Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 172 đăng ngày 2023-01-28
***
Tôn Tử binh pháp: I. Thiên kế
Tác giả: Tôn Vũ
• Thân-thế và trứ-tác của Tôn-Tử (Lược dịch tập “Tôn tử tự lục” của Tất-Dĩ-Tuân, dịch giả: Trúc Khê Ngô Văn Triện)
• Thiên kế (dịch giả: Trúc Khê Ngô Văn Triện)
• Chapter I. LAYING PLANS (in “Sun Tzŭ on The Art of War”, translator: Lionel Giles) – nguồn: https://www.gutenberg.org/

 

Lời tựa:

Sang tiết xuân, “Tiểu thuyết chiều thứ Bảy”, kể từ tuần này và 12 tuần tiếp theo, trân trọng giới thiệu tác phẩm lừng danh “Tôn Tử binh pháp”. “Tôn Tử binh pháp” là sách chiến lược chiến thuật chữ Hán do Tôn Vũ soạn thảo vào đời Xuân Thu, không chỉ đặt nền móng cho binh học truyền thống, mà còn sáng tạo nên một hệ thống lý luận quân sự hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Ấn bản này lấy từ cuốn Tôn Ngô binh pháp có kèm lời chú của dịch giả Trúc Khê Ngô Văn Triện.

Bên cạnh bản tiếng Việt, “Tiểu thuyết chiều thứ Bảy” xin giới thiệu kèm theo bản tiếng Anh với tựa đề “Sun Tzŭ on The Art of War” do nhà Trung Quốc học (sinologist) người Anh tên là Lionel Giles dịch từ tiếng Hoa, Khoa Sách in và Bản thảo Phương Đông tại Bảo tàng Anh (Department of Oriental Printed Books and Manuscripts in the British Museum) xuất bản vào năm 1910. Bản tiếng Anh được lấy từ dự án sách điện tử miễn phí Gutenberg (https://www.gutenberg.org/). Hy vọng khi so sánh bản tiếng Việt với bản tiếng Anh, độc giả sẽ hiểu rõ hơn nội hàm của Tôn Tử binh pháp.

-:-


Thân-thế và trứ-tác của Tôn-Tử

(Sinh về thế kỷ thứ 6 và thứ 5 trước Gia-Tô)

 

Sách Sử ký nói: Tôn-Tử tên là Vũ, người nước Tề, vì có soạn ra sách Binh-pháp, được vào yết kiến vua Ngô là Hạp-Lư. sau vua dùng làm tướng.

Sách Ngô Việt Xuân Thu nói: Vua Ngô lên đài, hướng vào ngọn gió nam mà hò la, một lúc rồi than thở, các quan chẳng ai hiểu ý vua thế nào. Tử-Tư biết lòng vua băn khoăn, bèn tiến Ngô-Tử lên vua. Tôn-Tử là người nước Ngô, giỏi về binh pháp ở ẩn lánh trong bóng tối, người đời chẳng ai biết rõ tài.

Xét Ngô Tử vốn người nước Tề, sau chạy sang Ngô, cho nên sách Ngô Việt Xuân-Thu bảo là người Ngô. Sách Tính thị biện chứng của Đặng Danh-Thế nói rằng: cháu năm đời của Kính-Trọng nước Tề tên là Thư làm quan đại-phu nước Tề, đi đánh nước Cử có công, vua Cảnh-công ban cho họ Tôn, cho ấp ăn lộc ở Nhạc-án. Thư sinh ra Phùng, làm quan khanh nước Tề. Phùng sinh ra Vũ, tự là Trường-khanh. Vì bọn mấy họ Điền, Bão mưu làm loạn, Vũ phải chạy sang Ngô rồi làm tướng quân.

Sách Sử ký chép: Hạp Lư nói: có thể tạm thử về cách nghiêm quân không? Thưa rằng: có thể. Hạp-Lư nói: có thể thử bằng những đàn bà không? Thưa rằng: có thể. Bèn cho đem thử xem. Lấy những mỹ nhân trong cung ra cả thẩy được 180 người, Tôn-tử chia ra làm hai đội, lấy hai người thiếp yêu nhất của vua đặt làm đội trưởng, đều bắt phải cầm kích, ra lệnh rằng: Các nàng biết trái tim, tay tả, tay hữu cùng lưng của nàng không? Bọn đàn bà nói: Biết rồi. Tôn-tử nói: Đàng trước thì trông vào tim, bên tả thì trông vào tay tả, bên hữu thì trông vào tay hữu, đàng sau thì trông vào lưng. Bọn đàn bà vâng lời. Ước thúc đã xong, bèn đặt cái phù cái việt, ba lần ra lệnh và năm lần nhắc lại, rồi giục họ đi về phía hữu. Bọn đàn bà cả cười. Tôn-tử nói: Ước thúc không rõ, hiệu lệnh không tỏ là tội của người làm tướng. Bèn lại ba lần ra lệnh, năm lần nhắc lại, rồi giục họ đi về phía tả. Bọn đàn bà lại cả cười. Tôn-tử nói: Ước thúc không rõ, hiệu lệnh không tỏ là tội của người làm tướng, nhưng đã tỏ rõ mà không theo đúng phép là tội của binh lính. Bèn muốn chém hai người tả hữu đội trưởng. Vua Ngô ở trên đài trông xuống, thấy Vũ sắp chém những người thiếp yêu của mình, cả sợ, vội sai người xuống truyền lệnh rằng: Quả nhân đã biết tướng quân giỏi sự dùng binh rồi. Quả nhân không có hai người thiếp ấy thì ăn không biết gì là ngon, xin đừng nỡ chém. Tôn-tử nói: Thần đã chịu mệnh làm tướng, tướng ở trong quân, có khi mệnh vua cũng không cần nghe theo. Bèn đem chém hai người đội trưởng rồi nhắc người vai dưới lên thay, lại ra mệnh lệnh. Bọn đàn bà bấy giờ, tả hữu trước sau quỳ đứng, đều đúng vào khuôn phép mực thước, không ai dám ho he tiếng gì. Tôn-tử bấy giờ sai sứ báo với vua rằng: Quân đã chỉnh tề, nhà vua có thể thử xuống coi, rồi tùy nhà vua muốn dùng vào việc gì thì dùng, dẫu bắt họ giẫm vào nước vào lửa cũng có thể được. Vua Ngô nói: Thôi tướng quân hãy lui về nghỉ, quả nhân không muốn xuống xem. Tôn-tử nói: Thế là nhà vua chỉ thích nghe nói suông chứ không biết dùng sự thực. Hạp-Lư mới biết Tôn-tử là người giỏi sự dùng binh, sau cùng dùng làm tướng. Nước Ngô sở dĩ phía tây phá được nước Sở mạnh vào tận Dĩnh-đô, phía bắc làm cho nước Tề nước Tấn phải sợ, nức tiếng gọi với chư hầu, là có sức của Tôn-tử dự vào đấy.

Sử ký lại rằng: Tôn Vũ lấy tập binh pháp để vào kiến vua Ngô Hạp-Lư, Hạp-Lư nói: mười ba thiên của nhà ngươi, ta đã xem hết cả rồi.

Xét sách Sử-ký chỉ nói lấy binh pháp vào kiến Hạp-Lư, không nói rõ 13 thiên ấy làm vào hồi nào. Xem ở bài tựa của vua Ngụy-Võ (Tào-Tháo) rằng: Vì tướng Ngô Tôn Vũ làm ra 13 thiên binh-pháp đem thử vào đám đàn bà, rồi sau được dùng làm tướng; vậy thì 13 thiên ấy làm ra, cốt để cần Hạp-Lư biết đến mà dùng. Nay xét ở thiên đầu nói rằng: sẽ nghe kế của ta, dùng binh tất phải thắng, ta ở lại; sẽ không nghe kế của ta, dùng binh tất phải bại, ta bỏ đi, ấy là những lời cần dùng đó. — Lại xét ở Thiên Hư thực nói rằng: Quân lính của người Việt tuy nhiều, nhưng có ích gì trong sự thua sự được, ấy là lời vì Hạp Lư mà nói ra đó. Thiên Cửu địa nói: Người Ngô cùng người Việt ghét nhau, khi đi cùng một chiếc thuyền mà gặp gió bão thì cứu giúp nhau như tay tả tay hữu vậy, cũng là lời nói đối với Hạp Lư đó. Cho nên Ngụy Võ bảo là vì vua Ngô Hạp Lư mà làm ra, lời nói ấy đúng đấy.

Sách Ngô-Việt xuân-thu nói: Vua Ngô với Tôn-Tử hỏi về binh pháp, mỗi khi trình bầy được một thiên, vua tắc tỏm ngợi khen luôn miệng.

Vua Ngô hỏi Tôn-Vũ rằng: «Đất tan [1] quân lính để ý ở nhà, không thể dùng đánh nhau được, thì nên bền giữ không ra. Nếu kẻ địch đánh vào thành nhỏ của ta, cướp đồng ruộng ta, cấm củi rác ta, lấp đường cốt yếu của ta, đợi khi ta trống rỗng, rồi đến đánh gấp thì làm thế nào? Vũ nói: « Kẻ địch vào sâu cõi ta, qua nhiều thành ấp, binh lính lấy quân làm nhà, chuyên chí quyết đấu, binh ta ở nước mến quê ham sống, bầy trận thì không bền, đánh nhau thì không thắng, nên tụ người, họp lính, dành thóc chứa lụa, giữ thành phòng hiểm, sai khinh binh cắt đứt đường lương. Họ khiêu chiến không được, vận tải không đến, đồng không nội trống, ba quân đói khát, bấy giờ ta mới lừa nhử, có thể nên công. Nếu muốn đánh nhau ở đồng thì phải nhân thế, dựa hiểm đặt phục, không có chỗ hiểm thì ẩn vào khí-giời như là bóng tối, sương mờ, nhân lúc bất ý đánh úp vào khi họ trễ nải, có thể nên công ».

Ngô-Vương hỏi Tôn-Vũ rằng: « ta đến đất nhẹ chưa vào cõi địch, quân lính nhớ về, khó tiến dễ lui, chưa qua hiểm trở. Ba quân sợ-hãi, đại-tướng muốn tiến, quân sĩ muốn lui, trên dưới khác lòng; bên địch giữ gìn thành lũy, sửa sang xe ngựa, hoặc cản trước ta, hoặc đánh sau ta, thì như thế nào? » Vũ nói: « Quân đến đất nhẹ, binh sĩ chưa chuyên, lấy tiến vào làm cốt, không lấy chiến làm cần, đừng gần thành lớn, đừng do đường thẳng, đặt ngờ, giả hoặc vờ như sắp đi, rồi tuyển quân kỵ mạnh mẽ, ngậm tăm vào trước, cướp lấy trâu ngựa lục súc, ba quân thấy được tiến sẽ không sợ, chia toán quân giỏi, ngầm phục một nơi, kẻ địch hễ đến đánh ngay, đừng ngờ, nếu mà không đến bỏ đó mà đi ».

Ngô-vương hỏi Tôn-Vũ rằng: « Đất tranh, kẻ địch đến trước chiếm chỗ hiểm yếu, giữ chỗ tiện lợi, tuyển binh luyện lính, hoặc ra, hoặc giữ, để phòng sự xuất kỳ của ta, thì làm thế nào? » Vũ nói: « Cái phép đất tranh, giữ trước là lợi. Quân địch đã chiếm được chỗ thì mình rất chớ nên đánh, giả cách kéo quân chạy đi, dựng cờ khua trống, đến cái chỗ mà họ báu trọng, kéo giong tung bụi, làm mờ hoặc tai mắt của họ, chia một toán quân giỏi của ta, ngầm phục một chỗ, địch tất ra cứu, người muốn ta cho, người bỏ ta lấy, ấy là cái đạo tranh trước. Nếu ta đến giữ được trước mà địch dùng cách ấy thì tuyển số quân mạnh, giữ vững lấy chỗ, sai toán khinh binh đi đuổi theo, chia đặt phục ở chỗ hiểm trở, quân địch quay lại đánh, thì quân phục ở cạnh nổi lên, ấy là cái đạo toàn thắng ».

Ngô-vương hỏi Tôn-Vũ rằng: « Đất giao, ta sẽ ngăn tuyệt quân địch, khiến không lại được, truyền cho nơi biên-thành của ta sửa việc thủ bị, ngăn cản đường thông, giữ vững yếu ải. Nếu không đề trước, quân địch đã phong, họ có thể đến được, ta không thể đi được, số người nhiều ít lại đều nhau, thì làm thế nào? » Vũ nói: « Đã mình không thể đi được họ có thể đến được, ta chia quân ẩn giấu tỏ ra không có năng lực gì. Quân địch kéo đến; ta đặt phục, giấu lều, đánh lúc bất ý, có thể nên công được ».

Ngô-vuơng hỏi Tôn-Vũ rằng: Đất thông tất phải đến trước nếu ta đường xa đi sau, dù giong xe ruổi ngựa cũng không đến trước được, thì làm thế nào? » Vũ nói: « Đất thuộc ba bề, đường thông bốn lối, ta cùng kẻ địch tương đương, mà bên cạnh đó có nước khác; gọi là đến trước, tất phải lễ biện cho hậu, sứ đi cho nhanh, ước hòa với nước bên cạnh, giao thân kết ân, binh tuy đến sau, nhưng người ở đấy đã thuộc về mình. Kén binh luyện lính, đóng ở chỗ lợi, việc quân săn sóc, kho lương chứa đầy, khiến xe, ngựa của ta, ra vào xem ngó. Ta có sức giúp của người, mà kẻ kia thì mất phe đảng, cùng nhau ỷ-gióc, khua trống cùng đánh, quân địch kinh khủng, không biết đàng nào mà chống lại ».

Ngô-vương hỏi Tôn-Vũ rằng: « Ta dẫn binh vào sâu đất nặng, qua vượt đã nhiều, đường lương bị đứt, giả thử muốn về, thế không thể qua, muốn ăn của bên địch, cầm binh vững chắc, thì như thế nào? » Vũ nói: « Phàm ở đất nặng, quân lính liều lĩnh, chuyển vận không thông thì cướp lấy lương ăn, dưới được thóc lụa đều cống lên trên, ai cướp được nhiều thì có thưởng, quân không có bụng nghĩ đến sự về. Nếu mà định về thì phải phòng ngừa nghiêm cẩn, sâu hào cao lũy, tỏ với địch là định ở lâu. Địch ngờ đường thông, ngầm trừ triệt những lối yếu hại, bèn sai khinh binh ngậm tăm mà đi, làm tung cát bụi và lấy trâu ngựa để nhử mồi, quân địch nếu ra, khua trống mà theo, ngầm phục quân ta, cùng nhau đúng kỳ, trong ngoài ứng hợp, đủ biết là có hể đánh bại được họ ».

Ngô-vương hỏi Tôn-Vũ rằng: « Ta vào đất lội, đường lối những núi sông hiểm trở khó đi, đi lâu quân mỏi, địch ở phía trước ta, lại phục đàng sau ta, trại ở phía tả ta, lại giữ phía hữu ta, xe tốt ngựa khỏe đón chẹn những con đường hẻm, thì như thế nào? » Vũ nói: « Trước cho xe nhẹ tiến đi cách quân 10 dậm cùng địch chờ đón tại chỗ hiểm trở, hoặc chia đi sang tả, hoặc chia đi sang hữu, đại tướng ngắm trông bốn bề, chọn chỗ trống không mà đánh lấy, đều họp lại cả ở trung đạo đến mỏi thì thôi ».

Ngô-vương hỏi Tôn-Vũ rằng: « Ta vào đất vây, trước có giặc mạnh, sau có hiểm nan, quân địch tuyệt đường lương của ta, lợi thế chạy của ta, hò reo không tiến để xem cái năng lực của ta thì làm thế nào? » Vũ nói: « Ở trong đất vây, tất lấp chỗ khuyết, tỏ rằng sẽ không đi đâu, như thế binh lính sẽ lấy quân làm nhà, muôn người cùng lòng, ba quân cùng sức, thổi cơm đủ ăn luôn mấy ngày để không thấy khói lửa gì cả, cố làm ra cái hình rối loạn hèn yếu. Bên địch thấy thế, phòng bị tất là hững hờ. Mình sẽ khuyến khích quân lính, khiến họ tức giận, phục những lính giỏi ở các chỗ hiểm trở hai bên tả hữu, rồi đánh trống mà kéo ra. Quân địch nếu cản trở, mình sẽ đánh thật mau và mạnh, đàng trước đánh nhau mà đàng sau mở lối, làm thế ỷ-giốc [*] với hai bên tả hữu ». Lại hỏi rằng: « Quân địch ở trong đất vây của ta náu núp mà có mưu sâu, nhử ta vào mối lợi, buộc ta bằng ngọn cờ, rối ren như loạn, không biết là họ đi đâu, thì làm thế nào? » Vũ nói: « Nghìn người cầm cờ chia dàn ra ở những con đường trọng yếu, sau toán khinh binh ra khiêu chiến, bầy trận mà đừng đánh, tiếp súc mà đừng bỏ, đó là cách phá mưu của họ ».

Trở lên đều là di văn của Tôn-tử, thấy ở thông-điển.

Lại rằng: « Quân vào cõi địch, kẻ địch giữ vững thành lũy không đánh, lính tráng nhớ về, muốn lui nhưng khó, gọi là đất nhẹ, nên kén quân kỵ mạnh mẽ, phục ở đường hiểm yếu, ta lui, địch đuổi đến thì ta đánh ».

Ngô-vương hỏi Tôn-Vũ rằng: « Quân ta ra khỏi cõi đóng ở trên đất kẻ địch, địch kéo ùa đến, vây ta mấy vòng, muốn xông mà ra, bốn bề lấp chẹn, muốn khích lệ quân sĩ, khiến họ liều mình phá vây thì làm thế nào? » Vũ nói: «Sâu hào cao lũy, tỏ sự giữ gìn phòng bị, yên tĩnh đừng động để giấu cái năng lực của ta. Truyền cho ba quân, tỏ bất đắc dĩ, giết trâu đốt xe, khao thưởng quân sĩ, thiêu hết lương thực, san lấp giếng bếp, cắt tóc vứt mũ, rứt bỏ lòng sống, tướng không mưu khác, quân có chí chết. Đó rồi chuốt giáp, mài dao, gồm khí hợp sức, hoặc đánh hai cạnh, thúc trống hò reo, quân địch cũng sợ, không thể đương nổi; chia toán binh mạnh, đánh gấp đàng sau, ấy là lỡ đường mà tìm sống. Cho nên nói rằng: Khốn mà không mưu thì cùng, cùng mà không đánh thì chết ». Ngô vương nói: « Nếu ta vây địch thì như thế nào? » Vũ nói: « Núi cao hang hiểm, khó bề vượt qua, gọi là giặc cùng. Phương pháp đánh phá, núp quân giấu lều, mở cho lối đi, tỏ cho đường chạy; ham sống tìm ra, tất họ không có chí chiến đấu, bấy giờ sẽ đánh, tuy đông cũng có thể phá được. Binh pháp lại rằng: Nếu kẻ địch ở đất chết, quân lính mạnh mẽ, cái cách đánh họ, thuận mà đừng chống, ngầm giữ chỗ lợi, cắt đứt đường lương, sợ có kỳ binh, ẩn mà đừng hiện, khiến tay cung nỏ đều giữ yên chỗ». (Xét họ Hà dẫn đoạn văn này, cũng nói là « Binh pháp nói rằng » thì biết lời vấn đáp cũng ở trong số 82 thiên).

Trở lên thấy ở lời chua của họ Hà.

Xét đây đều là giải thích nghĩa thiên Cửu-địa, lời ý rất tường cho nên thiên, quyển, không thể không nhiều.

Ngô-vương hỏi Tôn-Vũ rằng: « quân địch mạnh hung hăng, kiêu mà không sợ, binh nhiều mà khỏe, đồ tính thế nào? » Vũ nói: « chịu khuất mà đợi thuận theo ý họ, đừng khiến họ biết rõ, để càng thêm trễ nải, nhân theo quân địch mà xê dịch, ngầm phục để đợi, đi trước họ không trông, đi sau họ không đoái, mình đánh sấn vào khoảng giữa, tuy họ nhiều mình cũng có thể thắng được, cái cách đánh kẻ kiêu, không nên tranh phong ».

Thấy ở Thông điển.

Vua Ngô hỏi Tôn-Vũ rằng: « quân địch giữ chỗ núi hiểm, chiếm phần lợi thế, lương thực lại đủ, khiêu khích thì không ra, có dịp thì lấn cướp, vậy làm thế nào? » Vũ nói: « chia binh giữ chỗ yếu bại, cẩn phòng đừng trễ nhác, ngầm dò tình y, khẽ đợi lúc họ chểnh mảng, lấy lợi mà nhử, cấm đường kiếm củi, lâu không được gì, tự nhiên biến đổi, đợi lúc họ dời khỏi chỗ vững chắc, sẽ cướp lấy chỗ yêu thích của họ, như vậy kẻ địch dù giữ chỗ hiểm ta cũng có thể phá được ».

Thấy ở Thông-điển và Thái-bình ngự-lãm.

Tôn-Tử nói: « tướng ấy là trí, là nhân, là kính, là tín, là dũng, là nghiêm. Ấy nên trí là để bẻ gẫy kẻ địch, nhân để làm cho người ham theo, kính để chiêu người hiền, tín để đúng lệ thưởng, dũng để thêm khí, nghiêm để nhất lệnh. Cho nên bẻ kẻ địch thì có thể hợp biến, người ham theo thì nghĩ sự cố đánh, kẻ hiền trí họp thì âm mưu lợi, sự thưởng phạt đúng thì quân hết sức, khí dũng thêm thì uy lệnh của quân tăng bội, uy lệnh duy nhất thì tướng muốn sao được vậy.

Tôn-Tử nói: phàm đất nhiều chỗ lõm chỗ vũng gọi là giếng giời.

Tôn-Tử nói: cho nên nói rằng chỗ cỏ rậm um tùm là để ẩn trốn, chỗ hang sâu hiểm-hóc là để đình trú xe ngựa, chỗ núi rừng khuất khúc là để lấy ít đánh nhiều, chỗ đầm hồ mờ-mịt, là để ẩn náu hình tích.

Thấy ở Thông-điển.

Tôn-Tử nói: mạnh yếu dài ngắn đừng lẫn.

Lại nói: xa thì dùng nỏ, gần thì dùng gươm, gươm nỏ cùng bổ trợ cho nhau.

Lại nói: Lấy mười bộ binh để đánh một kỵ binh. Cũng thấy ở Thông-điển.

Đỗ Mục nói: « sách của Tôn-Vũ mấy chục vạn lời, Ngụy-Vũ tước bớt phần rườm rà lọc chép phần tinh túy thành bộ sách này ». Nhưng xét 13 thiên Tôn-tử là do Tôn Vũ tự tay chép nên trong sách Sử-ký có hai lần khen đến, vậy mà Đỗ Mục bảo do Ngụy Vũ bút tước nên là lầm.

Tiều công Võ nói: Lý Thuyên đời Đường cho là Ngụy Vũ chú giải có nhiều chỗ lầm, bèn thu rút pho sử lịch-đại dựa theo phép độn giáp mà chua thành 3 quyển.

Lại rằng: Đỗ Mục đời Đường thấy trong Vũ-thư, đại khái dùng bằng nhân nghĩa, khiến bằng cơ quyền, Tào Công chú giải sơ lược, mười không được một, bởi còn tiếc những điều sở đắc, định dành lại để tự làm ra bộ sách mới, nhân đem chua lại cho đầy đủ. Người đời bảo Mục hăng-hái thích bàn việc binh, muốn thử tài mà không được, sức học có thể nói chuyện được những việc ở thời Xuân-thu, Chiến-quốc rất rộng mà tường, người sành việc binh phải có ý phục.

Lại rằng: Trần Hạo đời đường thấy Tào Công chua thì lờ mờ, Đỗ-Mục chua thì viển vông, bèn làm lời chua lại. Lại rằng: Kỷ Nhiếp đời Đường đem những lời giải của ba nhà đời Đường là Mạnh-thị, Giả-Lâm, Đỗ Hựu mà họp lại.

Âu dương Tu nói: đời truyền rằng 13 thiên Tôn-tử, phần nhiều dùng lời chua của Tào-Công, Đỗ-Mục, Trần-Hạo gọi là ba nhà.

Lại rằng: ba nhà chua Tôn-tử, Hạo là người chua sau cùng thường chê chỗ kém của Mục.

Tiều công Võ nói: Vương Tích thấy bản cổ sửa đổi lầm thiếu nên lại làm lời chua. Triều vua Nhân Tông (Tống) thiên hạ nhân thái bình đã lâu, người nước không tập luyện việc binh. Nguyên-Hiệu làm phản, tướng ngoài biên thường bị thua luôn, triều đình nhân tìm hỏi những người biết về việc binh, thế là sĩ đại phu đua nhau nói việc binh nhiều lắm. Cho nên bản triều chú giải sách của Tôn-Vũ, đại khái đều là người của thời bấy giờ.

Xét sách Tôn-tử tạp chí ngày nay, vốn do Đạo-trạng Hoa-âm[2] lục ra, tức là bộ sách do Cát-thiên-Bảo đời Tống thu góp lời chua của 10 nhà, 10 nhà ấy là: 1•) Ngụy Vũ; 2•) Lý Thuyên; 3•) Đỗ Mục; 4•) Trần Hạo; 5•) Giả Lâm; 6•) Mạnh Thị; 7•) Mai nghiêu-Thần; 8•) Vương Tích; 9•) Hà diện Tích; 10•) Trương Dự.

Trong bản 10 nhà lại có Đỗ Hựu Quân-Khanh chua nữa. Xét Đỗ Hựu là người làm ra sách Thông-điển, dẫn lời của Tôn-Tử mà giải thích chứ không phải là chua. Sách Thông-điển dẫn lời Tôn-Tử rằng: « lợi để câu nhử, thân để chia lìa » chua rằng lấy lợi câu nhử, khiến năm cách gián [3] đều lọt vào, kẻ biện sĩ đi du thuyết làm thân với vua tôi bên kia, rồi làm chia lìa hình thế của họ ra, cũng như nước Tần sai kẻ phản gián sang nói với nước Triệu, khiến bỏ Liêm Pha mà dùng con Triệu Xa đó. Xét hai câu « lợi để câu nhử, thân để chia lìa » nguyên văn của Tôn tử vốn không liền nhau, sách Thông điển trích dẫn lại lầm lời chua, tìm đến ý nghĩa, hầu thành ra một việc, khác hẳn với lời Tôn-tử, nghĩa hai câu không dính gì với nhau cả.

Lại xét lối chua của Đỗ-Hựu thường trước dẫn lời chua của họ Tào, dưới phụ ý mình cho nên lời trước với lời sau có chỗ không giống nhau.

Lại về sự chua của Đỗ-Hựu, ngoài sự dẫn dụng lời chua của họ Tào, thỉnh thoảng cũng dùng lời của họ Mạnh nữa.

Lại xét mười nhà chua [4], sau Ngụy-Võ thì kế đến họ Mạnh, nhận thấy ở Tùy-thư Kinh-tịch-chí; nguyên bản đặt họ Mạnh ở sau Trần-Hạo, Giả-Lâm là lầm, nay cải chính. Tiều công-Võ cho họ Mạnh là người Đường, cũng lầm. Lại xét Đỗ Hựu tuy không phải là làm lời chua sách Tôn-tử, nhưng đã dẫn dụng lời văn không nên đặt ở sau Giả Lâm và ở trước Mạnh-thị, nay đổi đặt ở dưới Mạnh-thị. Lại xét Đỗ Mục là cháu của Hựu, nguyên bản đặt Mục ở trước là sự lầm lớn.

Lại sách Tôn-tử, nguyên bản của Đạo-Tạng đề là tập-chú, bản của họ Chu ở Đại-hưng đề là chú-giải, nay đổi là « Tôn-tử thập gia chú » là theo sách Tổng-chí.

Lược dịch tập Tôn tử tự lục

của Tất-Dĩ-Tuân

Chú thích

[1] Đất tan đất nhẹ v.v. là những hình thế đất trong việc hành-binh, xin xem thiên Cửu-Địa dưới này sẽ rõ.

[2] Kho sách của đạo gia ở đất Hóa-âm.

[3] Xem ở thiên Dụng-gián dưới này.

[4] Xin độc-giả chú ý: những lời chua của mười nhà dưới đây, dịch-giả chỉ chọn lựa mà dịch, cốt cho được sáng nghĩa của chính-văn thì thôi, chứ không dịch tất cả, sợ phiền nhũng mà không có ích mấy.

[*] Thế đóng quân chia làm hai cứ điểm, hai bên cùng cứu ứng lẫn nhau.

➖➖➖


I. Thiên kế

Tào Công rằng: Kế là kén tướng, lượng giặc, áng đất, liệu quân, xa gần hiểm dễ, phải tính ở chỗ miếu-đường vậy.

Đỗ Mục rằng: kế là tính toán. Tính toán cái gì? Tức là năm việc: Đạo, Trời, Đất, Tướng, Pháp ở dưới này vậy. Trên chỗ miếu đường, trước hết đem 5 việc của người và mình mà tính toán hơn kém rồi sau mới định được thắng phụ, thắng phụ đã định rồi sau mới dấy quân, động binh. Cái đạo dùng binh không gì trước được 5 việc cho nên đặt ở thiên đầu.

Vương Tích rằng: Kế nghĩa là tính về chủ tướng, giời đất, pháp lệnh, binh chúng, sĩ tốt, thưởng phạt.

Trương Dự rằng: Quân tử nói kế trước định ở trong rồi sau quân mới ra khỏi cõi, cho nên đạo dùng binh lấy kế làm đầu. Có người nói việc quân cốt ở ra chỗ trận địch rồi tùy nghi mà định liệu, Tào Công lại bảo là tính kế ở chỗ miếu đường là cớ làm sao? Nói rằng tướng hiền hay ngay, địch mạnh hay yếu, đất xa hay gần, binh nhiều hay ít thế nào lại chẳng phải tính trước? Đến lúc hai quân gặp nhau, biến động cùng ứng thì ở như viên tướng phải biết định liệu chứ không có thể tính trước được.

 

Tôn-Tử nói: Binh là việc lớn của nước

Đỗ Mục rằng: Truyện nói: Việc lớn của nước ở tế tự và binh nhung.

Trương Dự nói: Nước yên hay nguy là ở binh cho nên giảng võ luyện binh, thực là việc trước hết.

 

Cái đất chết sống, cái đạo mất còn, không nên không xét tỏ.

Lý Thuyên rằng: Binh là hung-khí, chết sống mất còn là hệ ở đó, vì thế phải coi trọng, kẻo sợ người ta làm nó một cách khinh thường.

Đỗ Mục rằng: Nước còn hay mất, người chết hay sống, đều bởi ở việc mà ra, cho nên phải tỏ xét.

Giả Lâm nói: Đất cũng như chỗ, tức chỏ vào cái trận địa bầy quân dàn lính, được chỗ lợi thì sống, mất chỗ tiện thì chết, cho nên nói là cái đất chết sống. Đạo là cái đạo liệu cơ thủ thắng, được nó thì còn, mất nó thì mất, cho nên không thể không xét rõ. Kinh thư nói rằng: Có cái đạo còn, giữ cho vững chắc, có cái đạo mất, đẩy cho đổ nhào.

Mai thánh Du rằng: Đất có cái thế sống chết, chiến có cái đạo mất còn. Trương Dụ rằng: Sự chết sống của dân điềm ra ở đây thì sự mất còn của nước trông thấy ở kia. Nhưng chết sống gọi là đất, mất còn gọi là đạo, bởi chết sống do ở cái đất được hay thua, mà mất còn hệ ở cái đạo được hay hỏng, như thế há có thể không thận trọng mà xem xét ư?

 

Cho nên phải so tính năm việc để tìm lấy cái tình.

Tào Công rằng: Năm việc là năm việc ở dưới đây. Cái tình hình của người và của ta.

Lý Thuyên rằng: tức bảo năm việc dưới đây. So tính xa gần để tìm biết tình hình mà ứng phó với quân địch.

Giả Lâm rằng: So lường kế mưu của người và ta tìm xét tình thực của hai quân, như vậy thì hơn kém khá biết, được thua dễ thấy.

 

Một rằng đạo

Đỗ Hựu rằng: Đạo là trỏ vào cái đức hóa.

Trương Dự rằng: Đạo là cái ân tín để sai khiến dân.

 

Hai rằng giời

Đỗ Hựu rằng: Giời là trỏ vào sự che chở.

Trương Dự rằng: Giời là nói trên thuận thời giời.

 

Ba rằng đất

Đỗ Hựu rằng: Đất là trỏ vào sự từ ái.

Trương Dự rằng: Đất là nói dưới biết lợi đất.

 

Bốn rằng tướng

Đỗ Hựu rằng: Tướng là trỏ vào sự kinh lược.

Trương Dự rằng: Tướng là nói sự ủy nhiệm người hiền năng.

 

Năm rằng pháp

Đỗ Hựu rằng: Pháp là trỏ vào sự đặt để.

 

Đỗ Mục rằng: Ấy gọi là năm việc đó.

Vương Tích rằng: Ấy là năm việc phải so tính đó. Này cái đạo dùng binh, phải cốt nhân hòa làm gốc, thiên thời cùng địa lợi thì là phần giúp thêm. Ba điều ấy đã đủ rồi sau mới bàn việc cất binh. Binh cất tất phải tướng giỏi, tướng giỏi rồi pháp lệnh mới đâu ra đấy. Ấy Tôn Tử xếp đặt cái thứ tự trên này là ý thế đó.

Trương Dự rằng: Tiết chế nghiêm minh. Này tướng cùng pháp ở cuối năm điều, cớ vì phàm cất quân đi đánh kẻ có tội, trên chỗ miếu đường, trước phải xét ân tín hậu hay bạc, sau phải tính thiên thời thuận hay nghịch, thứ rồi xem địa hình hiểm hay dễ, ba điều ấy đã đủ rồi, sau mới sai tướng đi đánh, binh đã ra khỏi cõi thì pháp lệnh phải theo cả ở viên tướng, ấy cái thứ tự như vậy đó.

 

Đạo là khiến dân đồng ý với người trên.

Trương Dự rằng: lấy ân tín đạo nghĩa mà phủ trị quần chúng thì ba quân một lòng, vui vẻ theo sự sai dùng của người trên. Kinh Dịch nói: làm vui lòng người để xông vào sự khó, dân quên cả chết.

 

Cho nên có thể cùng họ chết, có thể cùng họ sống, mà dân không sợ nguy.

Tào Công rằng: tức bảo là lấy giáo lệnh mà dẫn đạo mọi người. Nguy nghĩa là nguy nghi.

Đỗ-Hựu rằng: tức bảo là lấy chính lệnh mà đưa dắt, lấy lễ giáo mà so tầy. Nguy tức là nghi, trên có điều nhân ban ra, dưới sẽ liều mạng mà không tiếc, cho nên có thể cùng ở với nhau trong lúc mất còn mà không sợ sự khuynh nguy, cũng như thành Tấn-dương bị vây, bếp chìm mà còn có cóc [1], người ta không ai có lòng phản bạn ngờ vực gì cả.

Đỗ-Mục rằng: đạo là trỏ vào nhân nghĩa. Lý-Tư hỏi Tuân-Khanh về việc binh, Khanh thưa rằng: kìa nhân nghĩa là để sửa-chuốt chính-trị, chính-trị sửa-chuốt, thì dân thân với người trên, vui với vua chúa, coi khinh sự chết. Tuân-Khanh lại giả nhời vua Hiếu-thành-vương nước Triệu trong mọt cuộc nói chuyện về việc binh rằng: trăm tướng một lòng, ba quân cùng sức. Bề tôi đối với vua chúa, người dưới đối với người trên như con thờ cha, anh thờ em, như cánh tay chèo chống cho đầu mắt che chở cho ngực bụng, như thế mới có thể khiến họ cùng trên đồng lòng, chết sống cùng nhịp mà không sợ gì sự nguy nghi.

Giả-Lâm rằng: tướng biết lấy đạo làm lòng cùng với người chung sự sướng khổ, thì lính tráng phục, tự nhiên đồng lòng với người trên. Khiến cho quân tính mến ta như cha mẹ, coi địch như cừu thù, phi có đạo không thể nào được. Hoàng-thạch-Công nói: phải đạo thì thịnh, lỗi đạo thì mất.

 

Giời là nói về thời tiết âm dương nóng lạnh.

Tào Công rằng: thuận theo giời làm việc đánh lội, phải nhân theo khí tiết, âm dương bốn mùa cho nên sách Tư-mã-pháp nói: mùa đông mùa hạ không dấy quân, là để tỏ sự thương dân vậy.

Đỗ Hựu rằng: Tức bảo là thuận giời làm việc đánh tội, nhân theo khí tiết cứng mềm của âm-dương bốn mùa. Cho nên sách Tư-mã-pháp nói: Mùa đông, mùa hạ không dấy quân, là để gồm yêu mọi người. Đến như mưa nhỏ gội quân, làm cơ tất có thắng, gió xoáy xô đụng, đường xa mà vô công, mây giống đàn dê, cái điềm tất chạy, khi như hươu sợ, cái thế tất thua, mây hơi ra khỏi lũy, màu đen màu đỏ chàm quân, đều là điềm thất bại, tựa khói mà không phải khói, đó là mây lành, tất thắng, tựa mù mà không phải mù, đó là khóc quân, tất bại. Mới biết sự chiêm nghiệm gió mây, có đã từ lâu.

Lý Thuyên rằng: Ứng giời thuận người, nhân thời chống giặc.

 

Đất là nói về xa gần, hiểm dễ, rộng hẹp, chết sống.

Tào Công rằng: nói lấy cái hình thế của chín chỗ đất khác nhau, nhân thời liệu định để thu lấy phần lợi. Lời bàn có ở trong thiên Cửu-địa.

Mai Nghiêu thần rằng: Đó là nói sự phải biết cái lợi hại của hình thế. Phàm dụng binh trước hết phải biết hình đất, biết xa gần thì có thể tính được cái kế đường cong đường thẳng, biết hiểm dễ thì có thể tính được cái lợi quân bộ quân kỵ, biết rộng hẹp thì có thể liệu được cái cách dùng ít dùng nhiều, biết chết sống thì có thể hiểu được cái thế nên đánh nên tản.

 

Tướng là nói về trí, tín, nhân, dũng, nghiêm.

Tào Công rằng: tướng nên có đủ năm đức ấy.

Đỗ Mục rằng: đạo của Tiên-vương lấy nhân làm đầu, bọn của nhà binh, dùng trí làm trước. Bởi trí thì hiểu cơ quyền, biết biến thông, tín thì không nghi ngờ về sự thưởng phạt, nhân thì yêu người mến vật, biết sự cần lao, dũng thì quyết thắng thừa thế không chịu lần lữa, nghiêm thì lấy uy hình mà làm cho ba quân nghiêm túc. Thân Bao-Tư nước Sở sang sứ nước Việt, vua Câu Tiễn nước Việt sắp sang đánh Ngô, nhân hỏi về chiến trận. Thân Bao-Tư thưa rằng: nay chiến trận lấy trí làm đầu, thứ đến nhân, thứ đến dũng. Không trí thì không mất hết được tình dân, không thể lưỡng tính được sự đông vắng ở trong thiên hạ, không nhân thì không thể cùng ba quân chịu chung cái nạn đói khát, vất vả, không dũng thì không thể đoán định được điều ngờ để nẩy ra kế lớn.

Giả Lâm rằng: chuyên dùng trí thì quay quắt, riêng thi nhân thì cố chấp, chỉ thủ tín thì ngu dại, cậy sức mạnh thì bạo hoạnh, lệnh quá nghiêm thì tàn nhẫn. Năm đức ấy gồm đủ mà đều biết đem dùng một cách thích đáng thì có thể làm tướng súy được.

Vương Tích nói: trí thì thấy trước khi việc chưa xẩy mà không hoặc, biết mưu toan mà thông quyền biến; tín thì hiệu lệnh đúng mực; nhân thì tử tế và yêu thương, thu được lòng người; dũng thì hăm hở vì nghĩa mà không sợ, biết quả đoán; nghiêm thì lấy uy nghiêm mà làm cho lòng người không dám trễ nải; năm điều ấy cùng bổ trợ lẫn cho nhau, không thể thiếu được điều nào cả. Cho nên Tào Công nói: làm tướng nên đủ năm đức ấy.

 

Pháp là nói về khúc chế, quan đạo, chủ dụng.

Tào-Công nói: khúc chế là những thể lệ về bộ khúc, cờ phướn, chiêng trống, quan là trăm quan, đạo là đường lương, chủ dụng là khoản phí dụng của những cánh quân chủ yếu.

Lý Thuyên nói: khúc là bộ khúc, chế là tiết độ, quan là tước thưởng, đạo là đường, chủ là coi giữ, dụng là đồ dùng của quân, đều là những phép thường trong một đạo quân, do viên tướng phải săn sóc đến.

Trương-Dự rằng: khúc là bộ khúc, chế là tiết chế, quan là nói sự chia ra những chức phó tướng, đạo là đường vận tải lương thực, chủ là người coi giữ những đồ dùng của quân, dụng là tính toán những vật phí dụng, sáu điều ấy là cốt yếu của việc dùng binh, cần phải xử trí cho phải phép.

 

Năm việc ấy chẳng ai là chẳng nghe, hễ biết thì thắng, chẳng biết thì chẳng thắng.

Tào-Công rằng: cùng nghe năm việc ấy, nhưng hễ biết cái lẽ biến của nó thì thắng.

Trương-Dự rằng: trở lên năm việc, người người cùng nghe, những hễ hiểu cho đến cùng cái lẽ biến của nó thì thắng, không thế thì bại.

 

Cho nên phải so lường để tính toán mà tìm lấy cái tình.

Tào-Công rằng: tìm lấy cái tình tức là cái tình hình được thua.

Vương-Tích rằng: phải biết cho hết. Nói tuy đã biết cả năm việc, nhưng phải đợi bảy điều tính toán dưới này mới hiểu hết được tình hình.

Trương Dự nói: Trên đã bầy năm việc, từ đây trở xuống mới so sánh sự hơn kém của người với mình, để dò tìm cái tình trạng thua được.

 

Rằng, chủ bên nào hay?

Đỗ Mục rằng: Nói chủ của bên ta và của bên địch ai biết xa kẻ nịnh, gần người hay, dùng người mà không ngờ.

Vương-Tích rằng: cũng như Hàn-Tín nói: Hạng-vương có cái khỏe của kẻ thất phu, có cái nhân của người đàn bà, danh tuy là bá chủ nhưng thực thì mất lòng thiên hạ.

 

Tướng bên nào giỏi?

Tào Công rằng: Trỏ vào đạo đức trí năng.

Đỗ Mục rằng: Tướng bên nào giỏi tức như trên nói trí, tín, nhân, dũng, nghiêm, chẳng hạn, như Hán Cao Tổ liệu chừng tướng Ngụy là Bá Trực không thể đương được với Hàn-Tín.

 

Giời đất bên nào được?

Tào Công, Lý Thuyên đều rằng: Giời đất là nói thiên thời và địa lợi.

Đỗ Hựu rằng: Xem chỗ hai quân chiếm cứ, biết bên nào được thiên thời địa lợi.

 

Pháp lệnh bên nào hành?

Tào Công rằng: Nói đặt ra pháp lệnh, không ai dám phạm, hễ phạm vào thì tất phải giết.

Mai Nghiêu Thần rằng: Lấy pháp để so bằng mọi người, lấy lệnh để duy nhất mọi người.

Trương Dự rằng: Ngụy Giáng giết Dương Can, Nhượng Thư chém Trang Giả, Lã Mông giết người làng, Ngọa Long chém Mã Tốc. Nay xem sự đặt ra không ai dám phạm, phạm vào thì tất giết, bên nào làm được đúng như thế.

 

Binh lính bên nào mạnh?

Đỗ Mục rằng: Trên dưới hòa đồng, hăng hái đánh trận là mạnh, lính nhiều xe lắm là mạnh.

Trương Dự rằng: Xe bền ngựa tốt, lính khỏe gươm sắc, nghe trống mà mừng, nghe chiêng mà giận, xem bên nào được như thế.

 

Tướng tá bên nào luyện?

Trương Dự rằng: Cái phép ly hợp tụ tán, cái lệnh ngồi đứng tiến lui, xem bên nào tập luyện thông thạo.

 

Thưởng phạt bên nào phân minh?

Đỗ Hữu rằng: Thưởng người thiện, phạt người ác, xem bên nào được phân minh. Cho nên Vương Tử nói: Thưởng vô độ thì phí mà không có ân gì, phạt vô độ thì giết cũng chẳng có uy gì.

Đỗ Mục rằng: Thưởng không quá, phạt không lạm.

Trương Dự rằng: Người nên thưởng thì tuy thù oán cũng ghi công, người nên phạt thì tuy cha con cũng bắt lỗi.

 

Ta do đó mà biết sự thua được.

Tào Công rằng: Đem bảy việc ấy ra so tính, sẽ biết được sự thua được.

Trương Dự rằng: Bảy việc đều hơn thì chưa đánh đã thắng trước, bảy việc đều kém thì chưa đánh đã bại trước, cho nên thắng bại có thể biết sẵn được.

 

Tính điều lợi để nói đã được nghe theo, bèn làm ra cái thế để giúp ở ngoài.

Tào-Công rằng: ngoài là nói ở bên ngoài phép thường.

Đỗ Mục rằng: tính toán lợi hại là căn bản của việc quân. Lợi hại đã được nghe dùng, rồi sau mới ở ngoài phép thường lại tìm binh thế để giúp đỡ vào việc.

Giả Lâm rằng: tính lợi, nghe mưu, đã biết được tình hình của giặc, ta bèn đặt ra cái thế kỳ quyệt để rung động bên ngoài, hoặc đánh bên cạnh, hoặc rón theo sau để giúp vào trận chính.

Trương Dự rằng: Tôn tử lại bảo: cái lợi mà tôi tính nếu đã nghe theo thì tôi lại sẽ làm thế quân để giúp việc ở ngoài, bởi phép thường việc binh thì có thể nói rõ với người, nhưng thế lợi việc binh thì phải tùy theo tình hình bên địch.

 

Thế là nhân lợi mà định ra cơ quyền.

Đỗ Mục rằng: từ đây mới nói về cái thế bên ngoài của phép thường. Cái thế không thể thấy trước được; hoặc nhân cái hại của bên địch mà thấy cái lợi của bên ta, hoặc nhân cái lợi của bên địch mà thấy cái hại của bên ta, rồi sau mới có thể định ra cơ quyền để thu lấy phần thắng.

Trương Dự rằng: cái gọi là thế là phải nhân sự lợi của việc mà định ra quyền mưu để thắng bên địch, cho nên không thể nói trước được. Từ đây trở xuống mới lược nói về quyền biến.

 

Binh là cái đạo dối trá.

Tào-Công rằng: việc binh không có cái hình nhất định, lấy sự dối trá làm đường đi.

Vương Tích rằng: dối trá là để cần thắng được quân địch, còn trị quân thì tất phải dữ điều tín.

Trương Dự rằng: dùng binh tuy gốc ở nhân nghĩa, nhưng muốn chiếm lấy phần thắng thì tất phải dối trá, cho nên kéo giong tung bụi là cái quyệt của Loan Chi, muôn nỏ đều bắn là cái mẹo của Tôn Tẫn, nghìn trâu đều chạy, Điền Đan dùng quyền, túi cát lấp dòng, Hoài âm dùng trá, đó đều là lấy đạo dối trá mà thu phần thắng lợi.

 

Cho nên giỏi mà tỏ ra không giỏi.

Trương Dự rằng: thực mạnh mà tỏ ra yếu, thực bạo mà tỏ ra nhát, như những việc Lý Mục đánh bại Hung-nô, Tôn Tẫn chém chết Bàng-Quyên.

 

Dùng mà tỏ ra không dùng.

Lý Thuyên rằng: nói mình thực dùng quân mà lại tỏ ra bên ngoài là yếu kém. Tướng Hán là Trần Hy làm phản, kết liên với quân Hung-nô, Cao tổ sai mười bọn sứ đi thăm, đều nói là nên đánh, sau lại sai Lưu Kính đi, Kính về nói rằng: Hung-nô không nên đánh. Vua hỏi duyên cớ, Kính nói phàm hai nước chống nhau, tất phô phang cái giỏi cái mạnh của mình, nay thần đi thăm, chỉ thấy những người gầy yếu, đó tất là họ giỏi mà tỏ ra không giỏi, thần cho là không nên đánh. Cao tổ tức giận nói: thằng giặc Tề chỉ lấy miệng lưỡi mà được làm quan, nay dám nói càn để làm nhụt chí quân ta. Bèn giam cùm Kính ở Quảng-võ rồi đem 30 vạn quân đến Bạch-đăng. Cao-tổ bị quân Hung-nô vây phải ăn đói trong 7 ngày. Đó là cái nghĩa quân đội tỏ sự yếu kém ra bên ngoài đó.

Đỗ Mục rằng: đó là sự dối trá tàng hình. Này cái hình của mình không nên để quân địch trông thấy. Quân địch thấy hình của mình tất có cái để ứng lại. Truyện nói rằng: chim cắt sắp đánh, tất giấu hình đi, như cái nghĩa Hung-nô phô quân gầy yếu với sứ giả nhà Hán đó.

 

Gần mà tỏ ra xa, xa mà tỏ ra gần.

Lý Thuyên rằng: Đó là khiến cho quân địch lỡ sự phòng bị. Tướng Hán là Hàn Tín khi đánh bắt Ngụy-vương Báo, ban đầu dàn thuyền định sang đò qua bến Lâm Tấn, kế rồi lén đem quân thả những thùng gỗ xuống nước để sang qua Hạ-Dương đánh úp An-ấp, khiến quân Ngụy không phòng bị kịp. Cảnh-Cam đánh Trương-Bộ cũng đầu tiên đánh vào Lâm-truy. Đó đều là tỏ cái thế xa.

 

Đem mối lợi mà câu nhử.

Đỗ-Mục rằng: tướng nước Triệu là Lý-Mục thả những súc mục của dân chúng đầy đồng, hễ thấy quân Hung-nô tiến vào thì giả cách thua chạy, bỏ lại hàng mấy nghìn người, chúa Hung-nô nghe vậy cả mừng, kéo đại binh đến. Mục bầy nhiều trận đánh bất kỳ, tả hữu dồn lại, cả phá và giết của Hung-nô đến hơn 10 vạn quân kỵ.

Mai Nghiêu-Thần rằng: kẻ kia tham lợi thì ta lấy của cải câu nhử.

 

Nhân rối loạn để đánh lấy.

Lý Thuyên rằng: kẻ địch tham lợi tất là phải rối loạn. Chúa Tần là Diêu Hưng đi đánh quân Thốc-Phát, Nhục-Đàn đem hết những trâu dê thả ra ngoài đồng mặc cho người Tần cướp lấy, người Tần được lợi, quân không còn hàng lối gì nữa, Nhục-Đàn ngầm chia 10 cánh quân, đổ ra đánh úp, làm cho quân Tần thua lớn, chém được hơn bẩy nghìn thủ-cấp. Ấy là cái nghĩa nhân rối loạn để đánh lấy đó.

Mai Nghiêu-Thần rằng: kẻ kia rối loạn thì ta thừa dịp mà đánh lấy.

 

Thấy chắc thì phải phòng.

Đỗ-Mục rằng: trong khi hai quân đối lũy, không cứ bên địch chắc hay lép, cũng thường phải phòng bị luôn.. Đây nói lúc bình thường vô sự, bờ cõi hai bên tiếp giáp nhau, nếu thấy bên kia, chính-trị sửa chuốt, trên dưới yêu nhau, thưởng phạt phân minh, tướng sĩ tinh luyện, thì phải nên phòng bị ngay chứ không đợi đến lúc giao binh, rồi mới phòng bị.

 

Thấy mạnh thì phải tránh.

Đỗ-Hựu rằng: kẻ kia kho vựa đầy chắc, quân lính mạnh mẽ, thì nên lui tránh để chờ khi nào họ rỗng lép, biếng lười, thấy biến rồi sẽ ứng phó.

Đỗ-Mục rằng: nói nên tránh cái sở trường của người ta. Quân địch trong khi binh cường khí mạnh, thì nên lui tránh, đợi khi họ trễ biếng, sẽ nhằm đánh vào chỗ khe hở. Cuối đời nhà Tấn, giặc Lĩnh-nam là Lư-Tuân, Từ Đạo-Phú thừa hư đánh úp thành Kiến-nghiệp, Lưu-Dụ đem quân chống và nói: nếu giặc kéo thẳng đến Tân-đình thì ta phải tránh, bằng họ lui về đỗ ở Sái-châu thì chỉ đến bị bắt mà thôi. Rồi Từ Đạo-Phú, muốn đốt thuyền kéo thẳng lên bộ, nhưng Lư-Tuân cho là không nên, bèn lui đến đỗ ở Sái-châu, rồi bị bại diệt.

Họ Hà rằng: kẻ địch ta chỉ thấy họ đầy chắc mà chưa thấy cái hình rỗng lép thì phải chứa súc để phòng bị.

 

Trêu cho họ tức.

Lý-Thuyên rằng: làm tướng hay giận thì quyền tất dễ loạn, đó là tại tính không bền.

Đỗ Mục rằng: viên đại tướng cứng cỏi, nóng nẩy thì nên trêu cho mà tức, khiến cho lòng sôi, chí loạn, không đoái nghĩ gì đến mưu kế đã định.

Mai Nghiêu Thần rằng: kẻ kia hẹp hòi nóng nẩy dễ giận, ta trêu để cho tức tối mà khinh chiến.

 

Lún cho họ kiêu.

Đỗ Hựu rằng: kẻ kia dấy quân cả nước, tức giận muốn tiến, ta nên tỏ ra bề ngoài thấp lún để cho họ hợm hĩnh, đợi khi họ trễ nải quay về, bấy giờ mới đón mà đánh.

Lý Thuyên rằng: Lễ nhiều mà nói ngọt, chí của kẻ ấy không nhỏ. Thạch Lặc nước Hậu Triệu xưng bầy tôi với Vương-Tuấn, tả hữu muốn đánh, Tuấn nói: Thạch-công đến đây cốt để phụng thờ ta, kẻ nào dám nói đánh sẽ chém. Bèn đặt đại tiệc để thiết đãi. Lặc bèn đem trâu dê mấy vạn con đến, nói là đem đến dâng lễ, kỳ thực là để ngăn lấp các đường ngõ, khiến quân Tuấn không kéo ra được, rồi y vào thành Kế, bắt Tuấn ở trong chỗ công-sảnh chém đi, kiêm tính cả nước Yên. Lún để cho bên kia sinh kiêu tức là nghĩa ấy.

 

Họ thân cận thì làm cho lìa.

Lý-Thuyên rằng: phá vỡ thề ước, làm lìa vua tôi, rồi sau mới đem quân đánh. Ngày xưa nước Tần đánh nước Triệu, tướng Tần là Ứng-Hầu nói phản-gián với Triệu-vương rằng: tôi chỉ sợ Triệu-Quát mà thôi, chứ Liêm-Pha thì dễ dàng lắm. Triệu-vương tưởng thực, bèn dùng Quát thay Pha, nhân thế bị Tần đánh thua, chôn sống quân Triệu đến bốn mươi vạn ở Trường-bình, tức là nghĩa ấy.

Đỗ-Mục rằng: nói bên địch nếu trên dưới yêu nhau, thì nên lấy mối lợi to đút lót để làm ly gián. Trần-Bình nói với Hán-vương rằng: nay những bề tôi thân thiết của Hạng-vương, chẳng qua có bọn Á-phụ, Chung-ly-Muội, Long-Thư, Chu-Ân, mấy người, đại vương nếu thực chịu dùng mấy vạn cân vàng, làm chia lìa vua tôi họ, họ tất từ bên trong giết nhau, Hán nhân thế cất quân sang đánh, thì chắc là diệt được nước Sở. Hán-vương cho làm phải, bèn đem 4 vạn cân vàng giao cho Trần-Bình, sai đi làm phản gián. Hạng-vương quả ngờ Á-phụ, không đánh gấp để hạ Huỳnh-dương, Hán-Vương bèn chạy trốn được.

 

Đánh chỗ không phòng bị, ra chỗ bất thình lình.

Tào Công rằng: đánh lúc họ trễ nải, ra chỗ họ trống trải.

Họ Mạnh rằng: Đánh lúc họ trống trải, chụp lúc họ trễ nải, khiến kẻ đich không biết đâu mà chống cự. Cho nên nói rằng: việc binh lấy vô hình làm giỏi. Thái-công nói: « cử động không gì thần bằng khiến kẻ địch không ngờ, mưu chước không gì hay bằng khiến kẻ địch không biết ».

 

Đó là những cách để đi đến sự thắng trận của nhà binh, không thể truyền trước được.

Tào-công rằng: Truyền cũng như để hở. Binh không có cái thế nhất định, nước không có cái hình nhất định, sự biến hóa trong khi lâm địch, không thể mà truyền trước được. Cho nên nói rằng: Liệu định ở lòng, xét cơ ở mắt.

Đỗ Mục rằng: Truyền là nói. Đây nói những điều kể ở trên này, đều là những mưu chước dùng binh thủ thắng, vốn không phải là phép tắc nhất định, tất phải thấy hình của quân địch rồi mới có thể thi vi, không nói trước được.

Chú thích

[1] Sách Quốc-ngữ chép: Tương-tử chạy đến Tấn-dương, quân Tấn vây mà tháo nước vào thành, tuy bếp chìm mà còn có cóc, dân không có ý làm phản.

 

 

➖➖➖


Chapter I. LAYING PLANS

Sun Tzŭ on The Art of War

Translator: Lionel Giles

~

[Ts’ao Kung, in defining the meaning of the Chinese for the title of this chapter, says it refers to the deliberations in the temple selected by the general for his temporary use, or as we should say, in his tent. See. § 26.]

 

1. Sun Tzŭ said: The art of war is of vital importance to the State.

2. It is a matter of life and death, a road either to safety or to ruin. Hence it is a subject of inquiry which can on no account be neglected.

3. The art of war, then, is governed by five constant factors, to be taken into account in one’s deliberations, when seeking to determine the conditions obtaining in the field.

4. These are: (1) The Moral Law; (2) Heaven; (3) Earth; (4) The Commander; (5) Method and discipline.

[It appears from what follows that Sun Tzŭ means by "Moral Law" a principle of harmony, not unlike the Tao of Lao Tzŭ in its moral aspect. One might be tempted to render it by "morale," were it not considered as an attribute of the ruler in § 13.]

5, 6. The Moral Law causes the people to be in complete accord with their ruler, so that they will follow him regardless of their lives, undismayed by any danger.

[Tu Yu quotes Wang Tzŭ as saying: "Without constant practice, the officers will be nervous and undecided when mustering for battle; without constant practice, the general will be wavering and irresolute when the crisis is at hand."]

7. Heaven signifies night and day, cold and heat, times and seasons.

[The commentators, I think, make an unnecessary mystery of two words here. Meng Shih refers to "the hard and the soft, waxing and waning" of Heaven. Wang Hsi, however, may be right in saying that what is meant is "the general economy of Heaven," including the five elements, the four seasons, wind and clouds, and other phenomena.]

8. Earth comprises distances, great and small; danger and security; open ground and narrow passes; the chances of life and death.

9. The Commander stands for the virtues of wisdom, sincerity, benevolence, courage and strictness.

[The five cardinal virtues of the Chinese are (1) humanity or benevolence; (2) uprightness of mind; (3) self-respect, self-control, or "proper feeling;" (4) wisdom; (5) sincerity or good faith. Here "wisdom" and "sincerity" are put before "humanity or benevolence," and the two military virtues of "courage" and "strictness" substituted for "uprightness of mind" and "self-respect, self-control, or ‘proper feeling.’"]

10. By Method and discipline are to be understood the marshalling of the army in its proper subdivisions, the gradations of rank among the officers, the maintenance of roads by which supplies may reach the army, and the control of military expenditure.

11. These five heads should be familiar to every general: he who knows them will be victorious; he who knows them not will fail.

12. Therefore, in your deliberations, when seeking to determine the military conditions, let them be made the basis of a comparison, in this wise:—

13. (1) Which of the two sovereigns is imbued with the Moral law?

[I.e., "is in harmony with his subjects." Cf. § 5.]

(2) Which of the two generals has most ability?

(3) With whom lie the advantages derived from Heaven and Earth?

[See §§ 7, 8]

(4) On which side is discipline most rigorously enforced?

[Tu Mu alludes to the remarkable story of Ts’ao Ts’ao (A.D. 155-220), who was such a strict disciplinarian that once, in accordance with his own severe regulations against injury to standing crops, he condemned himself to death for having allowed his horse to shy into a field of corn! However, in lieu of losing his head, he was persuaded to satisfy his sense of justice by cutting off his hair. Ts’ao Ts’ao’s own comment on the present passage is characteristically curt: "when you lay down a law, see that it is not disobeyed; if it is disobeyed the offender must be put to death."]

(5) Which army is the stronger?

[Morally as well as physically. As Mei Yao-ch’en puts it, freely rendered, "esprit de corps and ‘big battalions.’"]

(6) On which side are officers and men more highly trained?

[Tu Yu quotes Wang Tzŭ as saying: "Without constant practice, the officers will be nervous and undecided when mustering for battle; without constant practice, the general will be wavering and irresolute when the crisis is at hand."]

(7) In which army is there the greater constancy both in reward and punishment?

[On which side is there the most absolute certainty that merit will be properly rewarded and misdeeds summarily punished?]

14. By means of these seven considerations I can forecast victory or defeat.

15. The general that hearkens to my counsel and acts upon it, will conquer:—let such a one be retained in command! The general that hearkens not to my counsel nor acts upon it, will suffer defeat:—let such a one be dismissed!

[The form of this paragraph reminds us that Sun Tzŭ’s treatise was composed expressly for the benefit of his patron Ho Lu, king of the Wu State.]

16. While heeding the profit of my counsel, avail yourself also of any helpful circumstances over and beyond the ordinary rules.

17. According as circumstances are favourable, one should modify one’s plans.

[Sun Tzŭ, as a practical soldier, will have none of the "bookish theoric." He cautions us here not to pin our faith to abstract principles; "for," as Chang Yu puts it, "while the main laws of strategy can be stated clearly enough for the benefit of all and sundry, you must be guided by the actions of the enemy in attempting to secure a favourable position in actual warfare." On the eve of the battle of Waterloo, Lord Uxbridge, commanding the cavalry, went to the Duke of Wellington in order to learn what his plans and calculations were for the morrow, because, as he explained, he might suddenly find himself Commander-in-chief and would be unable to frame new plans in a critical moment. The Duke listened quietly and then said: "Who will attack the first tomorrow—I or Bonaparte?" "Bonaparte," replied Lord Uxbridge. "Well," continued the Duke, "Bonaparte has not given me any idea of his projects; and as my plans will depend upon his, how can you expect me to tell you what mine are?" [1] ]

18. All warfare is based on deception.

[The truth of this pithy and profound saying will be admitted by every soldier. Col. Henderson tells us that Wellington, great in so many military qualities, was especially distinguished by "the extraordinary skill with which he concealed his movements and deceived both friend and foe."]

19. Hence, when able to attack, we must seem unable; when using our forces, we must seem inactive; when we are near, we must make the enemy believe we are far away; when far away, we must make him believe we are near.

20. Hold out baits to entice the enemy. Feign disorder, and crush him.

[All commentators, except Chang Yu, say, "When he is in disorder, crush him." It is more natural to suppose that Sun Tzŭ is still illustrating the uses of deception in war.]

21. If he is secure at all points, be prepared for him. If he is in superior strength, evade him.

22. If your opponent is of choleric temper, seek to irritate him. Pretend to be weak, that he may grow arrogant.

[Wang Tzŭ, quoted by Tu Yu, says that the good tactician plays with his adversary as a cat plays with a mouse, first feigning weakness and immobility, and then suddenly pouncing upon him.]

23. If he is taking his ease, give him no rest.

[This is probably the meaning though Mei Yao-ch’en has the note: "while we are taking our ease, wait for the enemy to tire himself out." The Yu Lan has "Lure him on and tire him out."]

If his forces are united, separate them.

[Less plausible is the interpretation favoured by most of the commentators: "If sovereign and subject are in accord, put division between them."]

24. Attack him where he is unprepared, appear where you are not expected.

25. These military devices, leading to victory, must not be divulged beforehand.

26. Now the general who wins a battle makes many calculations in his temple ere the battle is fought.

[Chang Yu tells us that in ancient times it was customary for a temple to be set apart for the use of a general who was about to take the field, in order that he might there elaborate his plan of campaign.]

The general who loses a battle makes but few calculations beforehand. Thus do many calculations lead to victory, and few calculations to defeat: how much more no calculation at all! It is by attention to this point that I can foresee who is likely to win or lose.

[1] "Words on Wellington," by Sir. W. Fraser.

 

➖➖➖