
Đào, Mai dịu dàng khoe sắc tươi thắm
Bel-Union nhàn nhã đón xuân bình an

Chương VII.
Tiếng gọi
Với một nghìn sáu trăm đôla mà Bấc kiếm được cho Giôn Thoóctơn chỉ trong vòng năm phút, Bấc đã giúp cho chủ mình trang trải xong một số nợ nần và mở được cuộc hành trình cùng với các bạn phường đi về phía Đông để tìm một cái mỏ vàng mất tăm tích chỉ còn lại trong truyền thuyết, mà sự tích cũng xa xăm như chính sự tích cái xứ sở này vậy. Trước kia, đã có nhiều người săn tìm cái mỏ vàng ấy; ít người tìm ra được nó; mà số người đi tìm rồi chả bao giờ trở về nữa cũng không phải là ít. Tình tiết về cái mỏ vàng mất tăm tích ấy đầy rẫy chuyện đau thương và ẩn kín sau một bức màn thần bí. Không kẻ nào biết được người đầu tiên phát hiện ra nó là ai. Những lời truyền miệng từ xa xưa nhất cũng đã dừng lại trước khi phanh ra mối, lần ngược đến tung tích người đó. Mở đầu câu chuyện truyền thuyết, người ta kể lại về một túp lều cổ đổ nát, nó là vật đánh dấu nơi có cái mỏ vàng bí ẩn. Những kẻ thiệt mạng vì cuộc săn tìm này trong giờ phút hấp hối đã thề thốt là túp lều ấy có thực, là cái mỏ vàng ấy có thực và để làm bằng cho lời nói của họ, họ đã đưa ra cho xem những thỏi vàng thật là tuyệt vời, không có bất kỳ loại vàng nào ở các độ tuổi mà người ta đã thấy tại vùng đất phương Bắc này có thể sánh kịp.
Nhưng trong những người đang sống, chẳng có ai mang được thứ của quý ấy về nhà, mà người chết thì đã chết mất xác rồi. Do đó, Giôn Thoóctơn, Piti và Hendơ, cùng với Bấc và nửa tá chó khác nữa, đã xông pha vào vùng phía Đông theo một con đường mòn họ chưa từng biết đến, để hòng thực hiện cái điều mà những đoàn người và chó khác trước họ, cũng giỏi giang như họ, đã thất bại không làm nổi. Họ đi xe trượt tuyết băng qua bảy mươi dặm đường ngược dòng I-u-con, rồi ngoặt sang trái đi vào sông Xtiu-át, vượt qua Mayê và Mắcquêxơn, và cứ tiếp tục ngược dòng cho đến khi bản thân con sông Xtiu-át chỉ còn là một dòng suối nhỏ xíu, len lỏi qua sườn những ngọn núi dựng dứng đánh dấu cột xương sống của lục địa Bắc Mỹ.
Giôn Thoóctơn không yêu cầu gì mấy ở con người hoặc ở thiên nhiên. Anh không sợ hoang dã. Với một vốc muối và một cây súng, anh có thể lao vào cõi hoang vu và có thể làm ăn được ở bất cứ nơi nào và lâu đến bao nhiêu cũng được, tuỳ theo sở thích. Không có gì phải vội, anh cứ theo phong cách của người thổ dân da đỏ, hàng ngày vừa đi đường vừa săn bắn để kiếm cái ăn; và nếu không tìm ra cái ăn, thì cũng giống như người da đỏ, anh cứ tiếp tục đi tới, biết chắc chắn rằng chẳng chóng thì chầy thế nào anh cũng tìm ra. Vậy là trong cuộc hành trình lớn lao này vào vùng phía Đông, thực đơn là thịt cá chén ngay tại trận khi vừa săn bắn được, vật chở trên xe chủ yếu là đạn và dụng cụ, còn chương trình kế hoạch thì vạch ra thực hiện trong tương lai không hạn định.
Đối với Bấc cuộc sống như thế này thật là khoái vô cùng tận, được săn thú nhé, được bắt cá nhé, rồi lại còn được ngao du vô định qua bao miền đất lạ. Có những thời gian hằng mấy tuần liền đoàn người và chó cứ đi miết, ngày này qua ngày khác. Lại có lúc hàng mấy tuần liền họ cắm trại tại chỗ ở một nơi nào đó, đàn chó xả hơi đi chơi rong, còn người thì đốt lửa cho bùn và sỏi tan băng ra rồi moi thành lỗ, và cạnh hơi nóng của ngọn lửa, họ cặm cụi đãi không biết cơ man nào đất cát để tìm vàng. Có những lúc họ bị đói, nhưng có những lúc họ lại ăn uống thịnh soạn bừa mứa, mọi sự tuỳ thuộc vào số lượng thú săn nhiều hay ít và công việc săn bắt gặp may hay không. Mùa hè tới, người và chó đeo đồ lề lên lưng, dùng bè vượt qua những hồ nước xanh biếc giữa đồi núi, và khi xuôi khi ngược dọc các dòng sông chưa hề quen biết, trên những chiếc thuyền thoi do họ đốn gỗ trong rừng tự đẽo khoét lấy.
Ngày tháng trôi qua, đoàn người và chó cứ miệt mài dấn bước, vòng vèo khi tới khi lui xuyên qua cõi đất mênh mông chưa hề được đồ hoạ, chưa ai từng đặt chân tới hay biết đâu đã có người đến, nếu như câu chuyện về Túp Lều Mất Tích là có thực. Họ đi qua những đường phân thuỷ, giữa những trận bão tuyết mùa hè dữ dội, họ run cầm cập dưới ánh mặt trời nửa đêm trên những ngọn núi trọc nằm xen giữa bìa rừng và vùng tuyết vĩnh cửu, họ tụt xuống những thung lũng giữa tiết hè tràn ngập ruồi muỗi, và dưới bóng những núi băng, họ dừng lại hái những quả dâu chín mọng và những bông hoa tươi đẹp chẳng thua kém bất kỳ loại hoa quả nào mà miền đất phương Nam có thể tự hào. Mùa thu năm ấy họ lọt vào một vùng hồ kỳ ảo, buồn tẻ và tĩnh mịch, nơi đây xưa kia đã từng có chim trời trú ngụ, nhưng nay thì không còn sự sống, đến cả dấu vết của sự sống cũng không còn - chỉ có luồng gió ớn lạnh thổi qua, băng đang dần đóng lại ở những nơi bị che khuất, và tiếng sóng rì rào buồn man mát vỗ nhẹ vào những bãi bờ hiu quạnh.
Rồi họ lang thang suốt một mùa đông nữa, mò theo hướng những người đã đi qua trước đây mà dấu vết đã bị xoá sạch. Một lần họ chợt bắt gặp một lối đi mở xuyên qua rừng, một lối mòn rất cũ, và tưởng chừng như Túp Lều Mất Tích đã ở đâu đây rất gần. Nhưng lối mòn ấy bắt đầu từ chỗ không đâu ra đâu và tận cùng ở một chỗ cũng không đâu ra đâu cả. Kết cục, nó vẫn là một điều bí ẩn, cũng như ai đã mở ra lối đi ấy và mở ra để làm gì, đều vẫn là điều bí ẩn. Một lần khác, họ lại tình cờ phát hiện thấy một chiếc lán của người đi săn, từ một thời xa xưa, nay đã đổ nát, và giữa những mảnh chăn đã mục, Giôn Thoóctơn tìm thấy một khẩu súng kíp nòng dài. Anh nhận ra đó là một thứ súng của Công ty Vịnh Hâtxơn trong thời kỳ han sơ ở Vùng Tây Bắc, vào cái thời mà một cây súng như thế này xứng đáng với vị trí cao quý được đóng hộp bọc da hải ly đàng hoàng. Nhưng tất cả chỉ có thế - không có một dấu vết nào mách bảo về con người trong một ngày xa xưa nào đó đã đựng lên chiếc lán này và còn để lại khẩu súng trong đống chăn.
Một mùa xuân nữa lại đến, và sau khi đã lang thang mãi hết nơi này đến nơi nọ, cuối cùng họ đã tìm thấy, không phải là Túp Lều Mất Tích, mà là một bãi sỏi cát nông có vàng giữa một thung lũng rộng, trên bãi này vàng hiện ra như một lớp bơ nằm dưới đáy của chiếc giần đãi. Họ không đi tìm đâu xa nữa. Mỗi ngày làm việc đem lại cho họ hàng ngàn đôla vàng cốm và vàng cục đã đãi sạch, và ngày nào họ cũng làm. Vàng được đóng gói vào những chiếc túi bằng da nai, mỗi túi chứa năm mươi pao. Họ xếp những túi ấy thành chồng như xếp củi bên ngoài chiếc lán làm bằng cành cây bách. Như những người khoẻ phi thường, họ làm việc quần quật không mệt mỏi, ngày nối ngày vùn vụt trôi qua như những giấc mơ trong khi đống vàng của họ cứ chất cao thêm mãi.
Lũ chó chả có gì để làm ngoài việc thỉnh thoảng kéo về lán những con thú do Thoóctơn săn được, và Bấc có những buổi nằm dài trầm ngâm hàng giờ bên đống lửa. Bây giờ đây, khi công việc chả có bao nhiêu, thì cảnh mộng về con người lông lá chân ngắn lại hiện về với Bấc thường xuyên hơn; và thường thường, giữa lúc nằm yên chớp mắt nhìn ánh lửa, Bấc lại mơ thấy mình lang thang cùng con người ấy trong cái thế giới bên kia mà Bấc hồi tưởng lại.
Đặc điểm nổi bật của cái thế giới kia hình như là nỗi sợ hãi. Khi Bấc để ý nhìn con người lông lá ấy ngủ bên đống lửa, đầu đặt giữa hai gối và cái bàn tay đan lại trên đầu Bấc thấy gã ngủ không yên, nhiều lần giật mình tỉnh dậy, và những lúc ấy gã thường sợ hãi nhìn chằm chằm vào bóng tối và ném thêm củi vào ngọn lửa. Nếu gã cùng Bấc đi dọc bờ biển nơi gã thường nhặt sỏi hến, nhặt đâu ăn đấy, thì gã vừa đi vừa đảo mắt nhìn khắp mọi chốn dè chừng những mối đe doạ ẩn nấp đâu đó, và đôi chân sẵn sàng vắt lên cổ chạy tháo thân ngay khi vừa thấy mối đe doạ ấy ló ra. Những khi xuyên qua rừng rậm, gã cùng Bấc bước rón rén không một tiếng động, Bấc bám gót gã: cả hai đều cảnh giác, tỉnh táo, đề phòng, đôi tai vểnh lên, giần giật, lỗ mũi phập phồng, bởi con người này nghe và đánh hơi cũng thính chả kém gì Bấc. Con người lông lá này có thể nhún mình nhảy tót lên cây, và chuyền cành đi tới phía trước cũng nhanh như đi trên mặt đất, hai cánh tay đánh đu tung người từ cành này sang cành khác có khi cách nhau đến mươi bộ, thoăn thoắt buông chỗ này bắt chỗ nọ, không bao giờ rơi ngã, không bao giờ bắt hụt. Trên thực tế, hình như gã ở trên cây cũng thoải mái chả kém gì ở trên mặt đất; và Bấc mường tượng ra trong ký ức những đêm Bấc thức trắng nằm chờ dưới gốc cây, bên trên là con người lông lá đang bám chặt vào cành cây nằm ngủ.
Và có một thứ luôn gắn chặt với cảnh mộng về con người lông lá ấy là tiếng gọi, cái tiếng gọi cứ vang lên trong rừng thẳm. Mỗi lần nghe tiếng gọi ấy là lòng Bấc tràn ngập một nỗi xao xuyến bồi hồi và những ham muốn kỳ lạ. Nó mang đến cho Bấc một niềm vui mơ hồ mà thú vị, và Bấc nhận thấy trong lòng mình sôi lên cuồng nhiệt bao nỗi khát khao mong muốn những điều mà Bấc không rõ là điều gì. Thỉnh thoảng Bấc vùng dậy chạy vào rừng đuổi theo tiếng gọi, sục tìm nó như thể nó là một vật có thể sờ mó được, vừa chạy vừa sủa nhẹ từng tiếng nhỏ hoặc sủa với vẻ thách thức, tuỳ theo tâm trạng thay đổi từng lúc. Có lúc Bấc thọc mũi vào các tảng rêu mát lạnh bám trên thân cây hay vào lớp đất đen dưới bãi cỏ ống, và khịt khịt với vẻ vui sướng khi ngửi thấy mùi đất mỡ màng; hoặc có lúc nó nằm thu mình hàng giờ sau những thân cây đổ đầy nấm mọc, như để ẩn nấp, rình mồi, giương mắt giỏng tai theo dõi mọi sự chuyển động và mọi tiếng thóc thách xung quanh nó. Có thể bằng cách nằm rình như vậy, nó hy vọng sẽ bất chợt bắt gặp được cái tiếng gọi mà nó không hiểu nổi đó. Nhưng không, nó không biết tại sao nó lại làm mọi điều như vậy. Có một cái gì đó buộc nó phải làm thế, và nó tuyệt nhiên không lý giải được.
Nó chịu tác động của những lực thôi thúc không thể cưỡng lại nổi. Có những khi đang nằm dài vô tích sự trong khu đóng trại ngủ gà ngủ gật dưới ánh nắng ấm áp ban ngày, nó đột nhiên cất đầu, vểnh tai chăm chú lắng nghe, rồi bật dậy và lao đi, và cứ thế lao tới, lao tới mãi, hàng mấy tiếng liền, theo những lối hở giữa cây rừng và qua những bãi trống đầy những cụm cỏ lác. Nó thích chạy xuôi những dòng suối khô cạn, và thích rón rén theo dõi cuộc sống của chim chóc trong rừng. Có khi cả ngày liền nó nằm trong bụi rậm, từ nơi ẩn nấp này nó có thể quan sát những chú gà gô gõ nhịp liên hồi và khệnh khạng đi đi lại lại. Nhưng nó đặc biệt thích chạy trong bóng tối lờ mờ vào lúc nửa đêm mùa hạ, giỏng tai nghe tiếng rì rầm lắng dịu và buồn ngủ của núi rừng, đọc những tín hiệu và những âm thanh như con người đọc cuốn sách, và sục tìm cái vật huyền bí nào đó đã cất lên tiếng gọi - gọi nó đến, gọi vào mọi lúc, cả lúc đang thức, cả lúc đang ngủ.
Rồi một đêm nọ, nó đang ngủ bỗng giật nảy mình bật dậy, đôi mắt rực lên háo hức, cánh mũi rung động phập phồng đánh hơi, bờm lông dựng lên từng hồi như sóng cuộn. Từ trong rừng sâu vẳng tới tiếng gọi (hay có thể nói là một âm tiết của nó, bởi tiếng gọi có nhiều âm tiết khác nhau), minh bạch và rõ ràng hơn bao giờ hết - một tiếng hú kéo dài, nghe giống nhưng lại cũng không giống bất kỳ tiếng kêu nào của loài chó mà nó đã từng nghe thấy thuở trước. Bấc vọt ra khỏi khu trại đang yên giấc lặng lẽ lao vun vút đi qua các khu rừng. Tiếng hú càng gần lại, Bấc giảm dần tốc độ, thận trọng trong từng cử động, nó nhìn ra, thì kìa, trước mắt nó một vật ngồi chồm hổm, một con sói xám thân dài, gầy guộc, đang rướn thẳng mình, ghếch mõm lên trời.
Bấc tới đây không hề gây ra một tiếng động, ấy thế mà con vật kia ngừng bặt tiếng hú và đánh hơi cố tìm cách phát hiện ra nó. Bấc rón rén bước ra bãi trống, hơi rún mình xuống, toàn thân thu hết lại thành một khối chắc nịch, đuôi duỗi thẳng cứng đờ, chân khuỵu xuống trong tư thế thận trọng khác thường. Mọi cử động của Bấc biểu hiện một thái độ vừa đe doạ, vừa tỏ ý muốn làm thân. Chính đó là cái kiểu hoà hoãn tạm thời nhưng chứa đựng sự đe doạ, nó là dấu hiệu đặc trưng của những cuộc chạm trán giữa những con dã thú trên đường đi săn mồi. Nhưng con chó sói vội vàng bỏ chạy khi vừa trông thấy Bấc, Bấc phóng theo, nhảy những bước dài điên cuồng quyết ra sức đuổi kịp hắn. Bấc dồn hắn vào một cái lối cụt, giữa lòng một nhánh suối con, nơi có những gốc cây ken nhau dày chi chít chặn nghẽn đường. Con sói quay ngoắt lại, trụ trên hai chân sau để xoay mình theo kiểu của Jô và mọi con chó étkimô khác khi bị cùng đường, gầm thét và lông dựng đứng, hai hàm răng vập nhanh vào nhau liên tiếp.
Bấc không tiến công, chỉ lượn vòng bao quanh hắn đón chặn hắn lại với thái độ tỏ ý muốn làm thân. Con sói nghi hoặc và sợ hãi: bởi Bấc to gấp ba hắn, đầu hắn chỉ vừa chấm vai Bấc. Nhè lúc Bấc sơ hở, hắn vọt ra ngoài phóng đi. Thế là cuộc săn đuổi lại tiếp tục. Hết lần này đến lần khác, hắn lại bị Bấc đuổi dồn vào nơi cùng đường, rồi sự việc lại cứ diễn đi diễn lại như cũ, mặc dù hắn ở trong tình trạng yếu thế, mà nếu hắn không yếu thế thì Bấc cũng không dễ gì đuổi kịp hắn. Hắn cứ chạy cho đến khi thấy đầu của Bấc nhô lên đến ngang sườn hắn là hắn quay ngoắt lại giữ không cho Bấc chạm vào hắn, để rồi lại vọt ra bỏ chạy ngay khi chớp được cơ hội đầu tiên.
Nhưng cuối cùng, cuộc đuổi bám dai dẳng của Bấc đã được đền đáp. Con chó sói thấy đối phương không có ý gì muốn hại hắn, rốt cuộc đã hít mũi với Bấc. Thế là chúng đánh bạn với nhau, và đùa giỡn bên nhau với cái vẻ hay hốt hoảng và có phần rụt rè mà thú dữ thường biểu hiện ra bên ngoài, làm người ta có thể nhầm không rõ bản chất hung dữ của chúng. Sau khi nó đùa với nhau một lát, con chó sói bỏ đi, ung dung chạy những bước dài nhún nhẩy nhịp nhàng với một cung cách tỏ ra hắn đang nhằm đi tới một nơi nào đó. Hắn lại tỏ ý với Bấc là hắn muốn Bấc cùng đến nơi đó với hắn, và chúng chạy bên nhau trong bóng tối mờ mờ, ngược suốt theo lòng suối, đi vào hẻm núi nơi con suối chảy ra, và vượt qua đường phân thuỷ hoang vắng nơi con suối bắt nguồn.
Qua sườn dốc bên kia đường phân thuỷ, chúng xuống một vùng bằng phẳng, có những dải rừng lớn và nhiều khe suối, và cứ thế mải miết chạy qua các dải rừng ấy hết giờ này sang giờ khác. Mặt trời lên cao và khí trời ấm dần. Bấc vui sướng như ngây như dại. Nó biết thế là cuối cùng nó đã đáp lại tiếng gọi, nó đang chạy bên cạnh kẻ anh em ruột thịt chốn núi rừng, và phía mà chắc chắn là nơi xuất xứ của tiếng gọi. Nhưng ký ức tự thuở cổ xưa đang kéo về với nó nhanh chóng và lòng nó đang náo nức với những ký ức ấy, cũng giống những điều thực tại mà chính các ký ức xa xưa ấy là cái bóng lồng theo. Nó đã sống những giây phút như thế này thuở trước, đâu đó trong cái thế giới kia mà nó đang lờ mờ hồi tưởng lại, và giờ đây nó lại được sống những giây phút như vậy, tự do chạy thênh thênh giữa cõi thiên nhiên khoáng đãng, dưới chân là mặt đất còn tinh khôi nguyên vẹn, và trên đầu là bầu trời mở rộng bao la.
Chúng dừng lại bên một dòng suối róc rách chảy để uống nước. Và khi dừng lại, Bấc sực nhớ tới Giôn Thoóctơn. Nó ngồi xuống tại chỗ, con sói tiếp tục đi tới trước, lại quay lại với Bấc, hít mũi với Bấc và làm những động tác như để khuyến khích Bấc. Nhưng Bấc quay đằng sau và từ từ lui trở về theo lối cũ. Trong gần một tiếng đồng hồ, con chó hoang anh em chạy lui theo bên cạnh Bấc, vừa chạy vừa khe khẽ kêu ư ử, rồi hắn ngồi xuống hếch mõm lên trời, tru lên một tiếng dài. Tiếng tru sao mà thê thảm, Bấc cứ tiếp tục mải miết chạy trở về không quay lại, nó nghe tiếng hú kia mỗi lúc một nhỏ dần, nhỏ dần rồi mất hút ở phía sau xa.
Giôn Thoóctơn đang ăn bữa tối thì Bấc lao vào khu trại và nhảy bổ vào anh trong một cơn lốc thương yêu như điên như dại, đẩy anh lật nhào, trèo lên người anh liếm mặt anh, ngoạm lấy bàn tay anh - chơi cái trò ông tướng ngốc, như Giôn Thoóctơn thường mệnh danh cho lối biểu thị ấy - còn Thoóctơn thì ôm lấy nó lắc, đảo tới đảo lui và rủa yêu nó.
Trong suốt hai ngày đêm, Bấc không rời khu trại đến nửa bước, không hề để Giôn Thoóctơn rời khỏi tầm mắt của nó. Nó quấn quít quanh anh trong khi anh làm việc, chăm chú quan sát anh khi anh ăn, đưa mắt trông theo anh chui vào chăn đi ngủ, và chờ đón nhìn anh buổi sáng thức dậy từ trong chăn chui ra.
Nhưng sau hai ngày ấy, tiếng gọi trong rừng sâu lại bắt đầu vang lên thúc giục khẩn thiết hơn bao giờ hết, Bấc lại bồn chồn trở lại, đầu óc lại tơ tưởng đến hình ảnh con chó hoang anh em, đến vùng đất tươi đẹp đầy sức quyến rũ bên kia đường phân thuỷ, và đến cái buổi chạy sóng đôi bên nhau qua những dải rừng rộng lớn. Thế là lần nữa, nó lại lao vào rừng lang thang hết nơi này đến nơi khác, nhưng kẻ anh em chốn hoang dã không trở lại với nó nữa, và mặc dù có chú ý lắng tai nghe suốt nhiều đêm dài thao thức, tiếng hú não nùng kia không còn bao giờ cất lên trở lại.
Nó bắt đầu ngủ đêm ngoài rừng và có khi đến mấy ngày liền nó bỏ đi khỏi khu trại. Một lần nó vượt qua đường phân thuỷ ở đầu nguồn nước và chạy xuống vùng đất có nhiều cây to, và nhiều khe suối, tại đó nó lang thang trong suốt một tuần để tìm kiếm dấu vết của kẻ anh em nơi hoang dã, nhưng vô vọng. Nó vừa đi vừa săn mồi để ăn, và trên đường nay đây mai đó nó khoan thai chạy những bước dài nhún nhẩy nhịp nhàng hình như không bao giờ biết mệt. Nó săn bắt cá hồi trong một dòng suối rộng đang trút ra đâu đây nơi biển cả, và cạnh dòng suối này nó giết chết một con gấu đen to lớn. Con gấu này cũng đang bắt cá như nó thì bị muỗi xúm lại đốt mù cả mắt, và giữa lúc này thì bị Bấc tấn công. Gấu ta đã gầm thét dữ dội phóng qua rừng rậm bỏ chạy, nom thật khủng khiếp nhưng hoàn toàn bất lực. Mặc dù vậy, cuộc chiến đấu cũng khá gay go, và trận đánh quyết liệt này đã khơi dậy hết những tàn dư tiềm tàng cuối cùng của tính hung dữ truyền lại bên trong Bấc. Và hai ngày sau, khi Bấc trở lên bên con vật nó đã giết chết, nhìn thấy khoảng chục con chồn gulô đang tranh giành nhau ăn xác con mồi, nó đã xông vào đánh lũ chồn chạy tan tác bỏ lại hai con gục xuống đấy không còn bao giờ biết tranh giành gì nữa.
Tính thèm khát máu tươi đã trỗi dậy bên trong Bấc mạnh hơn bao giờ hết. Nó đã thành một kẻ chuyên giết chóc, một vật săn mồi, sống bằng thịt những vật sống đang đi lẻ loi và cô thế, nhờ ở chính sức mạnh và sự dũng cảm của bản thân mình, tồn tại oanh liệt bằng chiến thắng trong một môi trường cứu địch, mà ở đó chỉ có kẻ mạnh mới tồn tại. Do tất cả những điều ấy, trong lòng nó phát sinh một niềm kiêu hãnh lớn lao về bản thân mình, niềm kiêu hãnh này truyền lan như một sự nhiễm lây sang phần vật chất của cơ thể nó. Niềm kiêu hãnh ấy tự phô bày trong mọi động tác của nó, thể hiện rõ ràng trong lối vận động của từng cơ bắp, diễn đạt minh bạch như lời nói trong cung cách đi đứng của nó, và làm cho bộ lông dày lộng lẫy của nó như có phần thêm lộng lẫy. Nếu không có mấy đốm nâu lạc lõng ở mõm nó và phía trên đôi mắt, và cái vệt lông trắng chạy dọc ở chính giữa ức nó, thì người ta rất có thể nhầm tưởng nó là một con chó sói khổng lồ, lớn hơn cả con nhất của dòng họ nhà sói. Nó kế thừa được cái vóc và trọng lượng của bố nó thuộc nòi Xanh Bécna nhưng chính là mẹ nó, thuộc nòi chó chăn cừu, đã di truyền lại cái hình dáng cho tầm vóc ấy và trọng lượng ấy. Mõm nó là cái mõm dài của nòi sói, chỉ khác là nó lớn hơn mõm của bất kỳ con chó sói nào; và cái đầu của nó đích thị là hình dạng một cái đầu chó sói phóng đại.
Cái khôn ranh của nó là cái khôn ranh của loài sói, một thứ khôn ranh man rợ; cái thông minh của nó là cái thông minh của nòi chó chăn cừu kết hợp với cái thông minh của nòi Xanh Bécna; và tất cả những cái đó cộng với kinh nghiệm đã thu lượm được trong trường đời hung bạo nhất, đã biến nó thành một sinh vật cũng ghê gớm như bất kỳ thứ sinh vật nào lang thang giữa nơi hoang dã. Là một nòi ăn thịt, ngày ngày sống bằng thịt ăn sống nuốt tươi ngay khi săn bắt được, Bấc đang trong thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, ở ngọn triều cao của cuộc đời mình, tràn trề sức mạnh và khí thế. Mỗi khi Giôn Thoóctơn lướt bàn tay vuốt ve dọc sống lưng nó, thì từng sợi lông đã tích đầy từ điện bị chạm vào liền phóng điện phát ra những tiếng tanh tách nhỏ theo bàn tay vuốt tới. Mỗi một bộ phận, từ bộ não đến cơ thể, từ mô thần kinh đến thớ thịt, đều được làm cho thích ứng với độ nhạy bén cao nhất; và giữa tất cả các bộ phận ấy, có một sự cân bằng và điều chỉnh cho ăn ý đến mức hoàn hảo. Khi bắt gặp một cảnh tượng, tiếng động hoặc sự việc gì đòi hỏi phải phản ứng, nó lập tức phản ứng nhanh như chớp. Để chống lại một cuộc tấn công hoặc để tấn công, một con chó étkimô bật nhảy nhanh là thế, vậy mà Bấc còn bật nhảy nhanh gấp đôi. Thời gian để nó nhìn thấy một chuyển động hoặc để nghe thấy một tiếng gì đó, rồi phản ứng, tất cả chỉ trong chớp mắt, còn ngắn hơn cả thời gian cần thiết cho bất kỳ con chó nào khác để cho kịp nhìn thấy hoặc nghe thấy. Nó vừa nhận thức, vừa quyết định, vừa phản ứng cùng một lúc. Thực ra thì ba hoạt động nhận thức, quyết định và phản ứng là kế tiếp nhau; thế nhưng khoảng cách thời gian giữa các việc ấy đều vô cùng ngắn ngủi nên có vẻ như ba việc diễn ra đồng thời. Các bắp thịt của nó thừa ứ sinh lực, sẵn sàng bật nảy lao vào hành động, nhạy như những lò xo thép. Sự sống trào dâng trong mình nó như một ngọn triều tưng bừng, hân hoan, sôi sục, dâng lên mãi đến mức tưởng chừng như có thể làm nó vỡ tung ra từng mảnh trong trạng thái ngây ngất thoát bung ra khỏi bản thân mình, để dòng sinh lực kia tuôn trào tràn trề hào phóng ra khắp mọi nẻo của cõi đời.
-Chưa bao giờ có một con chó như nó! - một hôm Giôn Thoóctơn đã phải thốt lên như vậy, trong khi anh cùng các bạn phường dõi theo Bấc đang bước ra khỏi khu trại.
-Khi ông Tạo đúc ra nó thì cái khuôn bị vỡ - Piti tiếp lời.
-Ôi lạy Chúa! Tôi cũng nghĩ như các anh vậy đó - Hendơ xác nhận.
Họ nhìn thấy nó bước ra khỏi khu trại, nhưng họ không nhìn thấy sự biến đổi đột ngột và ghê gớm đã diễn ra ngay khi nó vừa khuất trong màn bí mật của núi rừng. Đến nơi đó là nó không bước ra nữa. Ngay tức khắc nó biến thành một vật của hoang dã, len lén luồn tới nhẹ nhàng, bước chân êm như mèo, trở thành một cái bóng đen thấp thoáng lướt qua, khi ẩn khi hiện giữa nhứng bóng đen khác. Nó biết cách lợi dụng mọi vật che khuất, trườn sát bụng xuống đất như con rắn, và cũng như con rắn, nó biết cách xuất kỳ bất ý bật nhảy vọt lên tấn công. Nó có thể lôi cổ một chú gà gô từ trong tổ ra, giết chết một con thỏ đang ngủ, và chộp gọn giữa lưng chừng không khí những chàng sóc chuột bé nhỏ đang vọt lên nhưng chỉ vì chậm chân có một tích tắc nên chưa kịp bám được vào thân cây leo lên chạy thoát. Cả cá lội trong vũng trống không phải là quá nhanh đối với nó; mà hải ly luôn be bờ đắp đập cũng không phải là quá cảnh giác đề phòng đến nỗi nó không tóm được. Nó giết các thú vật khác là để ăn thịt, chứ không phải để đùa giỡn; nhưng ăn những vật gì tự nó giết được thì nó vẫn thích hơn. Do vậy, có một thứ tinh nghịch ngấm ngầm trong hành động của nó, và nó rất khoái cái trò lên tới sát nách những chú sóc, rồi đến khi chắc chắn là nó chộp được chúng ngon ơ, chúng không tài nào thoát được thì nó lại tha cho chúng, làm cho các chú sóc hoảng sợ hết hồn hết vía leo tót lên ngọn cây, chí chóc mãi.
Mùa thu đã tới, nai sừng Bắc Mỹ xuất hiện nhiều hơn, chuyển dần xuống phía dưới để đón mùa đông ở những thung lũng thấp, nơi khí hậu đỡ khắc nghiệt hơn. Bấc đã hạ được một con nai choai lạc đàn. Nhưng nó lại hết sức thèm muốn những con mồi to hơn và ghê gớm hơn, và một hôm nó đã bắt gặp được một con đúng như nó mong ước tại đường phân thuỷ ở đầu ngọn suối. Một đàn hai mươi con nai sừng đã từ vùng đất có nhiều cây to và khe suối kéo sang, và chúa tể đầu đàn là một gã nai đực to lớn. Gã này đang trong cơn thịnh nộ dữ tợn, và với thân hình sừng sững đứng cao hơn sáu bộ, gã quả là một đối thủ ghê gớm mà Bấc có thể mơ ước. Gã nai hất tới hất lui bộ sừng to lớn xoè thành hình chân vịt, chĩa ra mười bốn mũi và dang rộng đến bảy bộ từ mút bên này sang mút bên kia. Khi nhìn thấy Bấc, đôi mắt ti hí của gã rực lên một ánh lửa ác độc và quyết liệt; và gã rống lên giận dữ.
Ở một bên thân của gã, ngay phía trước sườn, thòi ra đoạn đuôi của một mũi tên cắm lông chim, thì ra chính vì cái này mà gã sinh ra điên giận đến như vậy.
Được sự dắt dẫn của cái bản năng truyền lại từ những ngày săn bắt trong thế giới nguyên thuỷ xa xưa, Bấc tìm cách tách con nai đực kia ra khỏi đàn. Đó không phải là việc dễ. Bấc vừa sủa vừa nhảy nhót quanh quẩn trước mặt gã nai đực, vừa vặn ngoài tầm của bộ sừng to lớn và bộ móng loe kinh khủng chỉ cần bổ cho nó một đòn thôi là đủ làm nó đi đứt. Không thể nào dứt ra khỏi cái vật tai tác nguy hiểm có răng nanh kia để mà tiếp tục đi, gã nai đực nổi những cơn điên giận đến cực điểm. Những lúc nổi điên lên, gã lao vào tấn công Bấc, nhưng Bấc láu cá rút lui, dù gã leo theo bằng cách giả vờ làm ra vẻ như không thể nào chạy thoát nổi. Nhưng mỗi khi gã nai vì vậy mà tách ra xa khỏi đàn, thì lại có hai ba con nai đực khác trẻ hơn quay lui xông vào tấn công Bấc, giúp cho gã nai đực bị thương có thể trở lại theo đàn.
Có một thứ tính kiên nhẫn của hoang dã - rất bền bỉ không biết mệt mỏi, gan lì như chính bản thân sự sống vậy - thứ tính kiên nhẫn đã giữ cho con vật chờ mồi im phăng phắc từ giờ này sang giờ khác như trong thời gian vô tận: con nhện giữa cái mạng tơ, con rắn trong tư thế cuộn vòng, con báo tại nơi mai phục; cái thứ kiên nhẫn này là thuộc tính của sự sống khi sự sống săn bắt một sự sống khác làm thức ăn cho mình; và thứ kiên nhẫn này cũng là thuộc tính của Bấc khi Bấc bám riết bên sườn đàn nai, cản trở làm chậm cuộc hành quân của chúng, chọc tức những con nai đực trẻ, quấy rầy những con nai cái với lũ nai choai lẽo đẽo theo sau, và làm cho gã nai đực bị thương kia phát điên lên trong cơn thịnh nộ bất lực. Trong suốt nửa ngày trời, sự việc cứ thế tiếp diễn, Bấc tăng cường độ của mình lên gấp bội, tấn công từ mọi phía, vây bọc lấy đàn nai trong một cơn lốc đe doạ, tìm cách tách nạn nhân của nó ra khỏi đàn mỗi khi gã vừa kịp trở lại nhập bọn với lũ nai đàn, làm hao kiệt dần sự kiên nhẫn của những sinh vật bị săn vốn không bền bỉ được bằng sự kiên nhẫn của những sinh vật đi săn.
Ngày tàn dần và ông mặt trời tụt xuống nơi yên nghỉ của mình phía chân trời Tây Bắc (mấy hôm nay bóng tối đã lại quay về nơi đây, và đêm mùa thu kéo dài sáu tiếng). Những chàng nai đực trẻ mỗi lúc một miễn cưỡng hơn trong việc quay lui hỗ trợ cho gã nai đầu đàn bị vây hãm. Mùa đông đang lan xuống dần, thúc chúng mau chân đi tới những rẻo đất thấp hơn, vả lại chúng thấy hình như chúng không bao giờ có thể tống khứ đi được cái sinh vật không hề biết mệt mỏi kia đang kìm chân chúng lại. Hơn nữa không phải là tính mệnh của cả đàn hay tính mệnh của lũ nai đực trẻ bị đe doạ, mà chỉ có một thành viên của đàn bị đòi nộp mạng, điều đó không đáng quan tâm bằng chính cái mạng của chúng, và thế là cuối cùng chúng bằng lòng nộp món tiền mãi lộ ấy.
Khi bóng hoàng hôn trùm xuống, gã nai đực già đứng lặng, đầu cúi thấp, đưa mắt dõi theo những bạn cùng đàn - những nàng nai cái mà gã đã thân thuộc, những bé nai con mà gã đã sinh ra, những chàng nai trẻ mà gã đã thống lĩnh - trong khi chúng lóng ngóng bước gấp trong ánh chiều đang mờ dần. Gã không thể chạy theo bởi vì trước mũi gã cái mối đe doạ khủng khiếp có răng nanh không thương xót kia vẫn cứ nhảy nhót, không chịu buông tha gã. Gã nặng đến hơn sáu trăm ký, gã đã sống một cuộc đời dài và dũng mãnh, đầy chiến đấu và vật lộn, thế mà cuối cùng gã lại đối mặt với cái chết nơi hàm răng của một sinh vật mà cái đầu vượt chưa quá khuỷu đầu gối to lớn của gã.
Từ lúc đó, suốt đêm suốt ngày, Bấc không bao giờ rời khỏi con mồi của mình, không bao giờ cho nó một giây phút nào nghỉ ngơi, không bao giờ để cho nó gặm được tí lá cây nào hoặc tí chồi non nào của những cây bulô và liễu mới mọc. Bấc cũng không để cho gã nai bị thương có một cơ hội nào để làm dịu cơn khát cháy họng. Trong tình cảnh tuyệt vọng, gã nai thường đột nhiên vùng chạy những thoi dài. Những lúc ấy Bấc không tìm cách chặn gã lại, mà cứ ung dung chạy những bước dài nhún nhảy nhịp nhàng bám sát gót gã, hài lòng với kiểu chơi cái trò ấy, rồi khi gã nai đứng lặng thì nó nằm xuống nghỉ, khi gã cố gắng tìm cách để ăn hoặc uống thì nó tấn công gã ác liệt.
Cái đầu to tướng mỗi lúc một gục xuống thấp hơn dưới bộ ngực đồ sộ, và bước chạy lóng ngóng mỗi lúc một yếu dần đi. Gã đã phải đứng lặng hồi lâu, mũi chúc xuống đất, đôi tai chán nản cụp xuống ủ rũ; và Bấc nhờ đó có thêm thời gian để bản thân mình kiếm nước uống và nghỉ xả hơi. Giữa những lúc này, trong khi nằm thở hổn hển, chiếc lưỡi đỏ tươi thè dài và đôi mắt đan chặt vào con nai đực to lớn, Bấc bỗng cảm thấy hình như có một sự thay đổi nào đó đang diễn ra trên bộ mặt của mọi vật. Nó cảm thụ được một sự xáo động mới lạ truyền lan qua miền này. Trong thời gian lũ nai sừng kéo đến nơi đây, có những loài khác của sự sống cũng đang kéo đến. Cả rừng cây, khe suối, và cả không khí nữa, hình như đều đang phập phồng vì sự có mặt của những loài đó. Bấc hoàn toàn tin vào các tín hiệu mách bảo rằng những loài đó đã xuất hiện, không phải bằng mắt nhìn, hay tai nghe, hay mũi ngửi mà bằng một thứ giác quan khác tinh tế hơn. Quả là nó chẳng nghe thấy gì, chẳng nhìn thấy gì, thế nhưng nó vẫn nhận ra là miền đất này có cái gì khang khác, có những vật lạ đang hoạt động và đang đi lùng khắp nẻo; và nó quyết định sẽ tìm hiểu xem sao sau khi kết thúc cái việc đang làm dở.
Cuối cùng, đến hết ngày thứ tư, nó hạ được con nai to lớn đổ gục. Suốt một ngày và một đêm, nó ở lại đó bên con mồi nó đã giết được, ăn thịt nai rồi ngủ, quanh đi quẩn lại tại chỗ. Thế rồi, sau khi đã được nghỉ ngơi, tỉnh táo khoan khoái và sung sức, nó quay đầu trở về khu trại với Giôn Thoóctơn. Nó sải chân, nhảy những bước dài nhịp nhàng thoải mái, cứ thế chạy miết từ giờ này sang giờ khác, không bao giờ phải lúng túng tìm lối đi giữa tầng tầng lớp lớp rối rắm phức tạp của núi rừng, nhằm thẳng hướng về trại qua mọi miền đất lạ, xác định phương hướng với một sự tin chắc chính xác đáng để cho con người và chiếc kim nam châm của mình phải lấy làm hổ thẹn.
Càng đi tới, Bấc mỗi lúc một nhận thấy rõ hơn sự xáo động mới lạ trong miền này. Khắp nơi đang có một sự sống nào đó khác với sự sống đã từng có ở đây trong suốt mùa hè qua. Không còn chỉ là tin vào sự kiện đó qua một sự cảm thụ tinh tế và huyền bí nữa. Kìa lũ chim chóc đang bàn tán về điều đó, những chú sóc đang kháo nhau xôn xao và cả làn gió nhẹ nữa cũng đang thì thào mách bảo. Đã mấy lần Bấc dừng lại, hít những hơi dài giữa luồng không khí tươi mát buổi sáng, và đọc thấy một tín hiệu truyền đến khiến nó càng vọt tới gấp bước nhanh hơn. Trong lòng nó nặng trĩu một cảm giác là có một mối tai hoạ sắp xảy ra; và khi nó vượt qua đường phân nước cuối cùng rồi tụt xuống khoảng thung lũng dẫn về phia khu trại, nó tiến tới một cách thận trọng hơn.
Cách khu trại ba dặm, nó chợt thấy một lối mòn mới, khiến cho lông cổ nó cuộn lên như sóng và dựng ngược. Cái lối mòn ấy dẫn thẳng tới phía trại, tới phía Giôn Thoóctơn, Bấc hối hả chạy, vừa phóng nhanh vừa lén lút giấu mình, mọi dây thần kinh căng thẳng, cảnh giác chú ý đến vô vàn chi tiết đang thuật lại một câu chuyện - gần như đến lúc kết thúc. Giác quan của mũi nó tường thuật cho nó một bước đi qua của cái sự sống mới lạ mà nó đang bám đuổi theo sát gót. Nó để ý thấy sự im lặng đầy ý nghĩa của núi rừng. Cuộc sống của chim chóc đã vắng teo. Những chú sóc đã lẩn trốn đi đâu cả. Nó chỉ thấy có mỗi một chú - một chú sóc xám mượt mà, nằm bẹp gí dán mình vào một cành cây khô cũng màu xám, trông chú như là một phần của cành cây ấy, như một cái bướu gỗ nhô lên trên thân gỗ.
Trong khi Bấc lướt tới âm thầm như một cái bóng mũi nó bỗng nhiên bị giật mạnh sang một bên như thể có một lực thực sự nào đó đã chộp lấy và kéo sang. Nó vội bám theo cái mùi mà nó vừa đánh hơi thấy, lần vào một bụi rậm và nhìn thấy Ních. Ních đã chết sau khi lết được vào đó, xác nằm nghiêng, một mũi tên xuyên qua thòi cả đầu và đoạn đuôi cắm lông chim ra hai bên mình nó.
Chạy thêm độ được khoảng một trăm mã, Bấc bắt gặp một trong những con chó kéo xe mà Thoóctơn đã mua ở Đoxân. Con chó này đang vật vã trong cơn giẫy chết ngay trên vệt đường mòn. Bấc chạy vòng qua bên nó không dừng lại. Từ phía khu trại vẳng đến tiếng lao xao của nhiều giọng người, khi trầm khi bổng trong một điệu hát đều đều ê a. Trườn lên phia trước đến rìa bãi trống, Bấc chợt thấy Hendơ nằm sấp mặt xuống đất, trên mình tua tủa những mũi tên trông như con chim. Ngay lập tức, Bấc đảo mắt về phía vốn có chiếc lán làm bằng cành bách, và thốt nhìn thấy một cảnh tượng khiến cho lông trên cổ và vai nó bật thẳng lên dựng đứng. Một cơn điên giận không thể nén nổi bùng lên trong đầu nó. Nó gầm lên một tiếng hung tợn và khủng khiếp, mà bản thân không hay biết là mình đã để bật ra tiếng gầm như vậy. Đây là lần cuối cùng trong đời nó Bấc đã để cho xúc cảm lấn lát mất khôn ranh và lý trí. Chính vì lòng thương yêu nồng cháy của nó đối với Giôn Thoóctơn nên nó không tự chủ nổi.
Bọn người da đỏ thuộc bộ tộc Yhét đang nhảy múa quanh đống đổ nát của chiếc làn làm bằng cành bách bỗng nghe một tiêng rống ghê rợn và nhìn thấy một con vật đâm bổ vào chúng, một loại thú vật chúng chưa từng nhìn thấy bao giờ. Đó là Bấc, một luồng bão tố giận dữ biểu hiện thành sự sống, lao mình vào chúng trong một cơn cuồng loạn chỉ quyết huỷ diệt. Nó nhảy xổ vào một tên mà nó thấy là nổi bật nhất (đó chính là thủ lĩnh của đám người Yhét), cắn rách toang cổ họng y cho đến khi máu ùng ục tuôn ra như suối từ mạch máu cổ bị xé nát. Bấc không dừng lại để tiếp tục nhay xé tên này, mà cứ vọt tới, vừa phóng qua vừa cắn xé, thêm một bước nữa là xé rạch toang họng thêm một tên thứ hai. Không có gì chống lại được nó. Nó cứ thế nhào lộn ngay giữa bọn chúng, cắn toạc, xé nát, huỷ diệt, chuyển động vùn vụt, khủng khiếp, bất chấp những mũi tên mà chúng bắt loạn xạ vào nó. Thực tế là vì những động tác của Bấc nhanh đến mức không thể lường được và vì bọn người da đỏ dồn đống lại túm tụm với nhau rối bời cả lên, nên những mũi tên chúng phóng ra đều bắn cả vào người nhau; và một ngọn giáo trong tay một gã trai trẻ nhắm phóng vào Bấc, trong khi Bấc đang lao giữa không trung lại cắm phập vào ngực một tên khác, mũi giáo đâm mạnh đến nỗi nó xuyên hẳn qua thòi ra sau lưng tên này. Thế là bọn người Yhét rú lên khiếp đảm, kinh hoàng tháo chạy vào rừng, vừa chạy vừa kêu ầm lên là Hung Thần hiện hình.
Và quả thực Bấc là quỷ dữ hiện thân, điên giận bám sát gót chúng và quật ngã chúng như quật ngã hươu nai trong khi chúng chạy bán sống bán chết qua giữa rừng cây. Thật là một ngày thảm khốc đối với bọn người Yhét. Chúng bỏ chạy tan tác ra khắp nơi trong miền, mãi đến một tuần sau bọn sống sót mới tập hợp lại được trong một thung lũng thấp hơn và điểm xem ai còn ai mất. Còn Bấc, sau khi truy đuổi đến chán chê mệt mỏi, nó quay trở về khu trại tiêu điều hoang vắng. Nó tìm thấy xác Piti bị giết ngay trong giây phút bất ngờ đầu tiên giữa lúc anh còn nằm trong chăn. Dấu vết của cuộc vật lộn tuyệt vọng của Thoóctơn còn in rành rành trên mặt đất, và Bấc đánh hơi theo từng chi tiết của cuộc vật lộn ấy cho đến tận mép một cái nơ sâu. Ven bờ ao là xác của Xkít, đầu và hai chân trước chúi ngập trong nước trung thành với chủ cho đến phút cuối cùng. Chính trong cái ao này đây, làn nước lầy bùn và vẩn đục vì đất gột ra từ các máng đãi vàng chắc chắn đang che kín cái mà nó chứa đựng, và chính nó đang chứa đựng Giôn Thoóctơn không sai. Bởi vì Bấc đánh hơi theo vết của anh đến tận mặt nước này, và đến đây là hết, không còn một dấu vết nào từ đây đi chỗ khác nữa.
Suốt ngày Bấc ủ ê thẫn thờ bên bờ ao hoặc bồn chồn đi lang thang quanh quẩn giữa khu trại. Cái chết, một sự ngừng cử động, một sự mất đi khỏi cuộc sống của vật đang sống, Bấc biết như vậy, và Bấc biết là Giôn Thoóctơn đã chết. Cái chết đó để lại một nỗi trống trải lớn trong lòng nó, phần nào giống như cơn đói, nhưng là một nỗi trống trải gây đau đớn, đau đớn mãi, mà thức ăn nuốt vào bao nhiêu cũng không lấp kín được. Đôi lúc, khi nó đứng lại lặng ngắm những xác chết của bọn người Yhét, nó quên được nỗi đau đớn đi; những lúc ấy nó cảm thấy một niềm tự hảo lớn về bản thân mình - lớn hơn bất kỳ niềm tự hào nào mà nó đã từng cảm thấy. Xưa nay, nó đã giết chết con người, loại con thịt cao quý hơn tất cả, và nó đã giết được mặc dầu có luật của dùi cui và răng nanh. Nó tò mò hít hít các xác chết. Chúng chết sao mà dễ dàng thế! Giết một con chó étkimô còn khó hơn giết chúng. Chúng chẳng xứng là đối thủ của Bấc tí nào cả, nếu không có những mũi tên ngọn giáo, dùi cui của chúng. Từ nay trở đi nó sẽ không sợ gì chúng nữa, trừ khi chúng cầm trong tay những mũi tên, những ngọn giáo, những dùi cui.
Màn đêm buông xuống, một mặt trăng tròn vành vạch nhô cao vượt khỏi vòm cây lên giữa bầu trời, ánh trăng trải dần xuống cho đến khi mặt đất chan hoà một ánh bạc ma quái. Cùng với bóng đêm vừa đến, trong khi quanh quẩn thẫn thờ đau buồn cạnh bờ ao, Bấc bỗng nhận thấy một thứ xáo động khác của sự sống mới lạ trong rừng, khác với sự xáo động của bọn người Yhét. Nó đứng dậy, lắng nghe và đánh hơi. Từ xa văng vẳng vọng lại một tiếng kêu lanh lảnh, rồi một loạt tiếng kêu cũng lanh lảnh như vậy đồng thanh nối theo. Trong giây lát, những tiếng kêu đó dần dần gần lại và to lên. Một lần nữa, Bấc lại nhận ra ngay, đó là những tiếng mà Bấc đã từng nghe trong cái thế giới trước kia, cái thế giới vẫn còn dai dẳng bám riết lấy ký ức của nó. Nó bước ra chính giữa bãi trống và lại lắng tai nghe. Đúng rồi, chính là cái tiếng gọi ấy, cái tiếng gọi có nhiều âm tiết đang vang lên với một sức quyến rũ và bức bách mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Và cũng hơn bao giờ hết, Bấc sẵn sàng tuân theo tiếng gọi, Giôn Thoóctơn đã chết rồi. Mối dây ràng buộc cuối cùng đã đứt. Con người và những đòi hỏi của con người không còn giữa nó lại được nữa.
Trên đường săn đuổi món mồi sống, cùng trong lúc bọn người Yhét cũng đang săn đuổi món mồi thịt ấy bầy sói bám theo bên sườn đàn nai di trú, cuối cùng đã từ vùng đất có nhiều cây to và nhiều khe suối kéo sang rồi tràn vào thung lũng của Bấc. Như một dòng nước lũ màu ánh bạc, chúng đổ vào bãi trống chan hoà ánh trăng. Chính giữa bãi trống, Bấc đứng yên lặng như một pho tượng, chờ chúng đến. Chúng kính sợ, bởi Bấc đứng đấy trông sừng sững im lặng quá, to lớn quá. Một giây lát ngập ngừng chững lại, cho đến khi một con táo tợn nhất trong lũ sói chồm thẳng vào Bấc. Nhanh như chớp Bấc đón đánh, cắn gẫy cổ đối thủ. Rồi nó lại đứng yên như cũ, không mảy may cử động, con sói bị hạ lăn lộn giẫy chết đằng sau nó. Ba con sói khác liên tiếp dồn dập cố xông vào; nhưng con này tiếp con khác lại phải lùi ra, máu tuôn xối xả từ những vết toạc ở họng hoặc ở vai chúng.
Thế là đủ để kích động cả bầy sói ồ ạt lao tới, hỗn loạn, dồn đống lại, lộn xộn ngáng trở nhau vì cả bầy đều hăm hở muốn hạ con mồi. Sự nhanh nhẹn và lạ lùng kỳ diệu của Bấc thật là lợi hại cho Bấc lúc này. Trụ vào hai chân sau, liên tục táp, liên tục xé, nó đối phó với khắp mọi phía cùng một lúc, dàn ra một thế trận rõ ràng là không bị phá vỡ, bởi nó quay lộn và phóng giữ hết bên này sang bên nọ nhanh như chớp. Nhưng để ngăn không cho chúng đến phía sau nó, nó buộc phải lùi dần, xuống quá bờ ao rồi vào lòng một con suối, cho đến khi đứng lại sát một vách sỏi cao. Nó men vách sỏi dịch đến một cái góc vuông do những người trong đoàn của Thoóctơn đào ra trong lúc tìm vàng và trong cái góc ấy nó bám trụ lại để chống giữ, ba phía đều được che đỡ, chỉ còn phải đương đầu với phía trước.
Và nó đã đương đầu giỏi đến nỗi chỉ sau nửa tiếng đồng hồ, lũ sói phải chịu thua lùi lại. Những cái lưỡi thè dài, những chiếc nanh nhe ra trắng nhởn đầy vẻ hung ác dưới ánh trăng. Một số con nằm xuống, ngẩng đầu, tai vểnh về phía trước; một số con khác đứng thẳng quan sát Bấc; lại có những con xuống tớp nước uống ở dưới ao. Bỗng một con sói thân dài, gầy guộc lông xám, thận trọng tiếng lên với một dáng bộ thân thiện, và Bấc nhận ra kẻ anh em nơi hoang dã đã cùng chạy sóng đôi với Bấc suốt một đêm và một ngày hôm nọ. Hắn khe khẽ kêu ư ử, và khi Bấc cũng ư ử đáp lại, chúng hít mũi nhau.
Rồi một con sói già, có vẻ dữ tợn và đầy vết sẹo chiến đấu, bước tới. Bấc nhếch mép chuẩn bị lên tiếng gầm gừ, nhưng lại thôi, và hít mũi với gã. Thế là gã sói già ngồi xuống, ngếch mõm lên vừng trăng, cất cao tiếng hú dài của loài sói. Những con sói khác cũng ngồi xuống và hú theo. Bây giờ thì tiếng gọi đến với Bấc đã rõ ràng, với những âm sắc không thể nào nhầm lẫn được Bấc cũng như chúng, ngồi xuống và cất tiếng hú. Dứt tiếng, Bấc bước ra khỏi cái góc của mình. Bầy sói xúm lại quanh nó, hít hít nó với thái độ nửa thân thiện, nửa dữ tợn. Rồi những con đầu bầy cất cho tiếng gọi bầy, và bật dậy, phóng vào rừng. Cả bầy sói đồng thanh kêu lên, cất bước nhịp nhàng nối theo sau. Và Bấc chạy theo chúng, sóng đôi bên con sói hoang anh em, vừa chạy vừa cất tiếng kêu theo.
Đến đây, câu chuyện về Bấc đáng ra có thể kết thúc. Năm tháng trôi qua chưa nhiều lắm thì bỗng những người Yhét nhận ra một sự đổi thay ở loài soi xám trong rừng cho thấy một số con có những đốm nâu trên đầu và mõm, có một vệt lông trắng chạy dọc xuống giữa ức. Nhưng có một điều còn đáng chú ý hơn, là những người Yhét kháo nhau về một con Chó Thần luôn chạy dẫn đầu bầy sói. Họ kinh sợ con Chó Thần này, vì nó khôn ranh hơn họ, ăn trộm các thứ ở các lán trại của họ trong những mùa đông khắc nghiệt, đánh cắp những đồ dùng của họ, giết chết chó của họ, và coi thường cả những người thợ săn dũng cảm nhất của họ.
Chưa hết, câu chuyện còn diễn biến xấu hơn. Thợ săn có kẻ ra đi rồi không trở về trại nữa, mà thợ săn cũng đã có kẻ mà bà con trong bộ lạc tìm thấy xác giữa rừng, họng bị xé rách toang một cách thảm khốc, và trên mặt tuyết xung quanh các xác chết còn hằn những vết chân sói to hơn bất kỳ vết chân sói nào mà họ đã từng thấy. Mỗi độ thu về, khi những người Yhét bám theo bước chân di trú của đàn nai, thì có cái thung lũng nọ là họ không bao giờ dám bén mảng tới. Và đàn bà có kẻ đã mặt ủ mày châu khi quanh bếp lửa người ca truyền miệng về sự thể làm sao mà Hung Thần đã chọn cái thung lũng kia làm nơi trú ngụ.
Tuy nhiên, vào những ngày hè, vẫn có một kẻ đến thăm cái thung lũng ấy người Yhét không hay biết. Đó là một gã sói to lớn, khoác bộ áo lông đẹp lộng lẫy trông gã giống mà lại cũng không giống tất cả những con sói khác. Gã đi một mình, từ vùng đất tươi đẹp có nhiều cây to sang đây, rồi chạy xuống một cái bãi trống giữa rừng. Nơi đây có một dòng suối màu vàng chảy ra từ những chiếc túi da nai đã mục nát rồi biến hút vào lòng đất, cỏ dài mọc đan qua và rêu xanh lan đầy che kín màu vàng của nó khuất dưới ánh mặt trời, và nơi đây gã trầm ngâm đứng lặng hồi lâu, rồi rú lên một tiếng hú dài và thảm thiết, trước khi gã ra đi.
Nhưng không phải bao giờ gã cũng đi một mình. Khi những đêm đông dài kéo về và lũ sói bám theo mồi thịt xuống những thung lũng thấp, người ta có thể nhìn thấy gã chạy dẫn đầu bầy dưới ánh trăng nhợt nhạt hoặc trong ánh bắc cực quáng mờ ảo, nhảy những bước dài phi thường vượt hẳn bạn cùng bầy từ cổ họng to lớn của gã phát ra âm thanh vang dội khi gã hát lên một bài ca của thế giới hoang sơ, bài ca của bầy sói.
➖➖➖
Chapter VII.
The Sounding of the Call
When Buck earned sixteen hundred dollars in five minutes for John Thornton, he made it possible for his master to pay off certain debts and to journey with his partners into the East after a fabled lost mine, the history of which was as old as the history of the country. Many men had sought it; few had found it; and more than a few there were who had never returned from the quest. This lost mine was steeped in tragedy and shrouded in mystery. No one knew of the first man. The oldest tradition stopped before it got back to him. From the beginning there had been an ancient and ramshackle cabin. Dying men had sworn to it, and to the mine the site of which it marked, clinching their testimony with nuggets that were unlike any known grade of gold in the Northland.
But no living man had looted this treasure house, and the dead were dead; wherefore John Thornton and Pete and Hans, with Buck and half a dozen other dogs, faced into the East on an unknown trail to achieve where men and dogs as good as themselves had failed. They sledded seventy miles up the Yukon, swung to the left into the Stewart River, passed the Mayo and the McQuestion, and held on until the Stewart itself became a streamlet, threading the upstanding peaks which marked the backbone of the continent.
John Thornton asked little of man or nature. He was unafraid of the wild. With a handful of salt and a rifle he could plunge into the wilderness and fare wherever he pleased and as long as he pleased. Being in no haste, Indian fashion, he hunted his dinner in the course of the day’s travel; and if he failed to find it, like the Indian, he kept on travelling, secure in the knowledge that sooner or later he would come to it. So, on this great journey into the East, straight meat was the bill of fare, ammunition and tools principally made up the load on the sled, and the time-card was drawn upon the limitless future.
To Buck it was boundless delight, this hunting, fishing, and indefinite wandering through strange places. For weeks at a time they would hold on steadily, day after day; and for weeks upon end they would camp, here and there, the dogs loafing and the men burning holes through frozen muck and gravel and washing countless pans of dirt by the heat of the fire. Sometimes they went hungry, sometimes they feasted riotously, all according to the abundance of game and the fortune of hunting. Summer arrived, and dogs and men packed on their backs, rafted across blue mountain lakes, and descended or ascended unknown rivers in slender boats whipsawed from the standing forest.
The months came and went, and back and forth they twisted through the uncharted vastness, where no men were and yet where men had been if the Lost Cabin were true. They went across divides in summer blizzards, shivered under the midnight sun on naked mountains between the timber line and the eternal snows, dropped into summer valleys amid swarming gnats and flies, and in the shadows of glaciers picked strawberries and flowers as ripe and fair as any the Southland could boast. In the fall of the year they penetrated a weird lake country, sad and silent, where wildfowl had been, but where then there was no life nor sign of life—only the blowing of chill winds, the forming of ice in sheltered places, and the melancholy rippling of waves on lonely beaches.
And through another winter they wandered on the obliterated trails of men who had gone before. Once, they came upon a path blazed through the forest, an ancient path, and the Lost Cabin seemed very near. But the path began nowhere and ended nowhere, and it remained mystery, as the man who made it and the reason he made it remained mystery. Another time they chanced upon the time-graven wreckage of a hunting lodge, and amid the shreds of rotted blankets John Thornton found a long-barrelled flint-lock. He knew it for a Hudson Bay Company gun of the young days in the Northwest, when such a gun was worth its height in beaver skins packed flat, And that was all—no hint as to the man who in an early day had reared the lodge and left the gun among the blankets.
Spring came on once more, and at the end of all their wandering they found, not the Lost Cabin, but a shallow placer in a broad valley where the gold showed like yellow butter across the bottom of the washing-pan. They sought no farther. Each day they worked earned them thousands of dollars in clean dust and nuggets, and they worked every day. The gold was sacked in moose-hide bags, fifty pounds to the bag, and piled like so much firewood outside the spruce-bough lodge. Like giants they toiled, days flashing on the heels of days like dreams as they heaped the treasure up.
There was nothing for the dogs to do, save the hauling in of meat now and again that Thornton killed, and Buck spent long hours musing by the fire. The vision of the short-legged hairy man came to him more frequently, now that there was little work to be done; and often, blinking by the fire, Buck wandered with him in that other world which he remembered.
The salient thing of this other world seemed fear. When he watched the hairy man sleeping by the fire, head between his knees and hands clasped above, Buck saw that he slept restlessly, with many starts and awakenings, at which times he would peer fearfully into the darkness and fling more wood upon the fire. Did they walk by the beach of a sea, where the hairy man gathered shellfish and ate them as he gathered, it was with eyes that roved everywhere for hidden danger and with legs prepared to run like the wind at its first appearance. Through the forest they crept noiselessly, Buck at the hairy man’s heels; and they were alert and vigilant, the pair of them, ears twitching and moving and nostrils quivering, for the man heard and smelled as keenly as Buck. The hairy man could spring up into the trees and travel ahead as fast as on the ground, swinging by the arms from limb to limb, sometimes a dozen feet apart, letting go and catching, never falling, never missing his grip. In fact, he seemed as much at home among the trees as on the ground; and Buck had memories of nights of vigil spent beneath trees wherein the hairy man roosted, holding on tightly as he slept.
And closely akin to the visions of the hairy man was the call still sounding in the depths of the forest. It filled him with a great unrest and strange desires. It caused him to feel a vague, sweet gladness, and he was aware of wild yearnings and stirrings for he knew not what. Sometimes he pursued the call into the forest, looking for it as though it were a tangible thing, barking softly or defiantly, as the mood might dictate. He would thrust his nose into the cool wood moss, or into the black soil where long grasses grew, and snort with joy at the fat earth smells; or he would crouch for hours, as if in concealment, behind fungus-covered trunks of fallen trees, wide-eyed and wide-eared to all that moved and sounded about him. It might be, lying thus, that he hoped to surprise this call he could not understand. But he did not know why he did these various things. He was impelled to do them, and did not reason about them at all.
Irresistible impulses seized him. He would be lying in camp, dozing lazily in the heat of the day, when suddenly his head would lift and his ears cock up, intent and listening, and he would spring to his feet and dash away, and on and on, for hours, through the forest aisles and across the open spaces where the niggerheads bunched. He loved to run down dry watercourses, and to creep and spy upon the bird life in the woods. For a day at a time he would lie in the underbrush where he could watch the partridges drumming and strutting up and down. But especially he loved to run in the dim twilight of the summer midnights, listening to the subdued and sleepy murmurs of the forest, reading signs and sounds as man may read a book, and seeking for the mysterious something that called—called, waking or sleeping, at all times, for him to come.
One night he sprang from sleep with a start, eager-eyed, nostrils quivering and scenting, his mane bristling in recurrent waves. From the forest came the call (or one note of it, for the call was many noted), distinct and definite as never before,—a long-drawn howl, like, yet unlike, any noise made by husky dog. And he knew it, in the old familiar way, as a sound heard before. He sprang through the sleeping camp and in swift silence dashed through the woods. As he drew closer to the cry he went more slowly, with caution in every movement, till he came to an open place among the trees, and looking out saw, erect on haunches, with nose pointed to the sky, a long, lean, timber wolf.
He had made no noise, yet it ceased from its howling and tried to sense his presence. Buck stalked into the open, half crouching, body gathered compactly together, tail straight and stiff, feet falling with unwonted care. Every movement advertised commingled threatening and overture of friendliness. It was the menacing truce that marks the meeting of wild beasts that prey. But the wolf fled at sight of him. He followed, with wild leapings, in a frenzy to overtake. He ran him into a blind channel, in the bed of the creek where a timber jam barred the way. The wolf whirled about, pivoting on his hind legs after the fashion of Joe and of all cornered husky dogs, snarling and bristling, clipping his teeth together in a continuous and rapid succession of snaps.
Buck did not attack, but circled him about and hedged him in with friendly advances. The wolf was suspicious and afraid; for Buck made three of him in weight, while his head barely reached Buck’s shoulder. Watching his chance, he darted away, and the chase was resumed. Time and again he was cornered, and the thing repeated, though he was in poor condition, or Buck could not so easily have overtaken him. He would run till Buck’s head was even with his flank, when he would whirl around at bay, only to dash away again at the first opportunity.
But in the end Buck’s pertinacity was rewarded; for the wolf, finding that no harm was intended, finally sniffed noses with him. Then they became friendly, and played about in the nervous, half-coy way with which fierce beasts belie their fierceness. After some time of this the wolf started off at an easy lope in a manner that plainly showed he was going somewhere. He made it clear to Buck that he was to come, and they ran side by side through the sombre twilight, straight up the creek bed, into the gorge from which it issued, and across the bleak divide where it took its rise.
On the opposite slope of the watershed they came down into a level country where were great stretches of forest and many streams, and through these great stretches they ran steadily, hour after hour, the sun rising higher and the day growing warmer. Buck was wildly glad. He knew he was at last answering the call, running by the side of his wood brother toward the place from where the call surely came. Old memories were coming upon him fast, and he was stirring to them as of old he stirred to the realities of which they were the shadows. He had done this thing before, somewhere in that other and dimly remembered world, and he was doing it again, now, running free in the open, the unpacked earth underfoot, the wide sky overhead.
They stopped by a running stream to drink, and, stopping, Buck remembered John Thornton. He sat down. The wolf started on toward the place from where the call surely came, then returned to him, sniffing noses and making actions as though to encourage him. But Buck turned about and started slowly on the back track. For the better part of an hour the wild brother ran by his side, whining softly. Then he sat down, pointed his nose upward, and howled. It was a mournful howl, and as Buck held steadily on his way he heard it grow faint and fainter until it was lost in the distance.
John Thornton was eating dinner when Buck dashed into camp and sprang upon him in a frenzy of affection, overturning him, scrambling upon him, licking his face, biting his hand—“playing the general tom-fool,” as John Thornton characterized it, the while he shook Buck back and forth and cursed him lovingly.
For two days and nights Buck never left camp, never let Thornton out of his sight. He followed him about at his work, watched him while he ate, saw him into his blankets at night and out of them in the morning. But after two days the call in the forest began to sound more imperiously than ever. Buck’s restlessness came back on him, and he was haunted by recollections of the wild brother, and of the smiling land beyond the divide and the run side by side through the wide forest stretches. Once again he took to wandering in the woods, but the wild brother came no more; and though he listened through long vigils, the mournful howl was never raised.
He began to sleep out at night, staying away from camp for days at a time; and once he crossed the divide at the head of the creek and went down into the land of timber and streams. There he wandered for a week, seeking vainly for fresh sign of the wild brother, killing his meat as he travelled and travelling with the long, easy lope that seems never to tire. He fished for salmon in a broad stream that emptied somewhere into the sea, and by this stream he killed a large black bear, blinded by the mosquitoes while likewise fishing, and raging through the forest helpless and terrible. Even so, it was a hard fight, and it aroused the last latent remnants of Buck’s ferocity. And two days later, when he returned to his kill and found a dozen wolverenes quarrelling over the spoil, he scattered them like chaff; and those that fled left two behind who would quarrel no more.
The blood-longing became stronger than ever before. He was a killer, a thing that preyed, living on the things that lived, unaided, alone, by virtue of his own strength and prowess, surviving triumphantly in a hostile environment where only the strong survived. Because of all this he became possessed of a great pride in himself, which communicated itself like a contagion to his physical being. It advertised itself in all his movements, was apparent in the play of every muscle, spoke plainly as speech in the way he carried himself, and made his glorious furry coat if anything more glorious. But for the stray brown on his muzzle and above his eyes, and for the splash of white hair that ran midmost down his chest, he might well have been mistaken for a gigantic wolf, larger than the largest of the breed. From his St. Bernard father he had inherited size and weight, but it was his shepherd mother who had given shape to that size and weight. His muzzle was the long wolf muzzle, save that it was larger than the muzzle of any wolf; and his head, somewhat broader, was the wolf head on a massive scale.
His cunning was wolf cunning, and wild cunning; his intelligence, shepherd intelligence and St. Bernard intelligence; and all this, plus an experience gained in the fiercest of schools, made him as formidable a creature as any that roamed the wild. A carnivorous animal living on a straight meat diet, he was in full flower, at the high tide of his life, overspilling with vigor and virility. When Thornton passed a caressing hand along his back, a snapping and crackling followed the hand, each hair discharging its pent magnetism at the contact. Every part, brain and body, nerve tissue and fibre, was keyed to the most exquisite pitch; and between all the parts there was a perfect equilibrium or adjustment. To sights and sounds and events which required action, he responded with lightning-like rapidity. Quickly as a husky dog could leap to defend from attack or to attack, he could leap twice as quickly. He saw the movement, or heard sound, and responded in less time than another dog required to compass the mere seeing or hearing. He perceived and determined and responded in the same instant. In point of fact the three actions of perceiving, determining, and responding were sequential; but so infinitesimal were the intervals of time between them that they appeared simultaneous. His muscles were surcharged with vitality, and snapped into play sharply, like steel springs. Life streamed through him in splendid flood, glad and rampant, until it seemed that it would burst him asunder in sheer ecstasy and pour forth generously over the world.
“Never was there such a dog,” said John Thornton one day, as the partners watched Buck marching out of camp.
“When he was made, the mould was broke,” said Pete.
“Py jingo! I t’ink so mineself,” Hans affirmed.
They saw him marching out of camp, but they did not see the instant and terrible transformation which took place as soon as he was within the secrecy of the forest. He no longer marched. At once he became a thing of the wild, stealing along softly, cat-footed, a passing shadow that appeared and disappeared among the shadows. He knew how to take advantage of every cover, to crawl on his belly like a snake, and like a snake to leap and strike. He could take a ptarmigan from its nest, kill a rabbit as it slept, and snap in mid air the little chipmunks fleeing a second too late for the trees. Fish, in open pools, were not too quick for him; nor were beaver, mending their dams, too wary. He killed to eat, not from wantonness; but he preferred to eat what he killed himself. So a lurking humor ran through his deeds, and it was his delight to steal upon the squirrels, and, when he all but had them, to let them go, chattering in mortal fear to the treetops.
As the fall of the year came on, the moose appeared in greater abundance, moving slowly down to meet the winter in the lower and less rigorous valleys. Buck had already dragged down a stray part-grown calf; but he wished strongly for larger and more formidable quarry, and he came upon it one day on the divide at the head of the creek. A band of twenty moose had crossed over from the land of streams and timber, and chief among them was a great bull. He was in a savage temper, and, standing over six feet from the ground, was as formidable an antagonist as even Buck could desire. Back and forth the bull tossed his great palmated antlers, branching to fourteen points and embracing seven feet within the tips. His small eyes burned with a vicious and bitter light, while he roared with fury at sight of Buck.
From the bull’s side, just forward of the flank, protruded a feathered arrow-end, which accounted for his savageness. Guided by that instinct which came from the old hunting days of the primordial world, Buck proceeded to cut the bull out from the herd. It was no slight task. He would bark and dance about in front of the bull, just out of reach of the great antlers and of the terrible splay hoofs which could have stamped his life out with a single blow. Unable to turn his back on the fanged danger and go on, the bull would be driven into paroxysms of rage. At such moments he charged Buck, who retreated craftily, luring him on by a simulated inability to escape. But when he was thus separated from his fellows, two or three of the younger bulls would charge back upon Buck and enable the wounded bull to rejoin the herd.
There is a patience of the wild—dogged, tireless, persistent as life itself—that holds motionless for endless hours the spider in its web, the snake in its coils, the panther in its ambuscade; this patience belongs peculiarly to life when it hunts its living food; and it belonged to Buck as he clung to the flank of the herd, retarding its march, irritating the young bulls, worrying the cows with their half-grown calves, and driving the wounded bull mad with helpless rage. For half a day this continued. Buck multiplied himself, attacking from all sides, enveloping the herd in a whirlwind of menace, cutting out his victim as fast as it could rejoin its mates, wearing out the patience of creatures preyed upon, which is a lesser patience than that of creatures preying.
As the day wore along and the sun dropped to its bed in the northwest (the darkness had come back and the fall nights were six hours long), the young bulls retraced their steps more and more reluctantly to the aid of their beset leader. The down-coming winter was harrying them on to the lower levels, and it seemed they could never shake off this tireless creature that held them back. Besides, it was not the life of the herd, or of the young bulls, that was threatened. The life of only one member was demanded, which was a remoter interest than their lives, and in the end they were content to pay the toll.
As twilight fell the old bull stood with lowered head, watching his mates—the cows he had known, the calves he had fathered, the bulls he had mastered—as they shambled on at a rapid pace through the fading light. He could not follow, for before his nose leaped the merciless fanged terror that would not let him go. Three hundredweight more than half a ton he weighed; he had lived a long, strong life, full of fight and struggle, and at the end he faced death at the teeth of a creature whose head did not reach beyond his great knuckled knees.
From then on, night and day, Buck never left his prey, never gave it a moment’s rest, never permitted it to browse the leaves of trees or the shoots of young birch and willow. Nor did he give the wounded bull opportunity to slake his burning thirst in the slender trickling streams they crossed. Often, in desperation, he burst into long stretches of flight. At such times Buck did not attempt to stay him, but loped easily at his heels, satisfied with the way the game was played, lying down when the moose stood still, attacking him fiercely when he strove to eat or drink.
The great head drooped more and more under its tree of horns, and the shambling trot grew weak and weaker. He took to standing for long periods, with nose to the ground and dejected ears dropped limply; and Buck found more time in which to get water for himself and in which to rest. At such moments, panting with red lolling tongue and with eyes fixed upon the big bull, it appeared to Buck that a change was coming over the face of things. He could feel a new stir in the land. As the moose were coming into the land, other kinds of life were coming in. Forest and stream and air seemed palpitant with their presence. The news of it was borne in upon him, not by sight, or sound, or smell, but by some other and subtler sense. He heard nothing, saw nothing, yet knew that the land was somehow different; that through it strange things were afoot and ranging; and he resolved to investigate after he had finished the business in hand.
At last, at the end of the fourth day, he pulled the great moose down. For a day and a night he remained by the kill, eating and sleeping, turn and turn about. Then, rested, refreshed and strong, he turned his face toward camp and John Thornton. He broke into the long easy lope, and went on, hour after hour, never at loss for the tangled way, heading straight home through strange country with a certitude of direction that put man and his magnetic needle to shame.
As he held on he became more and more conscious of the new stir in the land. There was life abroad in it different from the life which had been there throughout the summer. No longer was this fact borne in upon him in some subtle, mysterious way. The birds talked of it, the squirrels chattered about it, the very breeze whispered of it. Several times he stopped and drew in the fresh morning air in great sniffs, reading a message which made him leap on with greater speed. He was oppressed with a sense of calamity happening, if it were not calamity already happened; and as he crossed the last watershed and dropped down into the valley toward camp, he proceeded with greater caution.
Three miles away he came upon a fresh trail that sent his neck hair rippling and bristling, It led straight toward camp and John Thornton. Buck hurried on, swiftly and stealthily, every nerve straining and tense, alert to the multitudinous details which told a story—all but the end. His nose gave him a varying description of the passage of the life on the heels of which he was travelling. He remarked the pregnant silence of the forest. The bird life had flitted. The squirrels were in hiding. One only he saw,—a sleek gray fellow, flattened against a gray dead limb so that he seemed a part of it, a woody excrescence upon the wood itself.
As Buck slid along with the obscureness of a gliding shadow, his nose was jerked suddenly to the side as though a positive force had gripped and pulled it. He followed the new scent into a thicket and found Nig. He was lying on his side, dead where he had dragged himself, an arrow protruding, head and feathers, from either side of his body.
A hundred yards farther on, Buck came upon one of the sled-dogs Thornton had bought in Dawson. This dog was thrashing about in a death-struggle, directly on the trail, and Buck passed around him without stopping. From the camp came the faint sound of many voices, rising and falling in a sing-song chant. Bellying forward to the edge of the clearing, he found Hans, lying on his face, feathered with arrows like a porcupine. At the same instant Buck peered out where the spruce-bough lodge had been and saw what made his hair leap straight up on his neck and shoulders. A gust of overpowering rage swept over him. He did not know that he growled, but he growled aloud with a terrible ferocity. For the last time in his life he allowed passion to usurp cunning and reason, and it was because of his great love for John Thornton that he lost his head.
The Yeehats were dancing about the wreckage of the spruce-bough lodge when they heard a fearful roaring and saw rushing upon them an animal the like of which they had never seen before. It was Buck, a live hurricane of fury, hurling himself upon them in a frenzy to destroy. He sprang at the foremost man (it was the chief of the Yeehats), ripping the throat wide open till the rent jugular spouted a fountain of blood. He did not pause to worry the victim, but ripped in passing, with the next bound tearing wide the throat of a second man. There was no withstanding him. He plunged about in their very midst, tearing, rending, destroying, in constant and terrific motion which defied the arrows they discharged at him. In fact, so inconceivably rapid were his movements, and so closely were the Indians tangled together, that they shot one another with the arrows; and one young hunter, hurling a spear at Buck in mid air, drove it through the chest of another hunter with such force that the point broke through the skin of the back and stood out beyond. Then a panic seized the Yeehats, and they fled in terror to the woods, proclaiming as they fled the advent of the Evil Spirit.
And truly Buck was the Fiend incarnate, raging at their heels and dragging them down like deer as they raced through the trees. It was a fateful day for the Yeehats. They scattered far and wide over the country, and it was not till a week later that the last of the survivors gathered together in a lower valley and counted their losses. As for Buck, wearying of the pursuit, he returned to the desolated camp. He found Pete where he had been killed in his blankets in the first moment of surprise. Thornton’s desperate struggle was fresh-written on the earth, and Buck scented every detail of it down to the edge of a deep pool. By the edge, head and fore feet in the water, lay Skeet, faithful to the last. The pool itself, muddy and discolored from the sluice boxes, effectually hid what it contained, and it contained John Thornton; for Buck followed his trace into the water, from which no trace led away.
All day Buck brooded by the pool or roamed restlessly about the camp. Death, as a cessation of movement, as a passing out and away from the lives of the living, he knew, and he knew John Thornton was dead. It left a great void in him, somewhat akin to hunger, but a void which ached and ached, and which food could not fill, At times, when he paused to contemplate the carcasses of the Yeehats, he forgot the pain of it; and at such times he was aware of a great pride in himself,—a pride greater than any he had yet experienced. He had killed man, the noblest game of all, and he had killed in the face of the law of club and fang. He sniffed the bodies curiously. They had died so easily. It was harder to kill a husky dog than them. They were no match at all, were it not for their arrows and spears and clubs. Thenceforward he would be unafraid of them except when they bore in their hands their arrows, spears, and clubs.
Night came on, and a full moon rose high over the trees into the sky, lighting the land till it lay bathed in ghostly day. And with the coming of the night, brooding and mourning by the pool, Buck became alive to a stirring of the new life in the forest other than that which the Yeehats had made, He stood up, listening and scenting. From far away drifted a faint, sharp yelp, followed by a chorus of similar sharp yelps. As the moments passed the yelps grew closer and louder. Again Buck knew them as things heard in that other world which persisted in his memory. He walked to the centre of the open space and listened. It was the call, the many-noted call, sounding more luringly and compellingly than ever before. And as never before, he was ready to obey. John Thornton was dead. The last tie was broken. Man and the claims of man no longer bound him.
Hunting their living meat, as the Yeehats were hunting it, on the flanks of the migrating moose, the wolf pack had at last crossed over from the land of streams and timber and invaded Buck’s valley. Into the clearing where the moonlight streamed, they poured in a silvery flood; and in the centre of the clearing stood Buck, motionless as a statue, waiting their coming. They were awed, so still and large he stood, and a moment’s pause fell, till the boldest one leaped straight for him. Like a flash Buck struck, breaking the neck. Then he stood, without movement, as before, the stricken wolf rolling in agony behind him. Three others tried it in sharp succession; and one after the other they drew back, streaming blood from slashed throats or shoulders.
This was sufficient to fling the whole pack forward, pell-mell, crowded together, blocked and confused by its eagerness to pull down the prey. Buck’s marvellous quickness and agility stood him in good stead. Pivoting on his hind legs, and snapping and gashing, he was everywhere at once, presenting a front which was apparently unbroken so swiftly did he whirl and guard from side to side. But to prevent them from getting behind him, he was forced back, down past the pool and into the creek bed, till he brought up against a high gravel bank. He worked along to a right angle in the bank which the men had made in the course of mining, and in this angle he came to bay, protected on three sides and with nothing to do but face the front.
And so well did he face it, that at the end of half an hour the wolves drew back discomfited. The tongues of all were out and lolling, the white fangs showing cruelly white in the moonlight. Some were lying down with heads raised and ears pricked forward; others stood on their feet, watching him; and still others were lapping water from the pool. One wolf, long and lean and gray, advanced cautiously, in a friendly manner, and Buck recognized the wild brother with whom he had run for a night and a day. He was whining softly, and, as Buck whined, they touched noses.
Then an old wolf, gaunt and battle-scarred, came forward. Buck writhed his lips into the preliminary of a snarl, but sniffed noses with him, Whereupon the old wolf sat down, pointed nose at the moon, and broke out the long wolf howl. The others sat down and howled. And now the call came to Buck in unmistakable accents. He, too, sat down and howled. This over, he came out of his angle and the pack crowded around him, sniffing in half-friendly, half-savage manner. The leaders lifted the yelp of the pack and sprang away into the woods. The wolves swung in behind, yelping in chorus. And Buck ran with them, side by side with the wild brother, yelping as he ran.
And here may well end the story of Buck. The years were not many when the Yeehats noted a change in the breed of timber wolves; for some were seen with splashes of brown on head and muzzle, and with a rift of white centring down the chest. But more remarkable than this, the Yeehats tell of a Ghost Dog that runs at the head of the pack. They are afraid of this Ghost Dog, for it has cunning greater than they, stealing from their camps in fierce winters, robbing their traps, slaying their dogs, and defying their bravest hunters.
Nay, the tale grows worse. Hunters there are who fail to return to the camp, and hunters there have been whom their tribesmen found with throats slashed cruelly open and with wolf prints about them in the snow greater than the prints of any wolf. Each fall, when the Yeehats follow the movement of the moose, there is a certain valley which they never enter. And women there are who become sad when the word goes over the fire of how the Evil Spirit came to select that valley for an abiding-place.
In the summers there is one visitor, however, to that valley, of which the Yeehats do not know. It is a great, gloriously coated wolf, like, and yet unlike, all other wolves. He crosses alone from the smiling timber land and comes down into an open space among the trees. Here a yellow stream flows from rotted moose-hide sacks and sinks into the ground, with long grasses growing through it and vegetable mould overrunning it and hiding its yellow from the sun; and here he muses for a time, howling once, long and mournfully, ere he departs.
But he is not always alone. When the long winter nights come on and the wolves follow their meat into the lower valleys, he may be seen running at the head of the pack through the pale moonlight or glimmering borealis, leaping gigantic above his fellows, his great throat a-bellow as he sings a song of the younger world, which is the song of the pack.
➖➖➖