Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 199 đăng ngày 2023-08-05
***
Lĩnh Nam chích quái (17, 18, 19, 20)
Tác giả: Trần Thế Pháp (sáng tác ~ 1370-1400)
Vũ Quỳnh hiệu đính (1492)
Bản dịch của GS. Lê Hữu Mục (1960)
► XVII. Truyện Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không
► XVIII. Truyện Nam Chiếu
► XIX. Truyện Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải
► XX. Truyện Hà Ô Lôi 

Minh họa của Tạ Huy Long

-:-

XVII

Truyện Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không

Chùa Thiên Phúc ở núi Phật Tích (nay ở núi Sài Sơn, xã Phúc Sài, huyện An Sơn). Đạo Hạnh Thuyền sư họ Từ tên là Lộ; ông thân tên là Vinh, làm chức Tăng quan Đô án triều Lý, thường đến chơi làng An Lãng, sau lấy người con gái họ Tăng. Từ Lộ là con nàng Tăng thị, lúc trẻ ham chơi bời nhưng khẳng khái có chí lớn, thường cùng với một nho giả tên là Phí Sinh, một đạo sinh tên là Lê Toàn Nghĩa, một linh nhân tên là Phạm Ất kết làm bạn thân, đêm thời khắc khổ đọc sách, ngày thời thổi sáo, đá cầu, đánh bạc làm vui; cha thường trách là hoang đãng.

Một buổi chiều kia, ông cụ lẻn vào chỗ Lộ nằm dòm thử xem chàng làm gì thì thấy ngọn đèn cháy tàn, sách vở chất đống, Lộ đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, từ đấy, ông cụ không lo nữa; sau Lộ ứng thí tăng đồ, đậu khoa Bạch Liên.

Chưa bao lâu, cụ Vinh dùng tà thuật chống lại Diên Thành Hầu, Hầu nhờ Thuyền Sư Đại Điên dùng phép đuổi đánh chết, quăng thây xuống sông Tô Lịch, thây trôi đến cầu Quyết Kiều chỗ nhà Hầu ở, bỗng đứng dậy không đi nữa; Hầu sợ, chạy cáo với Đại Điên; Điên đến đọc kệ rằng:

– Tăng giận chưa thỏa mãn hay sao?

Thây liền ứng thanh trôi đi.

Từ Lộ lo phục thù cho cha, nghĩ chưa ra kế gì, một hôm lén dòm Điên đi ra liền đón đường mà đánh, bỗng nghe giữa không trung có tiếng bảo đừng. Lộ sợ quăng gậy mà đi, muốn qua nước Phương Độ cầu linh thuật để chống Điên; đường phải đi ngang qua làng mọi răng vàng, hiểm trở nên Lộ bỏ về, mới ẩn lại trong hang núi Phật Tích, thường chuyên trì tụng Đại Từ Tâm Kinh, chú Đà La Ni, hết mười tám vạn tám ngàn lần.

Một hôm thấy một thần nhân đến thưa rằng:

– Đệ tử tức là Trấn Thiên Vương, cảm công đức trì kinh của Sư nên đến đây hầu hạ xem Sư có sai khiến gì chăng?

Từ Lộ biết rằng đạo của mình đã viên thành, thù cha có thể phục được, mới thân đến đầu cầu Quyết Kiều, thử ném cái gậy cầm trong tay xuống giữa dòng nước chảy thì cái gậy trôi ngược lên như con rùa bơi, đến cầu Tây Dương Kiều mới dừng lại.

Lộ nói:

– Phép của ta đã hơn Điên rồi.

Bèn đi thẳng đến nhà Điên; Điên thấy Lộ bảo rằng:

– Mày không nhớ cái việc ngày trước hay sao?

Lộ ngẩng mặt lên trời, thấy vắng vẻ không có gì mới đuổi Điên mà giết. Điên phát bệnh rồi chết.

Từ đấy thù xưa rửa sạch, tục lự tiêu tan, Lộ mới du lịch tùng lâm, khảo sát ấn chú, nghe sư Kiều Trí Huyền ở chùa Thái Bình, thân đến bái yết và hỏi đạo chân tâm, nhân đó đọc bài kệ:

Lặn lội phong trần vắng tiếng tăm.

Chẳng hay đâu tá ấy chân tâm?

Nguyền mong chỉ dẫn đường phương tiện;

Muôn dặm nay không nhọc sức tầm.

Sư Trí Huyền cũng đáp lại bằng một bài kệ:

Ngọc phiêu bí quyết diễn thành âm,

Trong ấy trăng tròn thấy thuyền tâm.

Hà sa đấy phải Bồ Đề đạo;

Nghĩ đến Bồ Đề cách vạn tầm.

Lộ mù mịt không hiểu làm sao mới bỏ mà đi; đi qua chùa Pháp Vân, hỏi sư Sùng Phạm rằng:

– Thế nào gọi là chân tâm?

Phạm bảo rằng:

– Cái gì cũng có chân tâm hết.

Lộ rõ ràng tỉnh ngộ lại hỏi rằng:

– Thế nào gọi là phép Bảo trụ?

Phạm bảo:

– Đói ăn, khát uống.

Lộ bái tạ mà lui.

Từ đấy pháp lực tăng gia, thuyền duyên thuần thục, rắn núi thú hoang đều hiền lành đến từng bầy, đốt ngón tay để cầu mưa, niệm chú vào nước để trị bệnh, không bao giờ là không hiệu nghiệm. Có một nhà sư hỏi rằng:

– Tại sao khi thì thầy làm, khi thì thầy nghỉ, lúc thì thầy ngồi, lúc thì thầy nằm mà đều là chân tâm cả?

Lộ cho xem một bài kệ:

Có thì cát bụi có.

Không thì một tướng không.

Có, không, trăng dưới nước.

Không sắc ắt không không. [1]

Lại nói rằng:

Nhật, nguyệt lên đồi núi.

Người người mất hỏa châu.

Giàu, có lừa để cưỡi,

Đi bộ chẳng cỡi câu.

Triều Lý, vua Nhân Tông chưa có hoàng tự, gặp năm Tường Phù Đại Khánh thứ ba, tháng ba, phủ Thanh Hoa có dâng sớ tâu rằng:

“Ở mé biển Nhữ Châu có một tiểu đồng linh dị, ba tuổi biết nói, tự xưng là Dị tử, hiệu là Giác Hoàng, Bệ hạ làm việc gì nó cũng biết”.

Vua sai Trung sứ qua xem, quả như lời nói, mới rước tiểu đồng về Kinh sư ở chùa Báo Thiên. Giác Hoàng là Đại Điên hóa sinh vậy. Vua Nhân Tông thấy Giác Hoàng thông minh anh dị, rất yêu, muốn lập lên làm Hoàng thái tử; quần thần đều can cho là không nên; lại nói rằng nếu nó linh dị thực thì đáng lẽ nên thác sinh vào nơi cung cấm nhiên hậu mới có thể được. Vua nghe theo mới mở đại hội bảy ngày đêm để làm phép thác thai.

Từ Lộ nói riêng với bà chị rằng:

– Đứa trẻ kia là yêu quái, mê hoặc rất nhiều người, nếu ta ngồi xem không lo cứu vãn để cho nó huyễn hoặc nhân tâm, cổ loạn chính pháp hay sao?

Nhân đó khiến bà chị làm người giả đi xem hội, bí mật cầm vài cái ấn của Lộ đã kết sẵn giắt lên ở trên rèm. Hội đến ngày thứ ba, Giác Hoàng thụ bệnh, bảo với người ta rằng:

– Khắp cả bốn phía vườn, lưới sắt đều giăng kín mít, không có đường nào mà vào thác sinh được.

Vua nghi cho Lộ làm phép giải chú mới bắt đến tra hỏi, quả nhiên như vậy; vua bảo giam Lộ ở lầu Hưng Thánh, hội quần thần để nghị tội. Sùng Hầu đi ngang qua, Lộ van cầu rằng:

– Xin Hầu hết sức cho bần tăng khỏi tội, bần tăng nguyện thác thai trong cung để báo ân Hầu.

Hầu gật đầu.

Kịp đến khi hội nghị, quần thần đều nói rằng:

– Bệ hạ vì không có con nên mới cầu kẻ kia thác sinh mà Lộ dám cả gan làm phép chú giải, thật đáng bị tội đại lục để tạ thiên hạ.

Một mình Sùng Hầu tâu rằng:

– Giác Hoàng nếu có thần thuật, dầu cho Lộ có làm phép chú giải cũng có hại gì đâu, nay trở lại như thế thì Lộ xuất sắc hơn Giác Hoàng rất xa. Ngu thần trộm nghĩ ví bằng bắt tội Lộ, bất nhược tha cho nó để nó thác sinh thì hơn.

Vua tha cho Lộ.

Lộ đi lén đến nhà Sùng Hầu tạ ơn, lập tức đi thẳng đến cho phu nhân Đỗ thị tắm mà dòm vào. Phu nhân giận, cáo với Hầu; Hầu đã biết ý, không quở trách. Lộ dặn rằng:

– Lúc nào phu nhân đến kỳ sinh đẻ phải nói cho tôi biết.

Năm ấy, phu nhân quả có thai, mãn kỳ, sinh rất khó; Hầu nhớ đến lời Lộ dặn ngày trước, sai người đến bảo Lộ; Lộ nghe tin báo bèn tắm rửa, thay đồ mặc, bảo với các tăng rằng:

– Túc nhân của ta chưa hết lại phải ra thác sinh ở thế gian, tạm làm Quốc vương, đến lúc thọ chung lại phải làm vua hai mươi ba năm, nếu thấy chân thân của ta tổn diệt thời là ta vào Niết bàn chứ không phải sinh diệt đâu.

Tăng đồ nghe nói, hết thảy đều cảm động mà khóc. Lộ thuyết kệ rằng:

Thu sang chẳng báo nhạn về đây.

Cười bấy nhân gian nước mắt đầy.

Nhắn với môn nhân đừng luyến tiếc.

Thầy xưa mấy độ, đến thầy nay.

Nói đoạn, vào trong hang núi, cỡi mây mà đi.

Khi ấy phu nhân sinh hạ được một con trai, đặt tên là Dương Hoán, mới ba tuổi đã được Nhân Tông nuôi ở trong cung, lập làm Hoàng thái tử.

Nhân Tông băng hà, Thái tử tức vị, đó là Thần Tông, tức là Từ Lộ hóa sinh vậy.

Người làng lấy làm linh dị, bỏ thây vào trong lồng mà phụng sự; chỗ Lộ thoát hình bây giờ ở tại hang núi Phật Tích, chùa Thiên Phúc, huyện An Sơn.

Xưa kia ở Tràng An có người làng Đại Hoàng Đàm xá tên là Nguyễn Chí Thành ở chùa Quốc Tự, hiệu là Minh Không thuyền sư, lúc trẻ đi du học gặp Đạo Hạnh theo học đạo giáo trải bốn mươi thu; Đạo Hạnh khen là người có chí nên truyền tâm ấn cho, lại đặt tên cho nữa. Kịp đến lúc Đạo Hạnh tạ thế, bảo Minh Không rằng:

– Ngày xưa, đức Thế Tôn ta đạo quả viên thành, còn có báo ân cho Kim Sáng, huống chi pháp thuật của ta chưa tinh, khởi đầu ta hẵng tự bảo vệ. Nay ta thác sinh nhân thế, địa vị nhân chủ, bệnh trái ở lai sinh đã định nên khó tránh, có dịp con nên cứu giúp ta.

Khi Đạo Hạnh thác hóa rồi, Minh Không trở về chùa cũ ở mười năm không cầu có tiếng tăm gì. Lúc bấy giờ, Lý Thần Tông bỗng bị một bệnh lạ, tiếng rên la như cọp rống rất sợ. Lương y trong thiên hạ ứng chiếu mà đến kể có hàng nghìn người đều chịu bó tay không làm gì được.

Hồi ấy có bọn tiểu đồng hát rằng:

Muốn lành bệnh Thiên tử,

Phải được Nguyễn Minh Không.

Triều đình sai sứ đi tìm, quả tìm được Minh Không. Minh Không đã đến, các thầy thuốc danh tiếng đều ở trên điện làm phép, thấy Minh Không phác ngu, miệt thị không gia lễ. Minh Không thân cầm một chiếc đinh lớn dài năm tấc đóng vào cột điện, nói lớn lên rằng:

– Ai nhổ được chiếc đinh này ra mới chữa được bệnh.

Nói thế hai ba lần, không một ai trả lời. Minh Không lại lấy hai ngón tay trái mà nhổ đinh, đinh theo ngón tay ra ngay, mọi người đều kính phục.

Đến lúc Minh Không vào thăm bệnh cho vua, thấy vua thì lập tức la lên một cách dữ tợn:

– Đại trượng phu quý là làm Thiên tử, giàu có bốn phương sao lại sinh ra lồng lộn lên như thế?

Vua sợ quá run lên.

Minh Không bảo lấy một cái chảo lớn, đổ nước đun sôi lên, nước đã sôi một trăm lần, Minh Không lấy tay khuấy nước vài cái rồi rảy vào mình vua, bệnh lập tức khỏi ngay. Vua phong cho Minh Không làm chức Quốc sư, cho ăn lộc vài trăm nóc nhà để thưởng công cho ông.

Niên hiệu Đại Định năm thứ hai là năm Tân Sửu, Minh Không tạ thế, thọ bảy mươi sáu tuổi.

Sau đây là một truyện khác về Minh Không.

Làng Giao Thủy có chùa Không Lộ, xưa có một nhà sư tên là Trị Bình Gian, xuất gia trụ trì ở chùa ấy, được tiếng khen là người có đức hạnh. Một hôm, Minh Không từ ngoài đi vào, có một nhà sư cùng phòng (tức là Đạo Hạnh) ẩn ở trong cửa, nhảy ra làm như tiếng hổ để dọa Minh Không, Minh Không cười bảo:

– Ngươi đã tu hành còn muốn làm hổ à? Ta sẽ cứu ngươi.

Sau vài năm nhà sư mất, hóa làm Quốc vương, chưa bao lâu bỗng hóa ra có lông rồi nhảy nhót, gầm thét, mặt như hình mặt hổ; triều đình đi cầu khắp các y vu tăng đạo, chẳng một ai chữa được, nghe Minh Không có pháp thuật mới sai người đem thuyền đến rước Minh Không. Minh Không lấy một chiếc nồi nhỏ nấu cơm cho bọn thủy thủ ăn. Sứ giả cười rằng:

– Thủy thủ đông như thế, e không đủ.

Minh Không nói:

– Không, để họ ăn mỗi người một ít, xem chút hậu tình của ta.

Tất cả thủy thủ bốn năm mươi người ăn mãi không hết, mọi người đều lấy làm lạ.

Đến lúc trời chiều, xuống thuyền, Minh Không lại bảo thủy thủ cùng Sứ giả rằng:

– Các ngươi hãy ngủ đi, sáng ngày mặt trời mọc, bần tăng thức dậy hãy chèo thuyền, nếu không thế thì ta không đi đâu.

Sử giả khẩn cầu không được, phải nằm xuống giả đò ngủ thì nghe dưới thuyền có tiếng gió thổi vèo vèo, qua một thời gian thì mặt trời mọc, Minh Không kêu dậy thì thấy thuyền đã đậu ở bến Kinh đô rồi. Minh Không bay lên trời vào cung, nấu nước sôi tắm cho vua, tắm vào mình thì lông rụng hết, thân thể bình phục như xưa, Vương hỏi cớ làm sao. Minh Không thưa:

– Người tu hành nếu có niệm mê thì chỉ sám hối mà thôi không khó gì cả.

Vương lại hỏi:

– Làm sao mà sư được thần thông như thế?

Minh Không thưa:

– Đó không phải là thuật, thần sẵn có phong tật, phát ra không thấy, quả tượng không hay, cái gì là không thì cứ để mặc mà đi chứ không phải thần thông vậy.

Minh Không lại trở về tay không, vua ban thưởng gì cũng không lấy. Vua mới cho hiệu là Thần tăng để thưởng công.

---

[1]      Bản dịch của Phan Kế Bính (trong Nam Hải Dị Nhân liệt truyện, trang 126).

Có thì có tự mảy may,

Không thì cả thế gian này cũng không?

Thử xem bóng nguyệt dòng sông,

Ai hay không có có không là gì?

 

➖➖➖


XVIII

Truyện Nam Chiếu

Nước Nam Chiếu là hậu duệ của Triệu Võ Đế Đà. Xưa thời Hán Vũ Đế, quan Thừa tướng nước Triệu là Lữ Gia không phục nhà Hán, giết sứ nhà Hán là An Quốc và Vương Lý; Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem binh sang đánh, bắt Vệ Dương Vương Kiến Đức và Lữ Gia rồi chiếm luôn cả nước, chia đặt Thú Lệnh.

Họ Triệu mất rồi, con cháu tản mát ra ở khắp bốn phương, hội lại ở Thần Phù, Hoàng Sơ là những nơi hoang nhàn không có người ở, đóng thuyền qua biển, giết quan Thú Lệnh nhà Hán mà xưng làm Nam Việt, lại ngoa truyền là Nam Chiếu. Kịp đến đời Tam quốc, vua Ngô Tôn Quyền sai bọn Đái Lương, Lữ Đại qua làm Thú mục để cai trị.

Nam Chiếu từ mấy chỗ Thiên Cầm sơn, Hà Hoa, Cao Hoàng, Hoành Sơn, Ô thị, Hải Ngạn, Đại Bộ, Trường Sa, Chú Đổ, Cáp Lội Lôi, núi cao biển sâu, sóng gió hiểm trở, tuyệt nhiên không có dấu người, dân chúng Nam Chiếu chiếm cứ mà ở, dần dần càng đông mới đem của cải châu ngọc thông giao với nước Tây Bà Dạ mà cầu làm thân thuộc để cứu trợ nhau.

Cuối đời nhà Tấn, thiên hạ đại loạn, có kẻ Thổ tù tên là Triệu Ông Lý cũng là dòng dõi Triệu Vũ, anh em rất đông, dũng lực hơn người, dân chúng đều kính phục, cũng theo về với Nam Chiếu đông hơn hai vạn người, lại đem bảo ngọc cầu thông với nước Bà Dạ, xin chỗ đất trống ở mé biển mà ở. Bấy giờ, nước Bà Dạ sai lấy đều một nửa từ bờ biển đến tận đầu nguồn chia làm hai lộ, trên tự Quý Châu đến Diễn Châu làm lộ Nhứ Hoàn, dưới từ Cầm Châu đến Hoan Châu làm lộ Lâm An chia cho Nam Chiếu do Ông Lý thống trị.

Khi Ông Lý đắp thành ở Cao Xá châu Diễn Châu, Đông giáp biển, Tây đến Bà Dạ quốc, Nam đến Hoành Sơn tự lập lên làm vua thì nhà Đông Tấn sai Tướng quân Tào Khả đem binh sang đánh. Ông Lý ở chỗ yếu hiểm đầu nguồn, mai phục tượng binh đón đánh, lại xuất quân ra ngoài núi Liên Mạt để tránh, giặc tụ thời tan, giặc tan thời tụ, sớm ra tối vào, qua lại bốn năm năm chưa từng giao chiến. Quân Tấn không hợp lam chướng, tử vong quá nửa, đến lúc kéo quân trở về, Nam Chiếu lại xâm lăng các nơi đô thành Tràng An, quan Thú Lệnh không chế ngự được; đến đời Đường lại càng thịnh vượng.

Vua Ý Tông sai Cao Biền sang đánh; không hơn được, Biền phải trở về. Đến đời Ngũ Đại, Thạch Kính Đường nhà Hậu Tấn sai quan Tư mã Lý Tiêm đem mười vạn quân đánh ở Đồ Sơn; Nam Chiếu rút lui bèn phụ vào với nước Ngô Đầu Mô giáp giới với nước Ai Lao, nay là nước Bồn Man vậy.

Niên hiệu Hàm Thông thứ sáu, vua Ý Tông nhà Đường sai Cao Biền sang làm Đô Hộ đem binh đánh Nam Chiếu, bèn đặt đạo quan Thịnh Hải ở thành An Nam và cho Biền làm Tiết Độ Sứ.

Cao Biền thông hiểu thiên văn địa lý, mới xem địa hình đắp La thành ở phía Tây sông Lô, chu vi ba nghìn bước mà cư trú; có một con sông nhỏ từ Tây bắc chảy qua phương Nam, lại chảy vào sông Cái; mỗi lần trời mưa, nước sông dâng lên rộng lớn. Biền cỡi thuyền đi chơi bỗng thấy một ông già đầu tóc bạc phau, dung mạo kỳ dị đang chơi ở giữa sông cười nói tự nhiên. Biền hỏi ông già tính danh là gì. Ông già thưa:

– Ta họ Tô tên Lịch.

– Nhà ông ở đâu?

– Nhà ở giữa sông này.

Nói đoạn, vỗ tay một cái thì trời đất tối tăm, hốt nhiên không thấy đâu nữa. Biền biết là một vị thần mới đặt tên sông ấy là sông Tô Lịch.

Một buổi trời mới sáng, Biền đứng ở phía đông Nam đô thành, trên bờ sông Lô, trông thấy giữa sông lộng gió, sóng cuộn ầm ầm, mây đen mù mịt, có một dị nhân đứng trên mặt nước, cao hơn hai trượng, mình mặc áo vàng, đầu đội mão tía, tay cầm thẻ vàng bay lên lượn xuống trong ánh sáng; mặt trời đã cao ba sào, khí mây chưa tan và hình người vẫn đứng; Biền rất kinh dị muốn yểm đi nhưng chưa quả quyết; đêm ấy, nằm mộng thấy thần nhân bảo:

– Đứng yểm ta, ta là tinh Long Đậu, trưởng của địa linh, nghe ngươi đến đắp thành ở đây chúng ta chưa được gặp nhau nên ta đến ra mắt, nếu có yểm thì ta cũng chẳng lo gì.

Biền kinh động, sáng ngày thiết đàn làm chay, dùng vàng bạc đồng sắt làm phù phép tụng chú ba ngày đêm, rồi chôn phù mà yểm. Đêm ấy sấm sét ầm ầm, gió mưa dữ dội, trong khoảng chốc lát lại thấy các phù vàng bạc, đồng sắt bị tung lên trời đất, hóa thành tro cháy bay đi mất hết.

Cao Biền than rằng:

– Chỗ này có thần linh dị, không nên ở lâu mà mắc phải hung họa, ta nên gấp trở về Bắc.

Sau Ý Tông triệu Biền về, Biền quả bị giết.

➖➖➖


XIX

Truyện Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải

Làng Hải Thanh có chùa Nham Quang; Không Lộ thuyền sư họ Dương là người làng Hải Thanh, nhà vốn sống bằng nghề câu cá, sau bỏ nghề câu đi tu, ở chùa thường niệm kinh Già Trì Đà La Ni Môn. Khoảng năm Chương Thánh Gia Khánh, sư kết làm đạo hữu với Giác Hải, lần đến chùa Hà Trạch nương thân, ăn cỏ mặc cây như quên cả thân thể, ngoài thì tuyệt sự tha cầu, trong thì tu theo phép thuyền định, tâm thần, tai mắt càng ngày càng sáng suốt, có thể bay lên không, vào dưới nước, phục được hổ, giáng được rồng, muôn trạng nghìn kỳ không ai lường biết được. Sau thì tìm về làng cũ, lập chùa mà ở; ngày kia có một nhà sư hỏi rằng:

– Từ khi ta đến đây, chưa nhờ chỉ dẫn tâm yếu cho, dám xin trình một bài kệ:

Rèn luyện tâm thân mới được thanh.

Sum sê nhánh thẳng đối hư linh.

Có người đến hỏi không không pháp.

Thân ở bên hình bóng lộn hình.

Sư hiểu, bảo rằng:

– Ngươi đem gốc tích đến, ngươi đem kinh đến, ta vì ngươi tiếp nhận, ta vì ngươi lo lắng, chỗ nào lại không hợp tâm nguyện của ngươi.

Rồi cười lên ha hả.

Sư thường thuyết kệ rằng:

Chọn đất long xà ở thảnh thơi.

Trọn ngày tu luyện thú nào vui?

Có khi lên thẳng trên đầu núi.

Ba tiếng kêu to lạnh cả trời.

Sư tịch vào năm Hội Tường Đại Khánh thứ mười [1] (niên hiệu vua Lý Nhân Tông), ngày mồng ba tháng Sáu năm Kỷ Hợi; môn nhân thu liệm hình hài chôn trước cửa chùa, có lời chiếu mở rộng thêm chùa và quyên thuế ba nghìn nóc nhà để phụng hương hỏa.

Giác Hải thuyền sư cũng là người làng Hải Thanh, ở chùa Diên Phúc bản quận, họ Nguyễn, xưa vốn thích nghề câu cá, thường lấy thuyền làm nhà, trôi nổi trên biển; hai mươi lăm tuổi mới bỏ nghề câu, cắt tóc đi tu. Ban đầu cùng với sư Không Lộ ở chùa Hà Trạch, sau tìm về làng Hải Thanh. Thời Ký Nhân Thông, ông thường cùng với Thông Huyền chân nhân được triệu vào cung Liên Hoa, chầu ngồi trên đá mát. Bỗng có hai con cáp giải kêu nhau, rộn tai đáng ghét: vua bảo sư Huyền dùng phép cho nó im đi; sư Huyền mật niệm chú, đầu tiên chỉ có một con thôi không kêu nữa. Vua cười bảo Giác Hải rằng:

– Còn lưu lại một con cho Sa Môn sư đó.

Giác Hải lập tức niệm chú, con kia cũng thôi kêu ngay. Vua lấy làm lạ, làm bài Tán rằng:

Giác Hải lòng như hải.

Huyền Thông đạo cũng huyền.

Thần thông hay biến hóa.

Một Phật, một thần tiên.

Nhà sư từ đó nổi tiếng, tăng đồ trong thiên hạ theo học, vua cũng lấy lễ mà đãi nhà sư.

Mỗi khi giá ngự đến hành cung làng Hải Thanh, vua cũng ngự đến chùa trước. Một hôm, vua hỏi nhà sư rằng:

– Người có nghe nói về phép ứng chân định thần chưa?

Sư bèn làm bài tụng Bát biến, bay mình lên không cách mặt đất vài trượng, chốt lát lại trở xuống. Vua cùng quần thần đều vỗ tay khen ngợi. Từ đấy vua ban cho cái xe Kiến dư, ra vào các đình.

Đến đời vua Thần Tông, vua nhiều lần cho Sứ vời sư đế Kinh, nhưng sư lấy cớ bị bệnh già mà từ chối không đến.

Có người hỏi sư:

– Phật cùng với chúng sinh, ai khách mà ai chủ?

Sư cho nghe bài kệ này:

Biết đầu râu người bạc.

Bảo người làm lão khách.

Nếu rằng cảnh giới Phật;

Cửa rồng gặp điểm ngạch.

Gặp đến khi sư gần tịch, lại cố một bài kệ rằng:

Xuân về hoa buớm khéo quen thì.

Hoa bướm đua nhau vẫn ứng kỳ.

Hoa bướm xưa nay đều cảnh ảo.

Chớ đem hoa bướm hỏi tâm trì.

Đêm ấy có sao Hỏa tinh rơi vào góc Đông nam nhà Thái thất. Gần sáng, sư ngồi nghiêm chỉnh mà mất. Vua hạ chiếu quyên thuế ba nghìn nóc nhà làm của hương hoa và cho hai người chức quan phụng tự để bao thưởng.

➖➖➖


XX

Truyện Hà Ô Lôi

Niên hiệu Thiệu Phong thứ sáu đời Dụ Tông nhà Trần [1], có một người làng Ma La tên là Đặng Sĩ Dinh làm quan An Phủ Sứ, phụng mệnh đi sứ Tầu. Bà vợ là Vũ thị ở nhà. Trong làng có một ngôi đền thần gọi là Ma La Thần, thần tinh đêm đêm hóa làm Sĩ Dinh từ cách đứng ngồi đến nét mặt đều giống hệt Sĩ Dinh rồi vào phòng Vũ thị cùng nàng thông dâm; gần sáng lại đi, không biết đi đâu.

Đêm sau, Vũ thị hỏi rằng:

– Phu quân đã phụng mệnh Bắc sứ, sao lại đêm đêm được về mà ngày thời không thấy?

Thần nói dối rằng:

– Vua đi sai quan khác đi sứ, bảo ta chầu hầu tả hữu cùng vua đánh cờ vây không cho ra ngoài, ta niệm tình vợ chồng nên đêm trốn về với nàng để thỏa bề ân ái, sáng ngày phải gấp về triều không dám ở lâu, gà gáy lại phải đi.

Vũ thị trong lòng lấy làm nghi. Giáp một năm, Sĩ Dinh đi sứ về thì Vũ thị đã có thai gần đẻ; Sĩ Dinh đem việc tâu với vua. Vũ thị bị hạ ngục.

Đến đêm, vua mộng thấy một vị thần đến trình rằng:

– Thần đây là thần Ma La, vợ là Vũ thị đã có thai bị Sĩ Dinh tranh mất.

Vua giật mình tỉnh dậy, sáng ngày bảo ngục quan đem Vũ thị đến tra hỏi sự do.

Vua phán rằng:

– Vợ thì trả lại cho Sĩ Dinh, còn con thì giao cho thần Ma La.

Quá ba ngày, Vũ thị đẻ ra một cái bọc đen, xé ra thì được một đứa con trai, da thịt đen như mực; đến mười ba tuổi, đặt tên là Ô Lôi, tuy đen như sơn nhưng da láng như mỡ. Mười lăm tuổi, vua triệu vào chầu, rất là sủng ái nên cho làm tân khách.

Ô Lôi ra đi chơi gặp Lã Động Tân. Động Tân hỏi:

– Em bé đẹp lắm! Em có muốn cầu điều gì không?

Lôi thưa:

– Hiện nay thiên hạ thái bình, nhà nước vô sự, phú quý xem như đám phù vân vậy, tôi chỉ muốn có thanh sắc, cho vui tai thích mắt mà thôi.

Động Tân nói:

– Em ưa thanh sắc thì được cũng như mất, nhưng danh để được lưu ở đời.

Nhân đó bảo Ô Lôi há miệng xem thử; Ô Lôi há miệng ra. Động Tân nhổ nước bọt vào bảo nuốt rồi bay lên không mà đi.

Từ đấy, không biết chữ, nhưng Ô Lôi biện bác mẫn tiệp, có nhiều điều hơn người về từ chương, thi phú, ca kịch, ngâm xướng; cái giọng phúng vịnh như đùa gió cợt trăng, như mây bay nước chảy làm cho ai ai cũng thích nghe, đến như đàn bà con gái lại càng thích nghe hơn, càng muốn thấy mặt nó.

Vua thường bảo ở triều rằng nếu ai có thấy Ô Lôi gian phạm con gái nhà ai, bắt nó đến đây thì vua thưởng tiền một nghìn quan, nếu giết nó đi thì phải bồi thường một vạn quan. Đi chơi đâu, vua thường cho nó đi theo.

Lúc bấy giờ ở làng Nhân Mục có một nàng Quận chúa thuộc về hàng Tôn thất tên là A Kim; mới hai mươi ba tuổi mà chồng đã mất sớm, ở góa nhưng nhan sắc diễm lệ tuyệt thế vô song. Vua thích, nhưng cầu thông không được. Vua lấy làm lạ, bảo Ô Lôi rằng:

– Mày có kế gì để lấy được Quận chúa không?

Ô Lôi thưa:

– Thần nguyện hết sức trong hạn một năm nếu không thấy mặt thần tức là mưu bất thành, thần đã chết rồi.

Ô Lôi bái từ mà đi, về nhà lập tức cởi bỏ áo xiêm, dầm mình ở bùn lầy, phơi ra nắng mưa cho mặt mày xấu xí, rồi mặc một cái khố vải giả làm đứa giữ ngựa, lấy một đôi giỏ tre, một phong cau trầu, đến gần ngoài cửa nhà Quận chúa, đưa phong cau trầu cho người hôn đồng giữ cửa mà xin vào cắt cỏ. Người hôn đồng cho vào. Lúc bấy giờ vào khoảng tháng Năm, tháng Sáu, hoa nhài nở đầy vườn, Ô Lôi nhất thiết cắt sạch cho vào trong giỏ. Thị tỳ thấy vườn hoa đã hết mới hô lên bắt Ô Lôi trói lại, giam được ba bốn ngày không thấy người đến nhận, mới hỏi nó rằng:

– Mày ở cho nhà nào, sao không thấy chủ mầy đến chuộc?

Ô Lôi thưa:

– Tớ là người phiêu bạc, không có cha mẹ, không có chủ nhà, thường theo lũ con hát làm mướn kiếm ăn. Ngày trước thấy một ông quan cột ngựa ngoài cửa thành Nam, ngựa thì đói mà cỏ thì không có, gia đồng cho năm đồng tiền bảo đi cắt cỏ. Tớ mừng được tiền, đi cắt, có biết hoa nhài là gì đâu, ngỡ là cỏ cả. Bây giờ không lấy gì thường, nguyện vào làm nô để trả nợ ấy.

Giữ nó hơn một tháng, gia chủ, nô tỳ thấy đói khát thì cho ăn uống với họ; đêm thời ca xướng, giao du với hôn đồng. Từ gia chủ, nô tỳ đến kẻ nội thị cơ quyến nghe đến tiếng hát của nó đều say mê muốn nghe mãi.

Một hôm, quá hoàng hôn rồi mà không thấy thắp đèn, Quận chúa thầm ngỡ là tả hữu không có người, giận quá gọi thị tỳ đến trước mặt để trách mắng cái tội đã bỏ việc không lo, toan đánh đòn nữa.

Thị tỳ đều vòng tay tạ tội rằng:

– Chúng con nghe thằng cắt cỏ nó ca hát hay quá, say mê quên cả về, không ngờ bỏ việc đến thế, bây giờ Quận chúa đánh đập hay giáng truất chúng con đều cam chịu.

Quận chúa làm ngơ không hỏi nữa.

Lúc bấy giờ tiết mùa hạ nóng nực, đêm mới đầu canh, Quận chúa cùng với bọn thị tỳ ngồi chơi giữa sân, hóng gió trông trăng, lấy làm thắng thưởng, bỗng lắng tai nghe thấy tiếng hát Ô Lôi ở bên kia tường; tiếng hát véo von như tiết điệu Quân thiên, khác hẳn thanh âm ở trên đời; tinh thần nhiễm hội ý tứ thê lương lại càng thêm vui thích, bèn sai thị tỳ đem Ô Lôi vào làm gia đồng, một mình ở bên tả hữu để sai khiến, dần dần thành ra một người tớ cận mật, thường bảo nó ngâm vịnh để vợi mối tình uất kết. Ô Lôi nhân đó càng thêm siêng năng, bôn tẩu phục dịch, Quận chúa càng thêm tín sủng cho làm khách nhi, ngày thời chầu chực bên cạnh, đêm thời cầm đèn đứng hầu; có khi bảo nó ca xướng; thanh âm thấu cả trong ngoài, Quận chúa vì thế cảm động mới thành chứng bệnh u uất: dần dà đến ba bốn tháng, bệnh lại nặng thêm, bọn thị tỳ phục sức lâu ngày thành ra mỏi mệt, đêm khuya ngủ quên, Quận chúa kêu không hay biết.

Một hôm Ô Lôi đêm vào hầu bệnh, đứng gần Quận chúa; Quận chúa không ngăn được tình dục, mới bảo Ô Lôi rằng:

– Từ ngày mầy vào đây, vì giọng hát của mầy mà ta thành bệnh.

Rồi cùng Ô Lôi giao thông, bệnh dần dần bớt.

Từ đó tình ái càng ngày càng thân mật, đến như cái vẻ xấu xí cũng không cần đoái tiếc gì nữa, lại muốn đem ruộng đất cho Ô Lôi làm nhà ở.

Ô Lôi nói:

– Tôi không có nhà cửa, nay gặp được Quận chúa, thực là thiên tiên, đó là phúc cho tôi rồi đó, tôi chẳng muốn điền sản, vàng bạc, châu báu, chỉ nguyện được cái mũ giát vàng khảm ngọc của Quận chúa tiến triều, đội thử một cái thì dầu chết cũng nhắm mắt vậy.

Cái mũ giát vàng khảm ngọc là của Tiên đế ban cho Quận chúa để đội những khi có lễ triều cống, đến nay Quận chúa cũng cho Ô Lôi không tiếc. Ô Lôi được mũ rồi bèn âm thầm đi về, đội mũ ra mắt vua; vua thấy thế mừng quá, lập tức đòi Quận chúa tiến triều. Ô Lôi đội mũ đứng hầu. Vua hỏi Quận chúa rằng:

– Có biết Ô Lôi không?

Quận chúa trông thấy thế ngượng lắm.

Ô Lôi có bài quốc ngữ [2] rằng:

Chỉn đà nấu đến nguyện làm tôi,

Hai chữ Thiên Tiên để cha Lôi.

Từ đó tiếng đồn ra thiên hạ, con gái nhà Vương hầu thường chê cười. Có bài thơ quốc ngữ rằng:

Sương kể dầu sương vẹn được mười.

Những nơi quyền quý thiếu chi người.

Bởi vì thanh sắc nên say đắm.

Khá tiếc cho mà lại khá cười.

Tuy có thơ bỉ mặt như thế nhưng thường bị tiếng hát lôi cuốn không thể tránh được nên thường cùng nó giao thông; không có ai dám đánh đập nó vì đã có lời Chiếu bắt thường tiền.

Sau Ô Lôi tư thông với cô con gái đầu lòng của nhà Minh Uy Vương; Vương bắt được giam lại nhưng chưa giết. Sáng hôm sáu, Minh Uy Vương tiến triều tâu rằng:

– Ô Lôi hồi đêm vào nhà thần, tối sáng khó phân biệt nên thần lỡ đã đánh chết, dám xin tạ tiền, bao nhiêu thần xin tiến nạp.

Vua không biết là chưa giết, lập tức phán rằng:

– Lúc đó mà đánh chết thời không kể.

Lúc ấy Huy Từ hoàng hậu là chị ruột Minh Uy Vương nên vua có ý nể. Minh Uy Vương trở về giết Ô Lôi. Trước khi sắp chết, Ô Lôi ngâm một bài thơ quốc ngữ như sau:

Sinh tử là trời sá quản bao.

Nam nhi miễn được tiếng anh hào.

Chết vì thanh sắc cam là chết

Chết đáng là nên cơm cháo nào.

Lại bảo rằng:

– Lã Động Tân đã nói với ta: “Thanh sắc của mầy, được mất ngang nhau, lời nói rất đúng vậy”.

---

[1]      1346.

[2]      Tức chữ Nôm. Những bài thơ sau đều được viết bằng chữ Nôm.

 

➖➖➖