Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 205 đăng ngày 2023-09-16
***
Lĩnh Nam chích quái (33, 34, 35, 36)
Tác giả: Trần Thế Pháp (sáng tác ~ 1370-1400)
Vũ Quỳnh hiệu đính (1492)
Bản dịch của GS. Lê Hữu Mục (1960)
► XXXIII. Truyện Minh Ứng An Sở Thần Từ
► XXXIV. Truyện Đại Than Đỗ Lỗ Thạch Thần
► XXXV. Truyện Xung Thiên Chiêu Ứng Thần Vương
► XXXVI. Truyện Khai Thiên Trấn Quốc Đằng Châu Phúc Thần 

Minh họa của Tạ Huy Long

-:-


XXXIII

Truyện Minh Ứng An Sở Thần Từ

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Xét Đỗ Thiện thấy chép Vương họ Lý tên là Phục Man, người làng Cổ Sở.

Lý Thái Tổ ngự chơi đến bến đò làng Cổ Sở, trông thấy tú khí của núi sông, cảm hứng tràn ngập, mới rót rượu đổ xuống sông mà nói:

– Trẫm nghe chỗ này sơn kỳ thủy tú, nếu có nhân kiệt, địa linh, thần kỳ, xin thụ minh hưởng của ta.

Rồi thì đến đêm mộng thấy một dị nhân cao lớn đẹp đẽ cúi đầu xưng tạ rằng:

– Thần là người bản hương, họ Lý tên Phục Man, giúp vua Lý Nam Đế làm Tả tướng, nhờ sự trung liệt được danh, trao cho một dãy sông nước Đỗ Động giữa dân cư. Đến ngày chết, Thiên đế khen là người trung trực, lại gia phong giữ chức như cũ. Thần thường nhiều lần lãnh quỷ binh đánh phá nghịch tặc nhiều năm ở đây. Nay gặp Bệ hạ đoái thương cho thần giữ chức hôm mai ở đây.

Rồi lại than rằng.

Thiên hạ gặp mờ tối,

Trung thần giấu tính danh.

Giữa trời nhật nguyệt sáng.

Ai chẳng thấy rõ hình.

Nói đoạn bỗng biến bay đi mất.

Vua Thái Tổ giật mình tỉnh dậy, đem chuyện mộng nói với một người; quan Đại phu Vương Nhậm Chí nói:

– Đó là ý thần muốn lập đền miếu, trùng tu hình tượng.

Vua sai quần thần xin keo, quả được, mới khiến thợ thiết lập đền miếu chạm trổ hình tượng giống như đã thấy trong mộng, gia phong làm Phúc thần một phương.

Đến khoảng năm Nguyên Phong nhà Trần, mọi Thát Đát vào cướp, ngựa què không tiến được, khua vào trong thôn; thôn nhân ỷ uy lực của thần, đem dân chúng ra cự, phá được quân giặc; Thát Đát không dám dòm dỏ nữa.

Đầu nhà Trần, đời Trùng Hưng nguyên niên, giặc Bắc lại vào cướp, đến chỗ nào đều đốt phá nhà cửa, kịp đến đi ngang qua Từ Sở, như có phòng hộ, may lông mùa thu không dám xâm phạm.

Giặc đã yên, vua gia phong mỹ hiệu bốn chữ: Diên An Minh Ứng, đến nay càng hiển hách thần linh vậy.

➖➖➖



XXXIV

Truyện Đại Than Đỗ Lỗ Thạch Thần

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Xét Đỗ Lỗ bản truyện thì Vương họ Cao tên Lỗ là một người tài giỏi của An Dương Vương. Tục danh Đỗ Lỗ Thạch Thần cũng gốc bởi tên thần là linh của Thạch Long vậy.

Sau khi bình định Nam Chiếu xong, Cao Biền đi tuần hành ở châu Vũ Ninh, đến một chỗ địa đầu, mộng thấy một dị nhân mình cao chín thước, tướng mạo kỳ khôi, búi tóc dùi trống, giắt trâm bằng dao, áo cụt đỏ, nịt đỏ, đến yết kiến Cao Vương; Cao Vương hỏi:

– Ngươi tên là gì?

Thưa:

– Thần tên là Cao Lỗ, ngày xưa giúp An Dương Vương làm Tướng quân, thường có công lớn đuổi giặc, bị Lạc hầu dèm pha nên bỏ đi. Sau khi đã mất thì Thượng đế thương là trung trực nên cho giữ một dải giang sơn, chức Quan Lãnh Đô Tướng Quân; việc bình Nam Chiếu, việc thảo trừ giặc cướp, việc gieo mạ gặt lúa đều am tường cả, làm Phúc thần một phương. Nay theo Minh Công tước bình nghịch tặc, bờ cõi lặng lẽ, thần phải trở về bản bộ, nếu không cáo tạ thờ phi lễ.

Cao Vương lấy làm lạ, hỏi:

– Lạc hầu việc gì lại ghét?

Thưa rằng:

– Việc u âm không thể tiết lậu.

Cao Vương lại hỏi thì đáp rằng:

– An Dương Vương là tinh Kim Kê, Lạc hầu là tinh Bạch Viên, mỗ là tinh Thạch Long. Gà với vượn hợp nhau, còn rồng thời tương khắc là vì vậy.

Nói đoạn, biến mất.

Cao Vương nói với liêu thuộc, tự ngâm thơ rằng:

Đẹp lắm đất Giao này,

Vững vàng muôn thuở đây.

Cổ hiền lại tương kiến.

Trọn chẳng phụ linh đài.

Lại ngâm thơ rằng:

Bách Việt yên bờ cõi.

Một vùng định núi sông.

Thần linh đều thuận giúp.

Phúc họ Đường chẳng cùng.

Lại ngâm thơ rằng:

Sông núi nước Nam đẹp.

Long thần ở đất linh.

Châu dân khỏi nhăn trán;

Nay lại được an bình.

Trải qua mấy triều gia phong mỹ hiệu, đến nay hương hỏa còn rực rỡ vậy.

➖➖➖



XXXV

Truyện Xung Thiên Chiêu Ứng Thần Vương

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Xét Cổ Pháp ký và bia Kỷ Đức thì Vương gốc là vị Thổ thần chùa Kiến Sơ. Ngày xưa làng Phù Đổng lập đền Thổ địa thần ở bên hữu của chùa để làm nơi tụng niệm, đến sau tăng đồ vắng vẻ, năm tháng chầy lâu, người làng lấy chỗ thần từ theo tập tục mà cầu đảo. Kịp đến khi Đa Bảo thuyền sư trùng tu chùa quán, thầy Trụ trì Truyền Đăng cho là dâm từ ý muốn dời đi.

Một hôm thần đề bài thơ ở một gốc cây trong đền rằng:

Phật pháp hay gìn giữ.

Là nhờ Trú Kỳ Viên.

Nếu không bọn ta đó;

Đã dời chỗ khác liền.

Chẳng chép Kim Cương bộ;

Giấu kín Ná-la-diên.

Vài ngày sau lại thấy tám câu Kệ đề rằng:

Phép Phật từ bi lớn.

Sáng trùm cõi tam thiên.

Vạn thần đều biến hóa;

Tâm giới thảy quanh bênh.

Thầy ta làm chính lệnh.

Tà quỷ dám tranh tiên.

Nghe theo lời thầy dạy.

Lớn nhỏ học Kỳ Viên.

Pháp sư hiểu biết mới thiết đàn để cho thần thụ giới, cúng đều dùng đồ chay cả.

Xưa kia vua Lý Thái Tổ đang buổi tiềm long biết nhà sư Đa Bảo là người cao hạnh, thường cùng theo ông đi chơi, sau khi thụ thiền thì vua thân hành đến chùa. Khi ấy nhà sư tước ngự giá đi ngang bên đền có lên tiếng hỏi thần rằng:

– Phật tử đã có thể bỏ trần tục, lại có thể khánh hạ tân Thiên tử không?

Thần lập tức trả lời, tự đề bốn câu rằng:

Đế đức càn khôn lớn.

Uy linh động tám miền;

Uy minh nhờ ân trạch,

Nhuần thấm khắp Xung thiên.

Vua nghe đọc bài thơ, biết tình ý của thần mới cho hiệu là Xung Thiên Thần Vương, hốt nhiên bài thơ biến mất. Vua lấy làm lạ, sai thợ chạm trổ tượng thần, dung mạo trác vỹ và các thị tùng, làm lễ khai quan khánh tán xong, hốt nhiên thần lại hiện ở cột chùa bốn câu kệ rằng:

Một bát nước công đức.

Theo duyên hóa thế gian.

Quang minh lại soi sáng.

Bóng lặn nhật lên non.

Sư đem bài kệ trình vua Lý Thái Tổ, Thái Tổ không hiểu ý làm sao; sau đến đời Lý Huệ Tông mất ngôi là đời thứ tám, tức là bát công đức, húy chữ 旵 [1] tức là bóng mặt trời lên núi mất nước. Kệ của thần cũng đáng tin thay!

Trải mấy đời, gia phong mỹ tự, phụng sự hương hỏa để biểu dương sự phù hựu của thần.

---

[1]       旵 là chữ Sảm, tên của Lý Huệ Tông khi chưa lên ngôi. Chữ Sảm gồm có chữ nhật nghĩa là mặt trời, trên chữ sơn nghĩa là núi. Chữ này không thấy trong Từ Hải.

➖➖➖



XXXVI

Truyện Khai Thiên Trấn Quốc Đằng Châu Phúc Thần

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

(Đây là một vị trong mười hai Sứ quân. Miếu ở huyện Kim Động, xã Đằng Châu).

Xét sử Đỗ Thiện thì thấy chép rằng Thần vốn là vị Thần Thổ địa ở cổ miếu Đằng Châu. Xưa cuối đời Lê Ngọc Triều, Lý Thái Tổ chưa lên ngôi, còn giữ thân vệ binh, thực ấp ở Đằng Châu, có khi đi chơi xem đến bản hương, thuyền đi giữa sông bỗng gặp gió to mưa lớn, vương ngoảnh lại hỏi:

– Trên bờ sông là đền thờ thần gì thế, có linh ứng không?

Thưa rằng:

– Đó là đền thờ thần Thổ Địa của Đằng Châu, dân thường đến cầu mưa đảo nắng, cho là linh ứng.

Vua Thái Tổ lớn tiếng bảo rằng:

– Nếu làm lui được một trận gió mưa, khiến nửa bên tạnh ráo mới là linh ứng.

Trong khoảng chốc lát, quả một nửa sông mưa, một nửa sông tạnh; vua cho làm lạ bèn khiển sửa sang từ vũ mà phụng sự. Thôn nhân có bài thơ rằng:

Tốt bấy Đại vương danh vọng trọng.

Đằng Châu Thổ địa hiển thần linh.

Khiến cho mưa lớn không xâm phạm.

Một nửa sông mưa, nửa vắng tanh.

Vua nghe bài thơ, thầm có ý tự phụ. Kịp đến thời của Ngoại Triều hôn bạo, vua toan mưu đại sự nên đến đền thần xin cáo mộng. Đêm ấy, vua mộng thấy thần nhân cáo rằng:

Muốn thắng tất thắng.

Muốn thành là thành.

Muôn nước hưởng thăng bình.

Ba năm nên hoan lạc.

Bảy miếu tự an ninh.

Rồi vua tỉnh dậy, chưa hiểu ý (…) quẻ, quẻ bói cho là điềm lành.

Sau Vua Thái Tổ lên ngôi, thăng (…) làm Thái Bình Phủ, đặt thần làm Khai Thiên Thành Hoàng Đại Vương.

Đời Trùng Quang nguyên niên gia phong mỹ hiệu bốn chữ: Khai Thiên Trấn Quốc. Đền thần ở trong đê sông thường bị nước lụt tràn vào; người trong thôn ở gần bờ sông có khi trông thấy xe ngựa, cờ lọng và thị tùng như là đến để phòng hộ nước lụt; bởi vậy đê tuy bằng phẳng thấp bé mà nước lụt không vào làm hại được, đó là nhờ ở sức hộ trì của thần.

Trải qua lâu năm sông lở gần đến đền thần; đến niên hiệu Tống Nguyên, năm Bính Tuất, về tiết mùa đông, lại đắp nền lập miếu trên đê lớn, gian giữa sắp xong. Một hôm, huyện lại và thợ thuyền ngủ ở nhà tranh ngoài chân đê thì nghe tiếng người đến mượn cuốc xẻng, tiếng cuốc bới vọng lại như thợ thuyền đang công tác. Đến sáng họ qua xem thì thấy cái trụ bằng đá đã đem dời vào bên tả ngạn hơn ba thước; như thế linh dị càng rõ hơn vậy.

Kịp đến ngày rước thần vào đình, quan Tri phủ Khoái Châu tên là Hoàng Nam Kim có đề bài thơ ở miếu rằng:

Bờ bãi đất chia rành chói chói.

Khai thiên huyền tạo ngóng vơi vơi.

Đền thành muốn biết chân linh tích.

Đêm ấy công thần khéo chuyển dời.

➖➖➖


Kỷ niệm xưa

Nhằm ôn lại kỷ niệm 4 năm BelUnion cắm trại 🏕 BelUnion Someren các ngày 13,14,15/09/2019 tại Heidehoeve B.V, Limburglaan 36, 5712 PM Someren, Netherlands, “Tiểu thuyết chiều thứ Bảy” xin đăng một số ảnh trích từ các album của Mr. Bạch Văn Thuần và Madame Hà Ngọc Liễu. Do trại đóng trên đất Hà Lan nên “Tiểu thuyết chiều thứ Bảy” đã nhờ phần mềm trí tuệ nhân tạo Artguru chuyển đổi các bức ảnh này thành các “bức họa nghệ thuật” theo trường phái Van Gogh. Trân trọng mời anh/chị tham khảo.

Ảnh Bảy đánh cờ tướng với Mr. Nguyễn Ngọc Hà – “quần hùng” thưởng ngoạn.

Chuẩn bị cho sinh hoạt Soirée tại trại.

Chị Bảy & Madame Trương Thị Ly.

Cặp đôi Mr. Phan Ngọc Lân & Madame Đỗ Thị Chương Đài.

Cặp đôi Mr. Bạch Văn Thuần & Madame Lê Thị Kiều Nhan.

Mr. Đặng Quốc Anh & Madame Đoàn Thị Thanh Hương.

Cặp đôi Madame Đỗ Thị Thanh Tuyền & Madame Phạm Thị Lan Hương.

Cặp đôi Mr. Hoành Hoa Dũng & Madame Thu Caudry.

Cặp đôi Mr. Lê Chánh Cần & Madame Đỗ Thị Thanh Tuyền.

Cặp đôi Mr. Lê Long & Madame Hà Ngọc Liễu.

Cặp đôi Madame Mạch Kim Nga & Madame Hoàng Thị Minh Thủy.

Cặp đôi Mr. Nguyễn Ngọc Hà & Madame Trương Thị Ly.

Cặp đôi Mr. Nguyễn Tuấn Anh & Madame Vũ Thị Minh Hà.

Cặp đôi Mr. Nguyễn Văn Vinh & Madame Hoàng Thị Minh Thủy.

Cặp đôi Mr. Trần Văn Điệt & Mr. Lê Quốc Toản.

Cặp đôi Mr. Trương Minh Hùng & Madame Đỗ Thị Thanh Thủy.

Cặp đôi Madame Trần Thị Hoàng Yến & Madame Phạm Thị Lan Hương.

Bộ tam các cháu Trần Thúy Uyển Nhi & Lê Hoàng Đức & Đặng Quốc Thái.