Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 202 đăng ngày 2023-08-26
***
Lĩnh Nam chích quái (25, 26, 27, 28)
Tác giả: Trần Thế Pháp (sáng tác ~ 1370-1400)
Vũ Quỳnh hiệu đính (1492)
Bản dịch của GS. Lê Hữu Mục (1960)
► XXV. Truyện Long Độ Vương Khí
► XXVI. Truyện thần Minh Chủ núi Đồng Cổ
► XXVII. Truyện thần Ứng Thiên hóa Dục Hậu Thổ
► XXVIII. Truyện Long Trào Khước Lỗ 

Minh họa của Tạ Huy Long

-:-


XXV

Truyện Long Độ Vương Khí

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Thần vốn là vua Long Độ Vương Khí vậy. Xưa kia Cao Biền sang chơi nước Nam, đắp thành Đại La vừa xong, một hôm đi xem chơi cửa thành Đông thình lình mây mù nổi dậy, thấy đám mây ngũ sắc từ mặt đất nổi lên, sáng lòa chói mắt, có một người mình mặt áo thêu, phấn sức kỳ dị, cỡi rồng vàng, tay cầm thẻ vàng, theo mây mà bay lượn trong không khí mù mịt, giây lát mới tan. Cao Biền lấy làm lạ, ngỡ là quỷ tinh nên muốn thiết đàn tràng để trừ yểm.

Thần tác mộng bảo Cao Biền rằng:

– Xin ông đừng sinh lòng nghi, ta không phải là yêu khí mà là Long Độ Vương Khí đây, mừng ông đương nay mới dựng Phủ Thành mà hiện lên xem đấy.

Cao Biền giác ngộ, sáng ngày, hội các người đi theo mà bảo rằng:

– Ta không thể hàng phục được người xa, để đến ngoại quỷ hiện lên thì là điềm chẳng lành.

Có kẻ xin lập Pháp đàn, làm tượng hình trạng giống như mộng, lấy sắt nghìn cân làm phù để yểm; Cao Biền nghe theo nên làm phù mà yểm. Đến đêm, trời đất tối tăm, gió mưa rung chuyển đánh mất cả thiết phù hóa thành bụi đất. Cao Biền giận nói:

– Ta biết sẽ về Bắc.

Rồi thì quả nhiên như vậy; người ta cho là linh dị bèn lập đền thờ bên chợ Kinh sư.

Sau vua Lý Thái Tổ kiến lập thành quách, mộng thấy một vị thần đến trước, lạy hai lạy chúc mừng; vua nói:

– Ngươi nên giữ hương hỏa cho được trăm năm.

Thần trả lời:

– Nghiệp thánh truyền được vạn năm; thần được nhờ đấy nương tựa, há chỉ trăm năm mà thôi sao?

Vua tỉnh dậy, sai làm sinh lễ, rượu lệ tửu để cúng tế, phong làm Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương.

Lúc bấy giờ có gió bão thổi mạnh, phố xá đổ nghiêng, chỉ thấy đền thần là y nguyên như cũ. Vua bèn gia phong Minh Hạnh Đại Vương; các lễ Nghinh xuân, cầu cúng đều làm lễ ở đấy.

Đến đời Trần, ba lần đền bị hỏa tai đều cũng không cháy. Quan Thái sư Trần Quang Khải đề bài thơ đến nay đương còn được truyền tụng:

Xưa nghe lừng lẫy Đại Vương linh.

Nay mới hay rằng quỷ cũng kinh.

Lửa cháy ba lần thiêu chẳng rụi.

Gió rung một trận thổi nào chênh.

Chỉ huy đàn áp muôn ngàn chúng.

Hô hấp tiêu trừ trăm vạn binh.

Mong cậy dư uy trừ giặc Bắc.

Khiến cho vũ trụ hưởng thanh bình [1].

[1]      Bản dịch của Phan Kế Bính (trong Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện trang 122).

Xưa nghe lừng lẫy tiếng anh linh.

Ma cũng ghê mà quỷ cũng kinh.

Ngọn lửa ba phen thiêu chẳng tới,

Roi lôi một trận đánh không chênh.

Chỉ tay đè nén trăm loài quỷ

Quát tiếng trừ tan mấy vạn binh

Nhờ đội oai thần xua giặc Bắc

Khiến cho non nước lại thanh bình.

➖➖➖


XXVI

Truyện thần Minh Chủ núi Đồng Cổ

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Xét truyện Báo Cục thấy chép rằng Minh Chủ Chiêu Ứng Linh Đại Vương vốn là thần núi Đồng Cổ.

Núi Đồng Cổ ở huyện An Định, làng Đàn Đà Thượng. Ngày xưa, lúc đang làm Thái tử, Lý Thái Tông đem binh đi đánh Chiêm Thành, đến bãi Tràng Sa thì đóng quân ngủ lại; đêm quá canh ba, vương mộng thấy một vị thần bận binh phục đến thưa rằng:

– Ta là thần núi Đồng Cổ, nghe Vương nam chinh, xin theo quân Vương lập chiến công.

Trong giấc mộng, Vương cùng thần nói chuyện rất tường. Bình Chiêm Thành xong, Vương đem quân trở về Kinh, sai quần thần sáng lập từ vũ tại Kinh thành bên hữu chùa Từ Liêm. Kịp đến lúc vua Thái Tổ băng hà, Thái Tông phụng di chiếu tức vị. Đêm ấy thần lại cáo với Thái Tông rằng:

– Ba vương Vũ Đức, Dực Thánh, Đông Chinh mưu phản.

Sáng ngày, Ba vương đã phục binh trong thành, đánh gấp các cửa. Thái Tông ra lệnh cho vũ thần Lê Phụng Hiểu đem binh cự chiến; Phụng Hiểu kêu to bảo Đông Chinh, Vũ Đức rằng:

– Ba vương dòm dỏ thần khí, miệt thị tự quân, tại sao lại vong ân bội nghĩa? Phụng Hiểu này xin đem gươm đến hiến.

Rồi thẳng đến chém Vũ Đức Vương, còn Đông Chinh, Dực Thánh tẩu thoát được, hung đồ tán loạn, nội nạn thanh bình quả hợp ứng như thần mộng. Phụng Hiểu có công linh trợ, vua sắc phong làm Thiên Hạ Minh Chủ; mỗi năm đến ngày mồng bốn tháng Tư, vua hội trăm quan ở đền mà thề. Lời minh thệ là: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, Thần minh sẽ giết”; ai ai cũng đều úy mộ sùng phụng.

Phụng Hiểu tiêu trừ được nội nạn, tin thắng lợi tâu lên, Thái Tông ban khen, bảo Phụng Hiểu là người trung nghĩa anh dũng, hơn Kỉnh Đức nhà Đường rất xa. Sau phò Vua Nam chinh, đại phá giặc Chiêm Thành, công to nghiệp lớn lừng lẫy xa gần; dân lập đền thờ cầu đảo đều có linh ứng; trải mấy triều, Vương đều được gia phong tặng Vương tước cả.

➖➖➖


XXVII

Truyện thần Ứng Thiên hóa Dục Hậu Thổ

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Xét chuyện Báo Cực thấy chép rằng thần là tinh Đại địa chủ nước Nam. Xưa Lý Thái Tông chinh phạt Chiêm Thành, đi đến cửa biển bỗng thấy gió to mưa lớn, sóng cuộn ầm ầm, trông xa thấy núi đá, ngự thuyền cùng các thuyền tùy tùng đều không qua được, phải đậu một bên bờ. Đêm ấy, vua mộng thấy một người con gái áo trắng quần hồng, đạm trang dịu dàng, bước lên ngự thuyền mà thưa rằng:

– Ta là thần Đại địa nước Nam, nương thân ở trên cây lâu lắm, nay gặp minh quân xuất chinh, nguyện theo Vương để lập vũ công.

Nói đoạn, hốt nhiên đi mất; Vua kinh hoàng thức dậy mới hay là chiêm bao, cho triệu bá quan và các bậc kỳ cựu đến nói chuyện. Nhà sư Tống Huệ Sinh thưa rằng:

– Nếu như vua đã mộng thấy thần nhân báo nương thân ở cây thì thử tìm ở đấy xem sao.

Vua sai cận thần tìm khắp các núi trên bờ, thấy một khúc gỗ hình tượng giống như người, hệt như đã thấy trong mộng. Vua khiến đặt khúc gỗ lên trên ngự thuyền, đốt hương cầu đảo, gọi là Hậu Thổ Thị Phu Nhân. Trong khoảng chốc lát thì gió êm sóng lặng, thuyền đi êm ái không có một tiếng động. Đến khi phá được giặc Chiêm, ban sư khải hoàn, kinh qua chỗ cũ, vua sắc lập đền thờ thì lại thấy phong ba nổi dậy như trước.

Sư Huệ Sinh tâu rằng:

– Ý thần không muốn ở xa bờ biển, xin rước về Kinh.

Khi ấy sóng gió lại êm; về đến Kinh thành vua bèn lập miếu ở làng An Lãng, uy chương linh ứng; hoặc có người nào khí mạn thì bị hung họa.

Kịp đến thời vua Trần Anh Tông gặp năm trời đại hạn, vua sai đắp đàn cầu đảo. Thần cho vua mộng thấy rằng:

– Duy có thần Câu Mang ở bản từ là có thể làm mưa gió.

Vua tỉnh dậy sai quan Hữu ty đến tế, quả được mưa lớn dồi dào. Bà được phong làm Hậu Thổ Phu Nhân, trải qua các đời đều có gia phong vì là có công với dân.

➖➖➖


XXVIII

Truyện Long Trào Khước Lỗ [1]

Tác giả: nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc.

Xét Sử ký và đời truyền thì vua họ Lý, tên húy là Phật Tử, tướng trong họ của Tiền Nam Đế. Tiền Lý Nam Đế tên là Bôn ở huyện Thái Bình, sẵn có kỳ tài, làm quan với nhà Lương một cách bất đắc chí, lại có Tinh Thiều giỏi về từ chương, quan Lại bộ nhà Lương là Thái Tỗn bổ làm Môn Lang Quang Dương, Thiều cho là sỉ nhục bèn cùng Lý Bôn trở về làng.

Nhân Thứ sử Tiêu Tư tàn bạo mới liên kết bọn hào kiệt cùng khởi binh kéo ra chiếm thành Lâm Ấp vào chiếm quận Nhật Nam, Bôn sai Phạm Tu đánh phá được, thừa thắng tự xưng là Nam Việt Đế, đổi niên hiệu năm đầu là Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân, được tám năm rồi mất.

Lúc bấy giờ có Việt Vương họ Triệu, tên húy là Quang Phục, vốn người Châu Diên, làm Tả tướng quân của Tiền Lý Nam Đế. Ở Châu Diên có một cái đầm lớn, quanh co không biết bao nhiêu dặm. Tiền Nam Đế mất, Vương mới thu thập tàn binh hơn hai vạn người, tụ hội trong đầm (nay tục gọi là Nhất Dạ trạch); vừa giáp một năm, Vương khẩn đảo trời đất quỷ thần, được thần nhân (tục truyền là Chử Đồng Tử) theo cho móng rồng, bảo giắt ở đầu đâu mâu; đi đến đâu giặc thua chạy đến đó, chém được tướng giặc là Dương Sằn, binh nhà Lương phải rút lui. Vương vào chiếm thành Long Biên, lại chiếu đời qua hai thành Cổ Loa và Vũ Ninh, tự hiệu là Nam Việt Quốc Vương. Vương sai chia nước, cắt địa giới ở bãi Quân thần mà cai trị chung, sau Nam Đế chiếm cứ châu Ô Diên.

Con Hậu Nam Đế là Nhã Lang xin cưới con gái Triệu Quang Phục là Cảo Nương, Vương gả cho. Nhã Lang nói với Cảo Nương rằng:

– Ngày xưa hai thân phụ ta là cừu thù, ngày nay lại là thông gia, cũng thực hay lắm.

Nhân hỏi Cảo Nương rằng:

– Thân phụ em có linh thuật gì mà binh của thân phụ anh phải thua trận?

Cảo Nương lấy tình thực thưa với Nhã Lang; thuận theo ý chồng, nàng lấy trộm cái đâu mâu có móng rồng đưa cho Nhã Lang xem. Nhã Lang âm mưu đổi lấy móng rồng, rồi bảo riêng với Cảo Nương rằng:

– Anh nay dứt tình mà về thăm cha, vạn nhất có điều gì bất trắc như giặc đến mà thân phụ em đánh không hơn, nếu có chạy đi đàng nào thì em nên lấy lông ngỗng ở nệm gấm mà làm dấu, sẽ đến cứu giúp em.

Rồi sau Nam Đế đem binh đến đánh. Triệu Vương ban đầu chưa biết gì, đốc binh, cầm đâu mâu ngồi chờ; binh giặc càng tiến, Vương biết thế kém không chống nổi, bèn dắt con gái chạy về hướng Nam, bỗng thấy Long Vương chỉ mà bảo rằng:

– Con gái Vương rắc lông chỉ dấu là giặc đó.

Vương bèn rút gươm chém rồi cỡi ngựa chạy đến cửa biển Tiểu Nha; bị nước ngăn, cùng đường, lại thấy Hoàng Long rẽ nước làm đường, Vương theo xuống; nước bèn hợp lại.

Nam Đế đuổi đến, thấy nước mênh mông. Triệu Vương ở ngôi hai mươi ba năm, quốc dân cho là kinh dị, mới lập đền ở cửa biển Đại Nha mà phụng tự.

Nam Đế đuổi Triệu Việt Vương xong, trở về hai xứ Loa Thành và Vũ Ninh, phong anh làm Thái Bình Hầu, giữ thành Long Biên, Đại tướng quân Lý Tấn Đỉnh làm An Ninh Hầu giữ thành Ô Diên.

Nam Đế ở ngôi ba mươi mốt năm, bị tướng nhà Tùy là Lưu Phương tiêu diệt. Người đời sau lập đền ở cửa biển Tiểu Nha mà phụng tự.

---

[1]      tức Lý Phật Tử. So sánh với truyện Kim Quy ở trên.

➖➖➖