Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 201 đăng ngày 2023-08-19
***
Thăm lúa, Anh vẫn hành quân, Khó ngủ, Không đề
Tác giả: Trần Hữu Thung
► Thăm lúa
► Anh vẫn hành quân
► Khó ngủ
► Không đề 

 

Lời tựa:

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Trần Hữu Thung (1923-2023) – thân sinh của anh Trần Hữu Nam – “Tiểu thuyết chiều thứ Bảy” trân trọng giới thiệu đến anh/chị bốn bài thơ của ông là “Thăm lúa” (sáng tác 1.1.1950), “Anh vẫn hành quân” (sáng tác 12.963), “Khó ngủ” (sáng tác 11.1995) và “Không đề” (sáng tác năm 1944) lấy từ trang web thivien.net. Việc lựa chọn bốn tác phẩm này hoàn toàn do ý đồ chủ quan của “Tiểu thuyết chiều thứ Bảy” không dựa trên bất kỳ tiêu chí nào. Để tìm hiểu thêm về cuộc đời và các tác phẩm của nhà thơ, anh/chị có thể tham khảo bài “Nhớ Trần Hữu Thung” của tác giả Trình Quang Phú đăng trên báo Văn nghệ số 31/2023 và bài “Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Trần Hữu Thung (1923-2023): Tôn vinh những giá trị người!” của tác giả Yên Ba đăng ngày 5.8.2023 trên trang web Hội Nhà Văn Việt Nam.

-:-

➖➖➖


Thăm lúa

Mặt trời càng lên tỏ

Bông lúa chín thêm vàng

Sương treo đầu ngọn gió

Sương lại càng long lanh.

 

Bay vút tận trời xanh

Chiền chiện cao cùng hót

Tiếng chim nghe thánh thót

Văng vẳng khắp cánh đồng

 

Đứng chống cuộc em trông

Em thấy lòng khấp khởi

Bởi vì em nhớ lại

Một buổi sớm mai ri

 

Anh tình nguyện ra đi

Chiền chiện cao cùng hót

Lúa cũng vừa sẫm hột

Em tiễn anh lên đường

Chiếc xắc mây anh mang

 

Em nách mo cơm nếp

Lúa níu anh trật dép

Anh cúi sửa vội vàng

Vượt cánh đồng tắt ngang

 

Đến bờ ni anh bảo

“Ruộng mình quên cày xáo

Nên lúa chín không đều

Nhớ lấy để mùa sau

Nhà cố làm cho tốt”

 

Xa xa nghe tiếng hát

Anh thấy rộn trong lòng

Sắp đến chỗ người dông

Anh bảo em ngoái lại

 

Cam ba lần ra trái

Bưởi ba lần ra hoa

Anh bước chân đi ra

Từ ngày đầu phòng ngự

 

Bước qua kì cầm cự

Anh có gửi lời về

Cầm thư anh mân mê

Bụng em giừ phấp phới

 

Anh đang mùa thắng lợi

Lúa em cũng chín rồi

Lúa tốt lắm anh ơi

Giải thi đua em giật

 

Xoè bàn tay bấm đốt

Tính cũng bốn năm ròng

Ai cũng bảo đừng mong

Riêng em thì vẫn nhớ

 

Chuối đầu vườn đã lổ

Cam đầu ngõ đã vàng

Em nhớ ruộng nhớ vườn

Không nhớ anh răng được

 

Mùa sau kề mùa trước

Em vác cuốc thăm đồng

Lúa sây hạt nặng bông

Thấy vui vẻ trong lòng

Em mong ngày chiến thắng.

1-1-1950

Diễn ngâm trên Youtube.

---

Bài thơ này được viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, dù mang giọng thơ năm chữ và đôi chỗ gợi nhớ nhịp điệu hát dặm Nghệ Tĩnh, nhưng đã đầy đủ cốt cách một thi phẩm mới mẻ của nền thơ cách mạng đang thời trứng nước và được phổ biến rộng rãi khắp cả đất nước, đoạt nhiều giải thưởng trong và ngoài nước, trong đó có giải thưởng thơ tại Liên hoan thanh niên thế giới ở Buy-ca-rét năm 1953, được đưa vào sách giáo khoa trung học.

 

➖➖➖


Anh vẫn hành quân

Anh vẫn hành quân

Trên đường ra chiến dịch

Mé đồi quê anh bước,

Trăng non ló đỉnh rừng

 

Anh vẫn hành quân

Như ngày em có nhớ

Đứng bên cầu xóm nhỏ

Nón che em dặn thêm

 

Anh vẫn hành quân

Lưng đèo qua bãi suối

Súng ngang đầu anh gối,

Súng kề tay anh cầm

 

Trời lại mưa lâm thâm

Gió xoay chiều rét dữ

Bên cầu em thấy chứ

Anh vẫn hành quân

 

Và tiếng hát vang ngân

Như đường lên Cao Lạng

Trời Điện Biên mây trắng

Cờ chiến thắng oai hùng

 

Anh vẫn hành quân

Như chín năm kháng chiến

Năm nay tròn thêm chín

Anh vẫn hành quân

 

Em ơi Mỹ điên cuồng

Có thêm nhiều chất độc

Súng tay anh cầm chắc

Anh vẫn hành quân

 

Ai trở bước lùi chân

Ai tình quên hẹn lại

Thì lòng anh em hỡi

Càng nóng bỏng tình em

 

Dù còn đó bóng đêm

Dù xa em xa má

Đã sáng bừng hai ngả

Em ơi ta thẳng đường

 

Ngoài này hỡi em thương

Trên cánh đồng hợp tác

Trên giàn giáo công trường

Trên tuyến đường anh đặt

 

Lòng anh mang Ấp Bắc

Anh vẫn hành quân

Em ơi anh càng gần

Bên cầu xưa em nhớ

Trong lời thơ giấc ngủ

Anh vẫn hành quân

12-1963

Bài thơ đã được nhạc sĩ Huy Du phổ nhạc thành bài hát cùng tên. Trích đoạn bài thơ này được sử dụng trong sách giáo khoa tập đọc trong nhiều năm.

➖➖➖


Khó ngủ

Trằn trọc hoài chẳng ngủ

Lòng ngổn ngang lo buồn

Nhổm dậy ngồi thương mẹ

Thắp đèn lại nhớ con

Bên bình minh mặt bể

Bên bóng tà hoàng hôn

Mình cũng đầu nắng xế

Gió chiều se mây dồn...

 

Ánh ngày dang cánh vỗ

Đỉnh đại ngàn chon von

Niềm riêng đầy thương nhớ

Những băn khoăn bồn chồn

Thơ những dòng viết dở

Đời nắng mưa vẫn còn...

 

Ôi khuya càng thêm vắng

Đầu phên thưa gió luồn

Đành pha ấm trà đặc

Ngồi thức trắng đêm luôn

11-1995

Nguồn: Tuyển tập Trần Hữu Thung, NXB Nghệ An, 1997

➖➖➖


Không đề

Em hãy dừng đây mộng ảo huyền

Có đò đưa đón nắng trong đêm

Âm dương từ buổi đàn trôi hướng

Phách lạc ngoài khơi tình đảo điên

 

Mùa xưa quán lạnh ánh xiêm tan

Hoà hợp giai nhân ngấn lệ tàn

Đã hẹn cùng ai chờ kiếp trước

Sông dài che lấp mộng thời gian

 

Trao tay sầu hận mờ năm tháng

Xa ngái vườn xanh quạnh bóng nàng

Thu trước còn in lần ngọc vỡ

Tình xưa đưa vọng phút tà dương

 

Say mê một sớm động lòng thương

Cô gái chiều xuân tựa áo hường

Có phải hôm nay rồi cách biệt

Xa vời sương tuyết lạnh quê hương.

---

Bà Nguyễn Thị Chi Loan sinh ngày 11/11/1929 tại xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang (Huế) là em gái nhà thơ, nhà báo liệt sĩ Thúc Tề (tên thật là Nguyễn Thúc Nhuận). Thân mẫu của bà là Tôn Nữ Thị Tựu, con gái út của Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết. Bà Loan gọi Tôn Thất Thuyết là ông ngoại. Bà Loan tập kết ra miền Bắc, làm bác sĩ, từng làm trưởng Bệnh xá thị xã Hà Tĩnh (nay là Bệnh viện đa khoa Hà Tĩnh). Hiện bà sống tại Đà Nẵng, chồng bà là đại tá Hoàng Sửu quê ở thị trấn Đô Lương, Nghệ An, nay đã trên 90 tuổi. Vợ chồng bà Loan là người thờ tự liệt sĩ Thúc Tề. Bà từng học ở trường Ecole (Huế). Năm 1942 bà vừa học vừa đến ở với anh trai Thúc Tề giúp anh mở quán bánh bèo tại ngã ba Sỏi cũ dưới chân núi Ngự Bình. Do trước đó Thúc Tề hoạt động cách mạng ở Sài Gòn bị lộ, về quê được bố mẹ làm cho cái quán nhỏ đó để trốn tránh bọn mật thám. Tại đây, bà Loan thường được gặp những người bạn của anh mình như hai anh em nhà văn Trần Thanh Mai và Trần Thanh Dịch, nhạc sĩ Vĩnh Phan, nhà thơ Lưu Trọng Lư, nhà văn Hải Triều. Năm 1944, bà được gặp hai nhà thơ từ Nghệ An vào là nhà Bùi Tiên Cảnh và Trần Hữu Thung. Bà đã phục vụ rất chu đáo hai nhà thơ mới đến. Trước lúc chia tay nhà thơ Trần Hữu Thung đã chép tay tặng bà bài thơ này. Trong thời gian ở miền Bắc bà đã vài lần tìm gặp Trần Hữu Thung, nhưng có lần bà vừa tới thì nghe nói nhà thơ đi công tác.

Bài thơ này được bà Loan cung cấp cho nhà báo Nguyễn Ngọc Vượng, và được nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo công bố vào ngày 4/2/2015 trên blog cá nhân.

 

➖➖➖