Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 204 đăng ngày 2023-09-09
***
Lĩnh Nam chích quái (29, 30, 31, 32)
Tác giả: Trần Thế Pháp (sáng tác ~ 1370-1400)
Vũ Quỳnh hiệu đính (1492)
Bản dịch của GS. Lê Hữu Mục (1960)
► XXIX. Truyện Bố Cái Đại Vương
► XXX. Truyện Trinh Linh Nhị Trưng phu nhân
► XXXI. Truyện Mỵ Ê Trinh Liệt Phu Nhân
► XXXII. Truyện Hồng Thánh Đại Hồng Vương 

Minh họa của Tạ Huy Long

-:-


XXIX

Truyện Bố Cái Đại Vương

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Đại vương họ Phùng, tên là Hưng, người huyện Đường Lâm, Giao Châu, tù trưởng biên man, hiệu là Lang, hào phú, có dũng lực, có thể vật được trâu, đánh được hổ. Em là Hãi cũng có sức mạnh, vác nổi nghìn cân, vác cả tảng đá mười hộc hoặc chiếc thuyền con mà đi hơn mười dặm; các man lào đều sợ uy danh.

Niên hiệu Đại Lịch đời Đường Đại Tông, nhân Giao Chỉ binh loạn trong nước, anh em đem nhau khắc phục các lân ấp, đất đai đều thuộc về anh em cả. Hưng cải danh là Cự Lão, Hãi cải danh là Cự Lực, đều hiệu là Đô Quân, Đô Bảo. Bọn tù trưởng Đường Lâm và Phong Châu thảy đều quy phục, từ đó uy danh chấn động. Quan Đô hộ nhà Đường là Cao Chính Bình đem binh dưới trướng đánh không hơn được, ưu phẫn thành bệnh mà chết. Hưng vào chiếm cứ đô phủ, làm việc cai trị được mười bốn năm rồi mất, dân chúng muốn lập Hãi lên thay, quan Tá lại đầu mục Bồ Phá Lặc là một người mạnh mẽ, sức có thể xô núi, không chịu nghe theo; dân chúng mới suy tôn người con của Hưng tên là An lên làm Đô phủ quân để úy lạo lòng hoài vọng của nhân dân. Hãi tránh Bồ Phá Lặc, dời sang ở động Chu Nham, rồi sau không biết chết ở đâu.

An suy tôn thân phụ làm Bố Cái Đại Vương, bởi theo phương ngôn thì gọi cha bằng Bố, gọi mẹ bằng Cái, nên chi tôn xưng như vậy. Phùng An nối ngôi được ba năm, Đức Tông sai Triệu Xương sang làm Đô hộ An Nam; Xương đến nơi sai sứ dụ An; An cùng với man nhân về đầu hàng Triệu Xương; các người họ Phùng bỏ đi tản mát hết.

Hưng mất rồi, thường hiển linh dị, dân chúng cho là thần mới lập miếu ở phía Tây đô phủ mà phụng sự; hễ khi nào gặp đến mấy việc như trộm cướp và nghi ngục mà đến đền thờ thì thấy rõ họa phúc, nhờ thế hương hỏa được vô cùng vậy. (Nay Thổ tù tranh trưởng cũng hiệu là Lang).

➖➖➖


XXX

Truyện Trinh Linh Nhị Trưng phu nhân

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Xét quốc sử thì hai bà Trưng họ Lạc, bà chị tên là Trắc, bà em tên là Nhị, người làng Mê Linh châu Phong, con gái Lạc tướng Giao Châu, ban đầu gả cho Thi Sách ở Châu Diên; Phu nhân người hùng dũng, hay quả quyết khi hành sự.

Lúc bấy giờ, Thái sử Giao Châu Tô Định là một người tham bạo, người trong châu lấy làm khổ sở, bà chị phẫn nộ cùng với bà em cử binh công hãm Giao Châu, rồi đến mấy quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, lược định Lĩnh Nam hơn sáu mươi thành, tự lập làm vua, mới xưng là họ Trưng vậy. Trưng Vương đóng đô ở thành Ô Diên; Tô Định chạy về Nam Hải; Hán Vũ Đế nghe tin cách chức Định, sai hai tướng quân Mã Viện và Lưu Long đem đại quân sang đánh, đến Lạng Sơn, hai chị em cự chiến hơn một năm.

Sau thấy lực lượng của Mã Viện cường thịnh, e khó chống nổi, hai bà mới thối binh bảo vệ Cấm Khê; quân lính đào ngũ rất nhiều; Phu nhân thế cô bị hãm, chết ở hồ Lãng Bạc, có kẻ bảo Phu nhân lên núi Hy Sơn, không biết đi đâu. Người trong châu thương tiếc, lập đền thờ ở cửa sông Hát Giang mà phụng sự, nhân dân gặp phải tai nạn đến cầu đảo tất hiển thần linh.

Thời Lý Anh Tông, gặp trời đại hạn, Vua sai Uy Tịnh thuyền sư đảo mưa, cảm ứng một ngày thì mưa xuống, mát mẻ thấu người; một chốc, vua nằm ngủ, hốt nhiên mộng thấy hai người đội mũ phù lưu, bận áo lục, đai đỏ, cỡi ngựa sắt, theo mưa mà đi qua. Vua lấy làm lạ mới hỏi. Thần nhân đáp rằng:

– Thiếp tức là chị em Nhị Trưng, phụng mệnh Thượng đế làm mưa.

Vua bèn ân cần xin thêm thì giơ tay bảo thôi. Vua tỉnh dậy cảm tạ, sắc phong lập đền miếu rất đẹp mà thờ. Sau lại thác mộng xin vua lập đền ở làng Cổ Lai; vua nghe theo, sắc phong là Trinh Linh Nhị Phu Nhân.

Triều nhà Trần gia phong huy hiệu là Uy Liệt Chế Thắng Thuần Trinh Bảo Thuận, đến nay hương hỏa vô cùng vậy.

➖➖➖


XXXI

Truyện Mỵ Ê Trinh Liệt Phu Nhân

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Phu nhân vốn người nước Chiêm Thành, không có họ, tên là Mỵ Ê, vợ Vua Chiêm Thành là Sạ Đẩu.

Thời vua Lý Thái Tông, Sạ Đẩu thất lễ phiên thần vua thân hành nam chinh, Sạ Đẩu đem binh dàn ở sông Bố Chính mà chờ; sau rồi bị Vương giết, phu nhân Mỵ Ê bị bắt; đến sông Hoàng giang, phu nhân nghe Trung sứ phụng mệnh đòi đến hầu thuyền ngự; phu nhân phẫn uất vô cùng, lấy tấm chiên trắng tự quấn mình rồi nhảy xuống sông mà chết; mỗi khi sương sớm đêm trăng thường có những tiếng khóc ai oán, người trong nước nghe thấy mới lập đền miếu mà phụng tự.

Sau khi vua đi chơi sông Lý Nhân, ngồi trong thuyền rồng, thấy đền miếu ở bên sông, lấy làm lạ mới hỏi tả hữu. Tả hữu thưa rằng:

– Đó là đền Mỵ Ê phu nhân.

Vua cảm động bảo rằng:

– Quả có trinh liệt, thế nào cùng báo trẫm.

Đêm ấy đến canh ba, vua mộng thấy một người bận y phục Chiêm Thành, lạy hai lạy mà khóc rằng:

– Thiếp có nghe đạo người đàn bà là một mực theo chồng sống cùng giường, thác càng huyệt, thủ tiết không ô nhục, huống chi Sạ Đẩu tuy không thể tranh tiên cùng Bệ hạ nhưng khí khái nam nhi cũng đã đắc ý một phương, thiếp vẫn đội sủng huệ; Sạ Đẩu vì lỗi đạo, Thượng đế giáng trách, mượn tay Bệ hạ để đến bây giờ quốc phá thân vong, lòng thiếp ngày đêm không quên việc đồ báo; một buổi sáng, may nhờ Bệ hạ sai Trung sứ đưa thiếp xuống tuyền đài, thiếp rất cảm ơn chứ nào có thuật gì mà xưng là linh, nói thêm nhàm tai Bệ hạ.

Nói đoạn bỗng bay lên không mà đi.

Vua kinh hãi tỉnh dậy, sai Thị thần đem rượu, giết sinh vật đến tế, phong làm Thân Chính Phu Nhân.

Qua đến niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, nhà Trần gia phong là Tá Lý Phu Nhân, đến năm Trùng Hưng thứ tư, gia phong hai chữ Trinh liệt, đến năm Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong hai chữ Trực Mãnh để biểu dương cái tiết đoan trinh của phu nhân.

➖➖➖


XXXII

Truyện Hồng Thánh Đại Hồng Vương

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Xét Sử ký thì Vương họ Phạm, tên là Cự Lượng, xưa thời vua Lý Thái Tông, phủ Đô hộ có nhiều nghi ngục, quan Sỹ sư không hay minh quyết, nghĩ nên lập đền miếu ở ngục, ý muốn nhờ sự hiển hách của thần linh và để răn đe kẻ gian trá, mới tắm gội đốt hương xin cáo với Thượng đế.

Đêm ấy, vua mộng thấy một Sứ giả áo đỏ, nói là Thượng đế có khẩn sắc cho Cự Lượng làm Minh Chủ ngục tụng đô phủ. Vua hỏi Thiên sứ rằng:

– Thế thì là người nào, hiện giữ chức gì?

Thiên sứ:

– Vua Lê Đại Hành có người bầy tôi là Phạm thái úy, làm tôi tận trung với vua, đến ngày tạ thế, Thượng đế khám xét công lao, bổ làm Nam Đài Trung Ty Lục, lấy chức cũ sai xét đoán nghi ngục của dân gian.

Nói đoạn không biết đi đâu.

Vua tỉnh dậy, vời hỏi tả hữu, quan Tể chấp nói:

– Ấy là một người hiền lành, là cháu quan Châu mục Vũ An là Phạm Chiêm, con quan Tham chính Phạm Man, em quan Đô úy Phạm Dật. Phạm Chiêm giúp vua Ngô Vương có công khai quốc gia phong Đồng Giáp tướng quân. Phạm Man giúp Nam Tấn vương thăng chức Tham chính. Phạm Dật giúp vua Đinh Tiên Hoàng. Phạm Cự Lượng giúp vua Lê Đại Hành có công, quan thăng Thái úy đều là bậc danh dự cả.

Vua cho là phải, phong làm Hồng Thánh Đại Vương.

Vua lại mộng thấy thần nhân bận đồ quan phục cổ miễn, rảo đến trước sân lạy tạ, giống như thị thần còn sống. Vua lấy làm lạ, sai soạn văn khắc bia đá, để chép sự linh dị của thần.

➖➖➖