Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 198 đăng ngày 2023-07-29
***
Lĩnh Nam chích quái (13, 14, 15, 16)
Tác giả: Trần Thế Pháp (sáng tác ~ 1370-1400)
Vũ Quỳnh hiệu đính (1492)
Bản dịch của GS. Lê Hữu Mục (1960)
► XIII. Truyện Kim Quy
► XIV. Truyện Man nương
► XV. Truyện núi Tản Viên
► XVI. Truyện hai vị thần Long Nhãn và Như Nguyệt 

Minh họa của Tạ Huy Long

-:-


XIII

Truyện Kim Quy

An Dương Vương nước Âu Lạc là người ở Ba Thục, họ Thục, tên Phán, nhân việc tiên tổ cầu hôn với con gái của Hùng Vương tên là Mỵ Nương không được nên sinh ra hàm oán; Phán muốn hoàn thành ý chí của tổ tiên nên cử binh đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang, cải hiệu là Âu Lạc mà ở, đắp thành ở đất Việt Thường; thành đắp xong lại sập, Vương mới lập đàn, trai giới cầu đảo ba tháng.

Ngày mồng bảy tháng Ba bỗng thấy một ông già theo phương tây mà đến thẳng cửa thành, vừa đi vừa than rằng:

– Xây đắp thành này thì bao giờ cho xong!

Vương rước vào trên điện, lạy và khóc rằng:

– Ta đắp thành này đã xong lại đổ, hao tốn công sức mà rồi không thành là tại làm sao?

Ông già thưa:

– Ngày nào có Sứ giả Thanh Giang cùng đắp với Vương thì thành ấy mới xong.

Nói đoạn cáo từ.

Rạng ngày, Vương đứng ở cửa Đông trông ra thì thấy một con rùa vàng theo hướng Đông mà bơi lại; rùa đứng trên mặt nước, nói được tiếng người, tự xưng là Thanh Giang sứ giả, biết rõ lẽ trời đất, âm dương, quỷ thần.

Vương mừng hỏi rằng:

– Điều đó ông già đã báo cho ta rồi.

Bèn sai lấy kim dư rước vào trong thành, mời ngồi trên điện, hỏi vì cớ gì mà thành không đắp được. Kim Qui nói:

– Ở đây có tinh khí núi sông, con Tiên vương phụ vào để báo thù nước, lại có con gà trắng sống ngàn năm hóa làm yêu tinh ẩn ở núi Thất Diệu, trên núi có con quỷ, nguyên trước có một nhạc công chôn cất ở đấy hóa ra quỷ. Ở bên có một cái quán để cho hành khách qua lại ngủ nhờ; chủ quán tên là Ngộ Không, có một đứa con gái và một con gà trắng là dư khí của quỷ thần. Hễ có người khách nào qua lại đến đấy ngủ nhờ thì quỷ tinh hóa ra thiên hình vạn trạng mà giết hại rất nhiều. Bây giờ nên bắt con gà trắng và đứa con gái của chủ quán mà giết đi thì tinh quái sẽ hết. Nhưng chắc là nó lại hóa ra yêu thư, sai chim Si Hưu [1] ngậm thư bay lên trên cây chiên đàn, tâu với Thượng đế để xin phá thành ấy đi. Thần này xin cắn cho rơi cái thư ấy xuống, Vương lập tức thu lấy tất nhiên thành đắp mới xong.

Kim Qui bảo Vương giả làm khách đi đường xin ngủ nhờ trong quán. Vương để Kim Qui ở trên ngưỡng cửa.

Ngộ Không nói:

– Quán này có yêu tinh, đêm thường giết người, Lang Quân không nên ở lại, vả nay trời cũng chưa tối, nên đi mau đến chỗ khác để tránh họa.

Vương cười rằng:

– Sinh tử tại mệnh, quỷ mỵ mà làm gì, ta không sợ.

Mới ngủ lại đó.

Trong đêm có quỷ tinh đến ngoài kêu rằng:

– Ai ở trong nhà này phải mở cửa ra mau.

Kim Qui mắng rằng:

– Cửa đóng thì mày làm gì nào?

Quỷ tinh phóng hỏa tan ra vạn trạng, quỷ dị đủ phương để khủng bố nhưng rốt cuộc cũng chẳng vào được nhà.

Đến lúc gà gáy, các quỷ đều chạy tan. Kim Qui khiến Vương đuổi theo đến núi Thất Diệu, quỷ tinh thu về hết cả, Vương trở lại quán trọ.

Sáng ngày, chủ quán đem người đồng đến để chôn thi thể của khách ngủ lại hôm qua, thấy Vương ngồi đó, nói cười như không có gì cả. Quán chủ bước đến, vái lạy nói rằng:

– Lang quân được như thế tức là Thánh nhân rồi, xin ban linh thuật để cứu sinh linh.

Vương bảo:

– Hãy giết con gà trắng của mày mà tế thì quỷ thần tan hết.

Ngộ Không giết con gà trắng thì đứa con gái tự nhiên cũng nhào xuống chết. Vương lập tức bảo người đào núi Thất Diệu, được một nhạc khí đời cổ và một hài cốt, sai đốt trộn thành tro mà quăng ra sông.

Lúc bấy giờ trời đã gần chiều, Vương cùng Kim Qui leo lên núi Việt Thường, quỷ tinh đã hóa ra chim Si Hưu ngậm thư bay lên cây chiên đàn.

Kim Qui bèn hóa ra một con chuột mà bò theo sau lưng cắn chân chim; thư rơi xuống đất; Vương lập tức thu lấy thì sâu đã ăn hết hơn một nửa rồi.

Từ đó, quỷ tinh tan hết, không lại phá phách như xưa nữa.

An Dương Vương đắp thành nửa tháng đã xong; thành dài và rộng nghìn trượng, xoáy tròn như hình con ốc, lại đặt tên là thành Thăng Long [2]. Người nhà Đường gọi là thành Sát Quỷ Côn Lôn bởi vì thành rất cao lớn.

Kim Qui ở lại với Vương ba năm rồi từ về; Vương bảo rằng:

– Nhờ ơn của người, thành đã vững chắc, nếu như có việc ngoài thì lấy gì mà chống giữ?

Kim Qui thưa:

– Quốc tộ tu đoản, xã tắc an nguy là vận của trời, nhưng người biết tu đức thì có thể lâu dài được, Vương đã có lòng ước nguyện thì tôi đâu dám tiếc.

Mới cởi cái móng chân đưa cho Vương và nói:

– Thảng hoặc giặc có đến thì dùng móng này làm máy nỏ, đem ra mà đánh giặc thì không có gì đáng lo.

Nói đoạn trở về Đông Hải.

Vương khiến bầy tôi là Cao Lỗ làm nỏ, lấy móng làm máy, hiệu là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ; sau Triệu Đà đem quân đến xâm lăng, cùng Vương giao chiến; Vương dùng thần nỏ mà bắn, quân Triệu Đà thua chạy, đóng đồn ở núi Trâu Sơn, đối lũy với Vương. Triệu Đà biết Vương có nỏ thần nên không dám tái chiến mới khiển sứ thỉnh hòa. Vương mừng, cắt từ sông Tiền giang trở về phương Bắc cho Triệu Đà cai trị, trở về phương Nam thì do Vương cai trị (nay là sông Nguyệt Đức) [3].

Chưa được bao lâu, Đà sai con vào túc vệ cầu hôn con gái Vương là Mỵ Châu; Vương bất ý không ngờ gian kế của cha con Triệu Đà; Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu trộm lấy nỏ thần cho xem, rồi lén làm nỏ khác đổi lấy vuốt rùa giấu đi, nói dối với Mỵ Châu là trở về thăm cha mẹ. Nhân đó nói rằng:

– Tình phu phụ thì không nỡ quên, mà ơn phụ tử cũng không nên bỏ, ta nay về thăm cha mẹ mà vạn nhất hai nước thất hòa, Nam Bắc cách biệt, ta trở lại tìm nàng thì nàng lấy vật gì mà làm dấu cho ta biết.

Mỵ Châu nói:

– Thiếp là nhi nữ gặp phải bước phân ly thực khó thắng được tình cảm; thiếp có chiếc nệm [4] gấm lông ngỗng thường mang trên người, đến lúc ấy thì thiếp lấy lông ngỗng mà rải ở các ngã ba để chỉ cho chàng biết chỗ thiếp đi mà đến cứu.

Trọng Thủy từ tạ, cắp nỏ mà về báo cáo với Triệu Đà; Đà được nỏ rất mừng liền phát binh đánh Vương; Vương không lo phòng bị, mãi đánh cờ vây, cười rằng:

– Đà không sợ nỏ thần của ta sao?

Đến lúc quân Triệu Đà tiến bức, Vương mới xách nỏ ra bắn thì thần cơ đã mất; quân chạy tán loạn.

Vương chở Mỵ Châu lên ngựa chạy về hướng Nam, đến bờ biển, cùng đường, không có thuyền để sang ngang, Vương hét lớn lên rằng:

– Trời để mất ta hay sao? Giang sứ đâu mau đến cứu ta.

Kim Qui nổi lên trên mặt nước, mắng rằng:

– Người cỡi ngựa ở sau lưng là giặc đó, hãy giết nó ta mới cứu.

Vương bèn tuốt gươm chém Mỵ Châu.

Mỵ Châu ngửa mặt lên trời mà cầu xin:

– Thiếp là con gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại đến phụ thân thời chết hóa thành bụi trần, bằng như một niềm trung tín, bị người phỉnh phờ thời hóa làm ngọc châu để rửa cái thù nhục nhã này.

Mỵ Châu chết ở bờ biển, máu chảy trên nước, hàu hến ăn vào lòng hóa thành minh châu.

Vương cầm sừng vân tê bảy tấc, Kim Qui rẽ nước dẫn Vương vào biển, đời truyền tại núi Mộ Dạ, làng Cao Xá, châu Diễn tức là chỗ đó vậy.

Quân Triệu Đà đến chỗ ấy không thấy gì hết, chỉ thấy tử thi của Mỵ Châu; Trọng Thủy ôm thây nàng mà về chôn ở Loa Thành, hóa làm giếng ngọc; Trọng Thủy thương cảm vô cùng, thấy lại những chỗ trang điểm hay tắm gội của Mỵ Châu, tưởng nhớ đến hình dung của nàng bèn nhảy xuống giếng mà chết. Sau này, ai được ngọc châu ở Đông Hải, càng múc nước giếng ấy mà rửa thì sắc ngọc càng thêm rực rỡ. Nhân tránh tên Mỵ Châu nên gọi ngọc châu là Đại Cưu, Tiểu Cưu vậy.

---

[1]      Chim cú.

[2]      Chắc sai: bản của Deepierres ghi là Tư Long.

[3]      Theo bản của Despierres thì là sông Thiên Đức (xem Cổ Loa, Capitale du royaume Âu Lạc).

[4]      Dịch chữ nhục 溽. Có người dịch là áo choàng e không đúng. Nhưng thực ra nệm gấm mà thường mang trên người thì cũng là một thứ áo choàng.

➖➖➖


XIV

Truyện Man nương

Thời Hiến Đế nhà Hán, quan Thái thú tên là Sĩ Nhiếp đắp thành ở phía Nam sông Bình giang (nay là thành phía Nam sông Thiên Đức). Ở phương Nam có một ngôi chùa gọi là chùa Phúc Nham, có một nhà sư từ phương Tây đến, hiệu là Già La Đồ Lê, trụ trì ở chùa ấy, hay làm phép đứng một chân; trai gái, già trẻ tín mộ, kính phụng tôn hiệu làm Tôn sư, ai nấy đều cầu học đạo Phật.

Lúc bấy giờ có một người con gái tên là Man nương, cha mẹ đều đã mất, nhà nghèo khổ nhưng cũng dốc lòng cầu đạo, chỉ vì nói ngọng, khó tụng kinh chung với mọi người nên thường ở sau bếp giã gạo nhặt rau, lo việc nấu thổi đồ cung dưỡng các sư trong chùa và học giả bốn phương đến học đạo.

Khoảng trời tháng năm, đêm lại ngắn ngủi, Man nương vội vã lo thổi nấu cho xong. Nàng nấu đã xong xuôi, nhưng các sư còn tụng kinh chưa nghỉ để ăn cháo; Man nương ngồi chờ, ngủ gật ở ngạch cửa không ngờ quên lửng nằm ngủ say. Đến khi tăng đồ tụng niệm xong, ai về phòng nấy thì Man nương còn nằm ở cửa; nhà sư Đồ Lê bước ngang trên mình nàng, Man nương hỗn nhiên tâm động, từ đó thụ thai. Trong khoảng được ba bốn tháng, Man nương lấy làm xấu hổ bỏ đi, nhà sư Đồ Lê cũng tránh đi đến chùa ngã ba đầu sông mà ở.

Mãn nguyệt, Man nương sinh được một đứa con gái và tìm nhà sư để giao lại. Đêm khuya, nhà sư Đồ Lê đến dưới cây đa ở ngã ba đầu sông mà đặt đứa con gái và nói:

– Ta gửi Phật tử này cho mày, mày giữ lấy, sau được thành Phật đạo.

Sư Đồ Lê và Man nương từ biệt nhau mà đi, Đồ Lê cho nàng một chiếc gậy và bảo rằng:

– Ta cho em cái gậy này đem về, hễ gặp năm nào trời đại hạn thì lấy gậy vẩy vẩy dưới đất tự nhiên có nước chảy ra để cứu người ta.

Man nương cầm gậy trở về, lại ở chùa như trước; gặp năm trời hạn, nàng lấy gậy vẩy trên đất, tự nhiên có nước suối chảy ra ào ào, dân chúng được nhờ vả rất nhiều.

Khi Man nương đã hơn tám mươi tuổi thì bất đồ cây đa bị lật đổ trôi đến trước bến chùa, quanh quẩn ở đó không trôi đi; người ở đó đua nhau bửa củi thì búa rìu đều bị gãy mẻ hết; làng xóm rủ nhau ba trăm người đến kéo cũng không chuyển động. Gặp khi Man nương xuống bến rửa tay, nàng khẽ lấy tay kéo thử, cây lập tức chuyển động trôi vào, ai nấy kinh dị, vội bảo Man nương kéo thẳng lên bờ, khiến thợ mộc trổ làm bốn pho tượng Phật; kịp lúc đẽo đến giữa cây, chỗ giấu người con gái thì chỗ ấy đã hóa thành một phiến đá rất cứng; người thợ đẽo đúng vào chỗ đó thì rìu búa mẻ hết, mới lấy phiến đá ném xuống giữa sông; phiến đá phóng xuất hỏa quang, giờ lâu mới chìm xuống nước; các người thợ đều chết hết. Mọi người đều xin nhờ Man nương van vái mướn người kẻ chài lặn xuống nước vớt lên, rước vào điện Phật, lấy vàng tô lên mà phụng thờ.

Sư Đồ Lê mới đặt tên cho bốn pho tượng Phật là: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, và Pháp Điện. Già trẻ trai gái bốn phương thường nhóm họp ở chùa này chơi đùa ca múa, gọi là hội tắm Phật, đến nay đang còn vậy.

➖➖➖


XV

Truyện núi Tản Viên

Núi Tản Viên ở phía tây Kinh thành nước Nam Việt, núi đứng cao thẳng như hình một cái lọng nên đặt tên như vậy.

Xưa kia vua Lạc Long cưới nàng Âu Cơ, sinh được một bọc trăm trứng, Long quân đem năm mươi trai về biển, năm mươi trai theo mẹ về núi, phân trị thiên hạ, hiệu là Hùng Vương; Tản Viên Sơn Đại Vương là một người con trong số năm mươi trai chia về đó. Vương tử hải quốc do cửa biển Thần Phù mà về, tìm một nơi cao ráo thanh u, dân tục thuần hậu mà ở, mới chèo thuyền từ sông Cái đến làng Long Đậu thành Long Biên, toan muốn lưu lại đó nhưng còn có ý gì bất mãn, nên sau lại chèo thuyền từ sông Linh giang đi lên đến làng Phiên Tân ở bờ sông Phúc Lộc; Vương trông thấy núi Tản Viên tú lệ, ba hòn sắp hàng đứng, nghiễm nhiên như vẽ; dân ở dưới núi, tục chuộng tố phác. Vương khi ấy mở một con đường thẳng như dây đàn từ làng Phiên Tân mà đến bên núi Tản Viên, đi đến Uyên động, lại đi đến Nham tuyền là chỗ nguồn khác, rồi lại đi lên núi Thạch Bàn đầu non Vân Mộng mà ở; hoặc có khi chơi sông Chiết Giang để xem cá, phàm kinh qua đường thôn đều xây đền vũ để làm nơi nghỉ ngơi. Nhân những vết chân ấy, người đời sau lập đền thờ phụng, hạn thì đảo, lụt thì cầu, ngự hỏa tai, ngăn đại hạn mau hơn tiếng vang, cực kỳ linh ứng. Lại gặp ngày trời trong sáng như có hình trạng cái tàn phấp phới trên hang núi, những dân ở làng phụ cận đều bảo là sơn thần xuất hiện.

Cao Biền nhà Đường ở An Nam muốn yểm linh tích các nơi danh thắng mới mổ bụng mười bảy người, tất cả đều là con gái chưa chồng, bỏ ruột đi, lấy cỏ chỉ độn vào ruột, cho mặc áo xiêm để ngồi trên ghế ỷ, dùng trâu bò mà tế, nhòm lúc nào thấy cử động thời lấy gươm chém đi. Các vị thần phàm ngu đều dùng thuật ấy. Cao Biền thường lấy thuật ấy trêu thần núi Tản Viên thì thấy Vương cỡi ngựa trắng đứng trên mây, khạc nhổ mà đi. Cao Biền than rằng:

– Linh khí Nam phương chưa thể trắc lượng được, vượng khí đâu khá diệt được, uy linh hiển ứng là như thế.

Tục truyền Vương và Thủy Tinh cùng cưới con gái Hùng Vương là Mỵ Nương: Vương đủ lễ cưới đem đến trước; Hùng Vương gả cho; Vương rước vợ về ở trên núi Tản Viên. Thủy Tinh đến sau mới hàm oán, đem cả loài thủy tộc đánh Vương để đoạt Mỵ Nương lại. Vương bèn dùng lưới sắt chắn ngang sông Từ Liêm để trấn át. Thủy Tinh khơi riêng một con sông nhỏ từ sông Lý Nhân ra sông Hát vào sông Đà để đánh sau lưng núi Tản viên. Lại mở thêm một lối nhỏ từ Tích giang đi đến trước núi Tản Viên, trải qua các làng Cam Giá, Đông Lâu, Thạch Kê, Ma Xá, Dục Giang, xói lở thành vũng sâu để thông loài thủy tộc, thường lại nổi cơn gió mưa mù mịt, dâng nước lên để đánh Vương. Nhân dân ở núi đều chẻ tre đan làm rào thưa để che đỡ, đánh trống, giã gạo, reo hò để cứu, mỗi khi thấy rác rêu trôi ở ngoài rào thưa thì bắn trúng chết hết hiện thành hình trạng giao long, cá trạch trôi đầy sông ngòi. Quần chúng thủy tộc bị thua trở về, lòng vẫn chưa nguôi nên thường đến khoảng tháng Tám, tháng Chín có nhiều trận lụt, mùa màng bị hại, dân ở dưới núi chịu thiệt hơn đâu hết, đến nay vẫn còn.

Người đời đều bảo Thủy Tinh, Sơn Tinh đều cưới vợ vậy đó.

➖➖➖


XVI

Truyện hai vị thần Long Nhãn và Như Nguyệt

Năm Thiên Phúc của Lê Đại Hành hoàng đế tức là năm Tân Tỵ, vua Thái Tông nhà Tống sai tướng quân Hầu Nhân Bửu, Tôn Hoàng Hưng đem binh Nam xâm; họ đến sông Đại Than thì vua Đại Hành cùng với tướng quân Phạm Cự Lượng dàn quân ở Đồ Lỗ để chống cự, đối lũy cùng giữ.

Vua Đại Hành mộng thấy hai vị thần đến lạy ở trên sông và thưa rằng:

– Anh em thần tên là Trương Hống và Trương Hát nguyên trước thờ vua Triệu Việt Vương, thường theo vua đánh dẹp nghịch tặc lấy được thiên hạ. Sau vua Lý Nam Đế cướp ngôi, nghe tiếng anh em thần mới bảo người đến vời, bọn thần vì nghĩa không thể đến nên cùng nhau uống thuốc độc tự tử. Thượng đế thương người có công, khen là trung nghĩa nhất tiết, cho làm chức Quỷ Bộ Tướng quân thống lĩnh quỷ binh. Bây giờ thấy binh Tống vào cõi mà làm khổ cho sinh linh nước kia nên anh em thần đến đây ra mắt với Hoàng đế, nguyện giúp ngài đánh giặc để cứu sinh linh.

Vua Đại Hành giật mình tỉnh dậy, bảo thị thần rằng:

– Ấy là thần nhân giúp ta.

Lập tức đến trước ngự thuyền đốt hương vái rằng:

– Thần lực nếu có thể giúp cho công nghiệp này hoàn thành thì được ban phong huyết thực, vạn đại vô cương.

Bèn giết trâu bò cúng tế và cho áo mão, giấy tiền, voi ngựa đốt đi. Đêm ấy, lại mộng thấy hai vị thần đều mặc áo mão đã ban cho hôm trước đến lạy tạ ơn. Đêm sau lại thấy một vị thần thống lĩnh quỷ bộ áo trắng từ phía nam sông Bình giang đi lại, một vị thần thống lĩnh quỷ bộ áo đỏ do sông Như Nguyệt mà xuống, cả hai đều đến đánh doanh giặc.

Ngày hai mươi mốt tháng Mười, đêm đương canh ba, thiên khí hôn ám, gió to mưa lớn cả dậy; binh Tống kinh sợ thấy thần lờ mờ đứng ở trên không, cao giọng ngâm rằng:

Nam quốc sơn hà Nam Đế cư.

Phân minh định phận tại Thiên thư.

Có sao nghịch lỗ sang xâm phạm.

Bọn chúng chờ xem phải bại hư.

Binh Tống nghe vậy, xô đạp nhau chạy tán loạn, bị bắt sống không xiết kể. Quân nhà Tống đại bại trở về. Vua Đại Hành lui quân, dâng lễ mừng thắng trận, bao phong hai vị thần: Ông anh là Uy Địch Đại Vương, lập đền thờ ở ngã ba sông Long Nhãn, bảo dân Long Nhãn Bình giang phụng tự; Ông em là Khước Địch Đại Vương, lập đền thờ ở sông Như Nguyệt, bảo dân duyên giang [1] phụng tự, đến nay vẫn còn vậy.

---

[1] Ở men sông.

➖➖➖