở đó rồi. Tử Hư cúi đầu lạy, dọn rượu thịt dâng lên thầy; thầy trò cùng nhau ăn uống.

Thầy bảo Tử Hư cởi áo mũ đi giao lại cho đệ tử, rồi lấy áo mũ của đệ tử mặc cho, xong thầy lấy tay phất vài ba cái; Tử Hư nhắm mắt lại theo thầy đi lên trời. Đến chỗ làm việc của Nam Tào Bắc Đẩu, Tử Hư ngồi hai bên tả hữu, thầy cũng ngồi phía dưới cùng luận xét những người đức hạnh văn chương trong thiên hạ để yết tên lên bảng.

Có người tiến cử Trần Thái ở Quế Dương, ưu bác về văn học. Nam Tào nói:

– Trần Thái có văn học nhưng không có đức hạnh.

Có người tiến cử người làng Tây Mục là người có văn học Nam Tào nói:

– Người Tây Mục lấy văn học kiêu ngạo với người, vả lại người vợ bất tiếu, không được.

Đến người làng An Lạc tên là Phạm Công Bình giỏi văn học, vả lại tổ tông, cha mẹ đều tốt, vợ lại hiền, đáng đậu nhất đó là Trạng nguyên. Nguyễn Viết Chất người Phụng Sơn, văn học sắc sảo đức hạnh cũng hoàn toàn, đáng đậu nhì, đó là Bảng nhãn. Vương văn Hiệu người làng Thượng Hiền, văn học đầy đủ, đáng đậu thứ ba, đó là Thám Hoa, kịp đến Dương Chánh người làng Thượng Phúc, văn học tuy kém nhưng mẹ và vợ đều hiền lành, nhà nghèo nhưng mộ đạo, đáng đậu thứ tư, ấy là Hoàng Giáp. Trước sau được bốn mươi người biên tên vào bảng. Phán quan mới tiến cử người Hoa Phong Phạm Tử Hư, văn học khả thủ, Nam Tào nói:

– Tử Hư lấy văn học lên mặt với người khác.

Phán quan thưa:

– Tủ Hư còn trẻ tuổi, tuy có kiêu ngạo với người nhưng chưa từng hại người.

Ông quan áo tía nói:

– Tử Hư mồ côi từ nhỏ, mẹ có tiết hạnh, vả lại có nghĩa với Phán quan, cũng nên dung thứ cho nó đậu chót.

Lập tức niêm tên họ Tử Hư ở sau bốn mươi người, treo bảng ở cửa nhà trời.

Quan ngồi bên hữu là Bắc Đầu nói:

– Tử Hư văn học khá, nếu để đậu chót, e có trái thứ tự.

Quan áo tía nói:

– Ta lấy chữ “Bạch” thêm vào thì nó bị truất xuống chót, có trái gì đâu.

Năm sau là năm Mậu Thìn tháng Ba thi hội, Tử Hư vào đệ nhất trường, vì thiếu trị kinh, khảo quan thấy sai mới treo cảo ở dưới công đường, rồi lại đưa bài vào chấm, quả trúng cao đệ. Đến trường đệ tứ, Tử Hư văn thể thuần hậu, điển nhã cẩn mật đáng được đậu cao, chỉ vì hai chữ “bạch” nên không được lấy đậu. Kể được lấy đậu chỉ có bốn mươi người. Khảo quan tâu với vua để treo bảng. Vua bảo rằng:

– Mỗi khoa lấy năm mươi người làm hạn, khoa này lấy ít quá không được.

Lại khiến Khảo quan xét tên nào văn thể thuần hậu thì lấy thêm, không câu nệ chữ bạch; Khảo quan lấy thêm một quyển, quả là Tử Hư, dán thêm tên ở dưới bốn mươi người, mới hay ý trời rất nghiệm, vinh tiến đã định sẵn không thể dối vậy.

Sau này Tử Hư làm nên quan to, đến chức Tán Trị Dực Vân Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, đai ngọc mão vàng, tham lùng Lại Bộ thượng thư.

➖➖➖