Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 117 đăng ngày 2022-01-08
***
Tiếng gọi nơi hoang dã (IV)
Tác giả: Jack London
Biên dịch: Nguyễn Công Ái và Vũ Tuấn Phương.
Tiếng Anh: “The Call of the Wild” được lấy từ dự án “The Project Gutenberg EBook”.


Chương IV.

Kẻ đã đạt tới quyền lực

- Ơ! Trông kìa! Tớ nói không sai, cái con Bấc rõ bằng hai con quỷ dữ chưa nào.

Đó là lời Phrăngxoa thốt lên sáng hôm sau, khi anh phát hiện là Xpít biến mất, còn Bấc thì mình đầy thương tích. Anh kéo Bấc đến gần ngọn lửa, và dưới ánh lửa, anh chỉ vào những vết cắn.

-Cái con Xpít ấy, hắn đánh thật khủng khiếp - Perôn vừa xem xét các vết toạc và vết thủng há hoác vừa nói.

-Còn cái con Bấc này, hắn đánh khủng khiếp gấp đôi - Phrăngxoa đáp - Thôi bây giờ thì ta sẽ đi được nhanh. Không còn Xpít nữa, là không còn rắc rối nữa, chắc chắn như thế.

Trong khi Perôn buộc lại món đồ lề đóng trại và chất các thứ lên xe, anh chàng lái xe tiến hành thắng đai cương vào lũ chó. Bấc lon ton chạy lên vị trí của Xpít trước đây, ở đầu đàn. Nhưng Phrăngxoa không để ý đến nó, lại đưa Xônlếch đến cương vị đang được khao khát đó. Theo anh, trong số chó còn lại, Xônlếch là con đầu đàn tốt nhất. Bấc giận dữ nhảy bổ vào Xônlếch đánh bật Xônlếch lại, và đứng vào chỗ ấy.

Phrăngxoa vỗ đùi thích thú reo lên:

-Ơ kìa! Ơ kìa! Trông con Bấc kìa! Hắn giết chết con Xpít rồi hắn tưởng là hắn thay được Xpít cơ đấy!

Anh thốt lên:

-Cút đi! Xéo!

Nhưng Bấc cứ ỳ ra đấy, không nhúc nhích.

Anh tóm lấy gáy Bấc, và mặc dù Bấc gầm gừ với giọng hăm doạ, anh lôi Bấc ra một bên và lại đặt Xônlếch vào chỗ ấy. Con chó già không muốn thế, và tỏ rõ ý là nó sợ Bấc. Phrăngxoa không hề lay chuyển, anh cứ làm theo ý anh, nhưng khi anh vừa quay lưng thì Bấc lại hất Xônlếch ra khỏi chỗ, còn Xônlếch thì cũng sẵn sàng bỏ đi chứ chả thiết tha chút nào.

Phrăngxoa nổi giận:

-Nào, đồ khốn! Bây giờ thì tao cho mày một trận - anh thét và trở lại với một chiếc dùi cui nặng trong tay.

Bấc vụt nhớ lại con người mặc áo nịt đỏ, nó từ từ bước giật lùi; nó cũng không còn tìm cách xông vào đánh Xônlếch khi lão này lại một lần nữa được lôi lên. Nhưng nó lượn vòng sát ngay ngoài tầm chiếc dùi cui, gầm gào quyết liệt và điên giận. Và trong khi lượn vòng, nó vẫn để mắt theo dõi chiếc dùi cui để tránh nếu Phrăngxoa ném vào nó bởi vì đối với cái khoản dùi cui này, Bấc đã lắm kinh nghiệm rồi.

Anh chàng đánh xe bắt tay vào việc của mình, và khi anh đã chuẩn bị sẵn sàng để đặt Bấc vào vị trí cũ của nó, phía trước Đêvơ, anh gọi Bấc. Bấc giật lùi hai, ba bước. Sau vài lần như vậy, Phrăngxoa vứt chiếc dùi cui xuống đất, vì anh tưởng rằng Bấc sợ bị đánh đòn. Nhưng không phải. Bấc tỏ thái độ chống đối rõ ràng. Không phải nó muốn tránh trận đòn dùi cui, mà nó muốn chiếm được cương vị đầu đàn. Cương vị ấy phải là của nó, nó có quyền xứng đáng được hưởng. Nó đã chiến đấu mà giành được, thì nó sẽ không thể nào vừa lòng với một địa vị thấp kém hơn.

Perôn cũng phải ra tay. Cả hai người đuổi Bấc chạy quanh trong gần một tiếng đồng hồ. Họ ném dùi cui vào nó. Nó né tránh. Họ chửi rủa nó, chửi cả cha ông đã sinh ra nó chửi rủa tất cả con cái chút chít mà nó sẽ sản sinh ra, chửi rủa mọi sợi lông trên mình nó, mọi giọt máu trong thân thể nó. Còn nó thì nó trả lời lại những câu chửi bằng những tiếng gầm gừ, và cứ giữ khoảng cách ngoài tầm tay hai người. Nó chả tìm cách bỏ chạy xa, mà chỉ lùi, hết quanh bên này lại quanh bên nọ xung quanh nơi đóng trại, hiển nhiên tỏ ý báo cho họ biết rằng khi nào điều mong muốn của nó được toại nguyện thì nó sẽ vào chỗ và sẽ ngoan ngoãn.

Phrăngxoa ngồi xuống vò đầu bứt tai. Perôn cứ nhìn đồng hồ rồi rủa. Thời gian bay qua nhanh, đáng lẽ họ đã lên đường được một tiếng rồi. Phrăngxoa lại vò đầu bứt tóc. Anh lắc đầu rồi quay sang nhăn nhở cười ngao ngán với anh chàng giao liên. Perôn nhún vai ý bảo họ bị thua nó rồi Phrăngxoa bèn đến chỗ Xônlếch đứng, rồi gọi Bấc. Thế là Bấc cười, cười theo kiểu của chó, nhưng vẫn đứng cách một khoảng. Phrăngxoa cởi các dây buộc Xônlếch ra rồi đưa Xônlếch trở về chỗ cũ. Đàn chó thẳng vào xe nối liền nhau thành một hàng không gián đoạn, sẵn sàng lên đường. Bây giờ thì không còn chỗ nào khác cho Bấc, ngoài chỗ đứng đầu đàn kia. Lần nữa Phrăngxoa lên tiếng gọi, và lần nữa Bấc lại cười nhưng cứ đứng xa.

-Vứt chiếc dùi cui đi! - Perôn ra lệnh.

Phrăngxoa làm theo. Thế là Bấc lon ton chạy vào, cười đắc thắng, và quay mình đứng vào chỗ đầu đàn chó. Đai cương được thắng mình nó, chiếc xe trượt phá vỡ lớp băng bám giữ ở càng, lướt tới, và với cả hai người cùng chạy bộ, tất cả lao nhanh về phía con đường trên mặt sông.

Dù trước đây anh chàng đánh xe chó đã đánh giá Bấc khá cao khi anh bảo là Bấc bằng hai con quỷ dữ nhưng đến bây giờ, khi ngày lao động hãy còn dài, trời còn sớm sủa, anh đã nhận thấy là mình hãy còn đánh giá thấp Bấc. Vụt một cái Bấc đảm nhiệm trôi chảy ngay công việc đầu đàn, và ở chỗ nào cần phải có sự phán xét, cần suy nghĩ nhanh, hành động nhanh, thì ở đấy Bấc đã tỏ ra xuất sắc hơn cả Xpít, mà trước kia thì Phrăngxoa chưa bao giờ gặp con chó nào sánh kịp Xpít cả.

Đặc biệt Bấc trội hẳn trong vấn đề bắt lũ bạn nghề phải theo ý mình và phải răm rắp vào khuôn phép. Đêvơ và Xônlếhc thì chả màng bận tâm gì đến sự thay đổi kẻ cầm đầu. Đó không phải là việc của chúng. Việc của chúng là lao động, và lao động cật lực, trong vòng đai cương. Chừng nào điều đó không bị ai quấy rầy, thì có xảy ra việc gì cũng mặc, chúng chả cần để ý tới. Ngay cả tên Bili lành như đất kia có lên làm chỉ huy thì chúng cũng chấp nhận thôi, chả việc quái gì phải thắc mắc, nếu như nó duy trì được trật tự. Nhưng còn những con chó khác trong đàn, thì trong những ngày cuối cùng của Xpít, chúng đã trở thành ngỗ ngược, và bây giờ chúng ngạc nhiên hết sức khi thấy Bấc lại ghép chúng vào kỷ luật.

Paicơ, ở vị trí kéo xe sát ngay sau Bấc, từ trước đến nay chỉ kéo lấy lệ vì bị bắt buộc, chứ chưa bao giờ chịu dấn thêm được một lạng nào của trọng lượng mình nó vào chiếc day da quàng ngang ức, ấy thế mà lần này liên tiếp bị hất lắc, nhắn nhở luôn vì cái tội lười nhác, nên trước khi ngày lao động đầu tiên kết thúc, nó đã chịu nai lưng ra kéo mạnh hơn bất kỳ lúc nào trước đây trong đời nó. Đêm đóng trại đầu tiên, Jô, con chó cáu bẳn, bị trừng trị đến nơi đến chốn - một điều mà trước kia Xpít không bao giờ làm nổi. Bấc đơn giản chỉ có dùng cái cái thể xác nặng cân hơn hẳn của mình mà để trùm lên kia, làm cho hắn ngột ngạt, rồi tới tấp thọc cắn cho đến khi hắn thôi không còn dám táp lại nữa và bắt đầu phải rên rỉ để xin tha.

Khí thế chung của đàn chó lập tức khá lên trông thấy. Nó đã trở lại với sự thống nhất trước kia, và một lần nữa, mọi con như một lại nhảy cùng một nhịp trong vòng dây kéo. Tại khu vực Thác Rinh, đàn được bổ sung thêm hai con chó étkimô địa phương Tích và Kuna. Bấc đã kèm cặp đưa chúng vào làm quen được với công việc một cách mau lẹ đến nỗi Phrăngxoa phải sửng sốt kêu lên:

-Trời đất quỷ thần! Chưa có bao giờ có con chó nào như con Bấc cả! Chưa bao giờ! Hắn đáng đến một ngàn đôla ấy chứ! Ê! Cậu thấy thế nào, Perôn?

Và Perôn gật đầu. Lúc này anh đã vượt được kỷ lục, và càng ngày lại càng được dôi thêm. Con đường trên băng đã trở nên tốt tuyệt vời, được nện chặt và rắn chắc, và không có tuyết mới rơi thêm khiến phải chiến đấu để vượt qua. Trời không quá rét. Nhiệt độ tụt xuống âm năm mươi độ và dừng lại mức đó trong suốt chuyến đi. Hai người thay nhau khi ngồi xe khi chạy bộ, bắt lũ chó thường xuyên chăm chỉ phóng tới, hoạ hoằn mới phải dừng lại đôi lúc.

Con sông "Ba mươi Dặm" tương đối phủ kín băng, và chỉ trong một ngày chạy ra, họ vượt được trọn cả một quãng đường đã ngốn mất của họ mười ngày lúc đi vào. Họ chạy một thôi phóng qua được sáu dặm từ bờ hồ Lơ Bácgiơ đến thác "Ngựa trắng". Qua các hồ Mác-ê, Têghiê và Bennét (dãy hồ dài bảy mươi dặm), đàn chó lao nhanh đến nỗi người đến phiên chạy bộ phải túm lấy một sợi dây cho chiếc xe lôi tuột mình theo đằng sau. Và đến đêm cuối của tuần thứ hai, họ đã leo lên đỉnh "Đèo Tuyết" rồi đổ dốc xuống bờ biển, nhìn thấy dưới chân mình lấp lánh những đốm ánh sáng của thành phố Xkeguê và của những con tàu trên mặt nước.

Thật là một chuyến chạy kỷ lục. Trong mười bốn ngày liền, mỗi ngày họ chạy được trung bình bốn mươi dặm. Tại Xkeguê, suốt hai ngày Perôn và Phrăngxoa ưỡn ngực tự hào phấn khởi đi lên đi xuống dọc đường phố chính và tới tấp được người ta mời đánh chén, trong khi đó thì đàn chó của hai anh liên tục bị vây kín giữa một đám đông người dạy chó và chủ chó kéo xe ngắm nghía ngưỡng mộ.

Nhưng rồi có ba, bốn tên vô lại từ miền Tây đến với mưu đồ quơ sạch của cải trong thành phố, được người ta thưởng cho những loạt đạn lỗ chỗ khắp người chết thẳng cẳng, và thế là sự chú ý của công chúng lại chuyển sang mục tiêu khác.

Tiếp đó, có lệnh điều động của chính phủ truyền xuống, Phrăngxoa gọi Bấc đến, quàng tay ôm lấy nó, gục đầu vào mình nó khóc từ biệt. Và đó là phút cuối cùng cạnh Phrăngxoa và Perôn. Cũng như bao người khác trước đây, họ đi ngang qua rồi biến khỏi cuộc đời của Bấc không bao giờ trở lại.

Một chủng người lai Xcôtlen tiếp nhận Bấc và lũ bạn nghề của nó. Rồi cùng với một tá đàn chó kéo xe khác, Bấc bắt đầu ngược trở lại con đường chán ngắt hướng về Đoxân. Bây giờ thì không còn chạy được nhẹ nhàng nữa, cũng không còn kỷ lục về thời gian, mà là ngày ngày lao động cực nhọc, nặng nề, kéo theo sau một khối nặng trình trịch. Bởi vì lần này là đoàn xe chở thư, mang những lời nhắn gửi từ khắp nơi chuyển đến những con người đang tìm vàng giữa bóng tối vùng Bắc Cực.

Bấc chả thích nhưng nó đủ nghị lực chịu đựng được công việc, tự hào với công việc ấy theo lối của Đêvơ và Xônlếch, và lo liệu sao cho lũ bạn của mình, dù chúng có tự hào với việc ấy hay không, cũng phải đóng góp phần chính đáng của chúng. Cuộc sống thật là đơn điệu, vận động đều đều như cái máy. Ngày này giống hệt ngày khác. Đến một giờ nào đó mỗi buổi sáng tinh mơ, những anh đầu bếp trở dậy, lửa lập loè nhóm lên, rồi tất cả ăn bữa sáng. Tiếp đó, trong khi một số người nhổ trại, một số khác thắng đai cương vào chó, và họ lên đường vào khoảng một tiếng trước khi trời rạng sáng. Đêm đến lại đóng trại. Một số người dựng lều, số khác hái củi và chặt cành thông lót chỗ nằm, một số khác mang nước hoặc những tảng băng đến cho những anh đầu bếp. Các con chó cũng được ăn uống. Đối với chúng, đây là tiết mục hấp dẫn nhất trong ngày, dù rằng còn có cái thú đi chơi rong, sau khi chén xong khẩu phần cá, loanh quanh dạo khoảng chừng một tiếng với những con chó khác, lũ chó đông đến một trăm con có lẻ. Trong bọn chúng có những đấu sĩ hung dữ, nhưng chỉ cần ba trận với những tên hung dữ nhất là đã đủ đưa Bấc lên địa vị thống lĩnh, và từ đó khi Bấc dựng đứng bờm lên và nhe răng ra là chúng liền tránh lối cho nó đi.

Có lẽ điều mà Bấc yêu thích hơn cả là nằm bên đống lửa, chân sau xếp dưới bụng, chân trước duỗi trước mặt, đầu ngẩng lên, đôi mắt chập chờn mơ màng nhìn ngọn lửa. Thỉnh thoảng nó nhớ lại ngôi nhà lớn của ông thẩm Milơ trong thung lũng Xanta Clara mơn man ánh nắng, cái bể bơi xây ximăng, nhớ lại Idaben, con chó Mêhicô trần trụi, và Put, con chó Nhật bản; nhưng thường hay nhớ nhất là cái lão mặc áo nịt đỏ, cái chết của Cơli, cuộc chiến đấu dữ dội với Xpít và mọi thứ ngon lành mà nó đã ăn và muốn ăn. Trong lòng nó không có cái nỗi nhớ nhà da diết. Vùng đất phương Nam đầy ánh nắng đã rất mờ nhạt và xa xăm, và những ký ức kia không còn có sức tác động gì đối với nó. Có những thứ khác có sức mạnh hơn rất nhiều: đó là những ký ức di truyền của dòng giống, những ký ức đã tạo ra cho những vật mà trước đây nó chưa hề nhìn thấy bao giờ một cái vẻ thật là thân thuộc. Những bản năng (không có gì khác hơn là những ký ức của tổ tiên nó dần dần trở thành thói quen) vốn đã tắt dần đi trong những thời kỳ về cuối, vậy mà nay, đến nó, tuy càng về cuối hơn nữa, nhưng lại trỗi dậy và sống lại.

Thỉnh thoảng, giữa lúc nó nằm thu hình ở đấy, chập chờn mơ màng nhìn ngọn lửa, nó bỗng thấy dường như ánh bập bùng kia là từ một thứ lửa khác phát ra, và nó nhìn thấy con người trước mặt nó không phải là anh chàng đầu bếp người lai kia nữa, là một con người khác hẳn. Con người này chân ngắn hơn, tay dài hơn, có những bắp thịt cuồn cuộn như dây chão và cồn lên nhiều chứ không phải những bắp thịt tròn trĩnh căng phồng. Tóc của người này dài và dài như tấm thảm, và đầu gã từ đôi mắt trở lên vát hẳn về phía sau khuất vào trong đám tre rậm ấy. Gã phát ra những tiếng kỳ lạ và có vẻ như rất sợ bóng tối, luồng mắt liên tục xoáy vào màn đêm dày đặc nắm khư khư trong bàn tay thõng quá đầu gối một cái gậy, đầu gậy có hòn đá nặng buộc chặt. Gã hầu như trần truồng, chỉ có một tấm da rách tả tơi và cháy sém rủ lưng chừng xuống lưng gã, nhưng người gã phủ đầy lông lá. Ở một vài chỗ, ngang ngực và vai, và dọc mặt ngoài cánh tay cùng bắp đùi, lông quện lại thành những đệm dày cộp. Gã không đứng thẳng, mà thân gã từ hông trở lên đổ về phía trước, đầu gối hơi khuỵu xuống. Toàn thân gã toát ra một vẻ đặc biệt, như mang tính đàn hồi, hoặc như đang nhún xuống sẵn sàng bật nẩy, gần giống như con mèo, và một vẻ cảnh giác thính nhạy của kẻ sống thường xuyên trong mối hãi hùng, lo sợ những thứ nhìn thấy được cũng như không nhìn thấy được.

Có những lúc, con người lông lá đó lại ngồi chồm hỗm bên đống lửa, đầu kê giữa hai chân mà ngủ. Những lúc ấy hai cùi tay gã chống trên đầu gối, hai bàn tay chắp lại trên đầu như muốn dùng hai cánh tay lông lá để che mưa. Và phía bên kia đống lửa, trong vòng tròn bóng tối vây quanh, Bấc có thể nhìn thấy nhiều đốm than cháy sáng óng ánh, từng đôi một, khi nào cũng từng đôi, từng đôi một, mà Bấc biết là những cặp mắt của lũ thú lớn săn mồi. Bấc có thể nghe thấy tiếng va chạm xoàn xoạt của thân thể chúng băng qua bụi bờ và những tiếng độ chúng gây ra trong đêm thanh vắng. Trong khi Bấc nằm mơ màng ở đấy, cạnh bờ sông I-u-con, với đôi mắt lờ đờ chập chờn nhìn ánh lửa, tất cả những thứ âm thanh và cảnh vật ấy của một thế giới khác biệt, thường làm nó rởn cả lông dọc theo sống lưng, bờm lòng ngang vai và cổ dựng ngược cả lên, cho đến khi nó bật ra một tiếng rên âm thầm và nghẹn tắc hoặc một tiếng gừ khe khẽ, và anh chàng người lai đầu bếp lại lên tiếng quát: "Ê! Tên Bấc kia! Tỉnh dậy đi!" Thế là cái thế giới kia lập tức biến mất, và cái thế giới thực lại hiện ra trước mắt nó, nó đứng dậy, ngáp dài rồi duỗi mình như thể vừa rồi nó đã ngủ thật.

Chuyến đi ấy thật là gian khổ, với khối bưu kiện trình trịch kéo theo sau, và công việc nặng ngọc làm lũ chó kiệt sức dần. Khi tới Đoxân, chúng sút hẳn cân và trông thật tiều tuỵ. Đáng lẽ ra chúng phải được nghỉ ít nhất là mười ngày hoặc một tuần. Thế nhưng chỉ hai ngày sau là chúng lại đã phải lên đường, từ mé rặng Berơt tụt xuống bờ sông I-u-con, kéo theo một khối nặng thư từ chuyển ra bên ngoài. Lũ chó mệt nhoài, những chàng lái xe cằn nhằn, và một điều khiến tình hình càng thêm điêu đứng là ngày nào cũng có tuyết rơi. Điều đó có nghĩa là mặt đường mềm nhũn ra, ma sát vào càng xe lớn hơn, và đàn chó phải kéo nặng nhọc hơn. Tuy nhiên các chàng lái xe cũng công bằng, và họ cố gắng hết sức chăm lo cho chúng.

Đêm đêm dừng lại, họ săn sóc đàn chó trước tiên. Chúng được ăn trước khi người ăn, và mỗi người đều chăm nom xem xét các bàn chân của lũ chó xong rồi mới lo sắp xếp chỗ ngủ cho mình. Tuy vậy, sức khoẻ của chúng vẫn suy sụp dần. Kể từ đầu mùa đông, chúng đã chạy một nghìn tám trăm dặm quả là thấm thía, cả đối với những con vật dai sức nhất. Bấc chịu đựng được, đồng thời phải trông coi cho lũ bạn nghề của nó tiếp tục làm việc tốt và duy trì kỷ luật, mặc dù bản thân nó tiếp tục làm việc tốt. Bili đêm nào cũng kêu la rên rỉ trong giấc ngủ. Giờ trở nên cáu bẳn hơn bao giờ hết. Còn lão Xônlếch thì không kẻ nào dám đến gần, cả bên mắt mù và bên mắt không mù của lão.

Nhưng Đêvơ là kẻ đau đớn nhiều nhất. Có một cái gì đó không ổn định trong mình gã. Gã trở nên ủ ê hơn và dễ bẳn tính hơn. Lúc đứng lại đóng trại nghỉ là gã lập tức đào tổ nằm, và người lái xe phải đưa thức ăn đến tận chỗ nằm cho gã. Mỗi khi đã được tháo ra khỏi đai cương và nằm xuống là gã nằm miết, không đứng dậy nữa, cho đến tận giờ thắng đai cương sáng hôm sau. Thỉnh thoảng trong vòng dây kéo, thì bị giật mạnh vì chiếc xe trượt tuyết dừng đột ngột hoặc vì kéo căng dây để lôi xe đi, gã kêu thét lên đau đớn. Người lái xe xem xét gã cẩn thận, nhưng không phát hiện ra được cái gì cả. Tất cả các chàng lái xe đều quan tâm đến tình trạng sức khoẻ của gã. Họ trao đổi về cái đau của gã trong khi họ ngồi ăn, trong khi họ cùng nhau rít tẩu thuốc cuối cùng trước lúc đi ngủ, và một đêm nọ họ cùng nhau khám bệnh cho gã. Họ bê gã từ trong ổ nằm đến bên đống lửa, rồi họ đè, họ nắn, họ chọc vào chỗ này chỗ nọ cho đến khi gã kêu rú lên nhiều lần. Họ biết gã bị đau cái gì đó ở bên trong, nhưng họ không xác định được là cái gì, không tìm thấy được chỗ xương nào bị gãy, cũng không tìm ra được là đau ở đâu.

Vào lúc đoàn người và chó đến mỏm núi Kexiơ, gã đã quá yếu, đến nỗi gã nhiều lần ngã xuống trong vòng dây kéo. Anh chàng người lai Xcôtlen hô dừng lại và đưa gã ra ngoài đàn chó, buộc con chó kế tiếp là Xônlếch vào chiếc xe trượt. Anh có ý cho Đêvơ được nghỉ ngơi, để cho gã chạy không ở đằng sau xe. Nhưng, dù ốm đến như vậy, Đêvơ rất phật ý vì bị đưa ra ngoài, gã càu nhàu và gầm gừ khi người ta tháo các dây kéo ra khỏi mình gã, và rên rỉ đến não cả lòng khi gã nhìn thấy Xônlếch thay thế vào vị trí mà gã đã giữ và phục vụ từ bao lâu nay. Bởi vì lao động trên vệt đường mòn chính là niềm tự hào của gã, và dù ốm đến gần chết gã vẫn không thể nào chịu được khi thấy một con chó khác gánh mất phần việc của gã.

Khi chiếc xe trượt tuyết bắt đầu chuyển động, gã loạng choạng thì thụp trong bãi tuyết mềm dọc bên đường, dùng răng công kích Xônlếch, đâm bổ vào Xônlếch và cố gắng để hất Xônlếch sang phía tuyết mềm bên kia đường, ra sức tìm cách nhảy vào trong vòng dây kéo và len vào giữa Xônlếch và chiếc xe trượt và suốt trong quá trình đó gã rên rỉ, kêu ăng ẳng, rú lên những tiếng sầu não và đau đớn. Đêvơ cự tuyệt không chịu chạy thanh thản trên đường mòn phía sau xe, là nơi gã có thể chạy dễ dàng, mà cứ tiếp tục loạng choạng lặn lội trong đám tuyết mềm dọc theo đường là nơi khó đi nhất, cho đến khi gã kiệt sức ngã xuống. Gã nằm bẹp nơi gã vừa ngã gục, gào lên não nùng trong khi dãy dài các xe trượt khuấy tung bụi tuyết nối tiếp lướt qua.

Thu hết sức tàn, gã cố gắng đứng dậy lảo đảo bước theo sau, cho đến khi đoàn xe dừng lại một lần nữa. Nhân lúc này, gã loạng choạng cố tiến lên vượt qua những chiếc xe trượt cho đến khi tới được chiếc xe của mình, và dừng lại bên cạnh Xônlếch.

Người lái xe nán lại một lúc để đến cạnh người đi sau châm nhờ tẩu thuốc. Đoạn anh quay lại và thúc đàn chó bước đi. Nhưng khi cất bước để ngoặt ra giữa đường thì kỳ lạ chưa, chúng đi nhẹ tênh không phải ráng sức gì cả. Chúng băn khoăn, quay đầu lại nhìn rồi đứng sững kinh ngạc. Người lái xe đứng sửng sốt. Chiếc xe trượt vẫn nguyên tại chỗ, chưa dịch đi tí nào. Anh gọi các bạn anh cùng chứng kiến cảnh tượng vừa xảy ra: Đêvơ đã cắn đứt cả hai sợi dây kéo của Xônlếch từ bao giờ và đang đứng ngay trước chiếc xe trượt tuyết ở đúng vị trí của gã trước kia.

Qua đôi mắt của Đêvơ, người ta thấy gã đang van nài xin được tiếp tục ở lại vị trí ấy. Người lái xe thật là bối rối. Các bạn anh sôi nổi bàn tán. Họ nói rằng một con chó có thể đau lòng đến như thế nào khi bị người ta từ chối không giao cho nó một công việc mà người ta biết là làm thì nó chết mất. Họ kể lại những chuyện mà họ đã biết về những con chó quá già không thể lao động nặng được nữa hoặc bị thương, khi bị tháo ra khỏi các dây thắng thì buồn rầu mà chết. Họ cũng bàn rằng, vì Đêvơ thế nào rồi cũng chết, âu là cứ cho gã được chết trong vòng đai cương, cho gã vui lòng thì cũng là làm ơn cho gã. Do đó, họ lại thắng đai cương vào cho gã. Và thế là gã lại đầy vẻ tự hào gò lưng kéo như xưa, mặc dù nhiều lúc gã đã không nén được những tiếng kêu rú lên vì cơn đau bên trong cắn xé gã. Đôi khi gã ngã xuống, và bị kéo lả đi trong vòng dây thắng, và một lần chiếc xe trượt đè lên gã, làm bị thương một chân sau của gã và sau đó gã phải chạy khập khiễng.

Nhưng gã vẫn ráng sức chịu đựng, mãi cho đến khi dừng lại đóng trại nghỉ đêm. Người lái xe xếp một chỗ nằm cho gã bên đống lửa. Sáng hôm sau, gã đã quá yếu xem chừng khó mà đi được. Đến giờ thắng đai cương, gã cố lết đến chỗ người lái xe của mình. Bằng những cố gắng vất vả, gã ráng sức đứng lên, lảo đảo, rồi lại ngã vật xuống. Nhưng rồi gã lại vặn mình chậm chạp trườn lên bò về phía những bạn nghề của gã đang được thắng cương. Gã duỗi hai chân trước ra và bằng một thứ động tác giật mạnh, kéo cả thân mình lên, rồi lần nữa lại duỗi hai chân trước ra và lại co mình lên, nhích được thêm vài inch nữa. Nhưng sức gã kiệt dần, và phút cuối cùng các bạn nghề của gã còn nhìn thấy gã là lúc gã đang nằm thở hổn hển trên mặt tuyết và gã nhìn theo chúng bằng đôi mắt khát khao. Nhưng sau đó, chúng vẫn còn nghe được tiếng hú thê thảm của gã vọng theo mãi cho đến khi chúng đi khuất hẳn đằng sau một rặng cây bên dòng sông.

Đến đây đoàn xe dừng lại. Anh chàng người lai Xcôtlen chậm rãi quay trở về nơi họ vừa ra đi. Tất cả im bặt không ai chuyện trò nữa. Một tiếng súng lục vang lên. Anh người lai hối hả quay lại. Nhưng chiếc roi vút trong không khí, những chiếc nhạc ở cổ chó rung lên leng keng vui vẻ, những chiếc xe trượt lại khuấy tung bụi tuyết lướt trên đường. Nhưng Bấc hiểu, cũng như mọi con chó khác đều hiểu, cái gì đã xảy ra phía đằng sau rặng cây bên dòng sông.

➖➖➖


Chapter IV.

Who Has Won to Mastership

“Eh? Wot I say? I spik true w’en I say dat Buck two devils.” This was François’s speech next morning when he discovered Spitz missing and Buck covered with wounds. He drew him to the fire and by its light pointed them out.

“Dat Spitz fight lak hell,” said Perrault, as he surveyed the gaping rips and cuts.

“An’ dat Buck fight lak two hells,” was François’s answer. “An’ now we make good time. No more Spitz, no more trouble, sure.”

While Perrault packed the camp outfit and loaded the sled, the dog-driver proceeded to harness the dogs. Buck trotted up to the place Spitz would have occupied as leader; but François, not noticing him, brought Sol-leks to the coveted position. In his judgment, Sol-leks was the best lead-dog left. Buck sprang upon Sol-leks in a fury, driving him back and standing in his place.

“Eh? eh?” François cried, slapping his thighs gleefully. “Look at dat Buck. Heem keel dat Spitz, heem t’ink to take de job.”

“Go ’way, Chook!” he cried, but Buck refused to budge.

He took Buck by the scruff of the neck, and though the dog growled threateningly, dragged him to one side and replaced Sol-leks. The old dog did not like it, and showed plainly that he was afraid of Buck. François was obdurate, but when he turned his back Buck again displaced Sol-leks, who was not at all unwilling to go.

François was angry. “Now, by Gar, I feex you!” he cried, coming back with a heavy club in his hand.

Buck remembered the man in the red sweater, and retreated slowly; nor did he attempt to charge in when Sol-leks was once more brought forward. But he circled just beyond the range of the club, snarling with bitterness and rage; and while he circled he watched the club so as to dodge it if thrown by François, for he was become wise in the way of clubs. The driver went about his work, and he called to Buck when he was ready to put him in his old place in front of Dave. Buck retreated two or three steps. François followed him up, whereupon he again retreated. After some time of this, François threw down the club, thinking that Buck feared a thrashing. But Buck was in open revolt. He wanted, not to escape a clubbing, but to have the leadership. It was his by right. He had earned it, and he would not be content with less.

Perrault took a hand. Between them they ran him about for the better part of an hour. They threw clubs at him. He dodged. They cursed him, and his fathers and mothers before him, and all his seed to come after him down to the remotest generation, and every hair on his body and drop of blood in his veins; and he answered curse with snarl and kept out of their reach. He did not try to run away, but retreated around and around the camp, advertising plainly that when his desire was met, he would come in and be good.

François sat down and scratched his head. Perrault looked at his watch and swore. Time was flying, and they should have been on the trail an hour gone. François scratched his head again. He shook it and grinned sheepishly at the courier, who shrugged his shoulders in sign that they were beaten. Then François went up to where Sol-leks stood and called to Buck. Buck laughed, as dogs laugh, yet kept his distance. François unfastened Sol-leks’s traces and put him back in his old place. The team stood harnessed to the sled in an unbroken line, ready for the trail. There was no place for Buck save at the front. Once more François called, and once more Buck laughed and kept away.

“T’row down de club,” Perrault commanded.

François complied, whereupon Buck trotted in, laughing triumphantly, and swung around into position at the head of the team. His traces were fastened, the sled broken out, and with both men running they dashed out on to the river trail.

Highly as the dog-driver had forevalued Buck, with his two devils, he found, while the day was yet young, that he had undervalued. At a bound Buck took up the duties of leadership; and where judgment was required, and quick thinking and quick acting, he showed himself the superior even of Spitz, of whom François had never seen an equal.

But it was in giving the law and making his mates live up to it, that Buck excelled. Dave and Sol-leks did not mind the change in leadership. It was none of their business. Their business was to toil, and toil mightily, in the traces. So long as that were not interfered with, they did not care what happened. Billee, the good-natured, could lead for all they cared, so long as he kept order. The rest of the team, however, had grown unruly during the last days of Spitz, and their surprise was great now that Buck proceeded to lick them into shape.

Pike, who pulled at Buck’s heels, and who never put an ounce more of his weight against the breast-band than he was compelled to do, was swiftly and repeatedly shaken for loafing; and ere the first day was done he was pulling more than ever before in his life. The first night in camp, Joe, the sour one, was punished roundly—a thing that Spitz had never succeeded in doing. Buck simply smothered him by virtue of superior weight, and cut him up till he ceased snapping and began to whine for mercy.

The general tone of the team picked up immediately. It recovered its old-time solidarity, and once more the dogs leaped as one dog in the traces. At the Rink Rapids two native huskies, Teek and Koona, were added; and the celerity with which Buck broke them in took away François’s breath.

“Nevaire such a dog as dat Buck!” he cried. “No, nevaire! Heem worth one t’ousan’ dollair, by Gar! Eh? Wot you say, Perrault?”

And Perrault nodded. He was ahead of the record then, and gaining day by day. The trail was in excellent condition, well packed and hard, and there was no new-fallen snow with which to contend. It was not too cold. The temperature dropped to fifty below zero and remained there the whole trip. The men rode and ran by turn, and the dogs were kept on the jump, with but infrequent stoppages.

The Thirty Mile River was comparatively coated with ice, and they covered in one day going out what had taken them ten days coming in. In one run they made a sixty-mile dash from the foot of Lake Le Barge to the White Horse Rapids. Across Marsh, Tagish, and Bennett (seventy miles of lakes), they flew so fast that the man whose turn it was to run towed behind the sled at the end of a rope. And on the last night of the second week they topped White Pass and dropped down the sea slope with the lights of Skaguay and of the shipping at their feet.

It was a record run. Each day for fourteen days they had averaged forty miles. For three days Perrault and François threw chests up and down the main street of Skaguay and were deluged with invitations to drink, while the team was the constant centre of a worshipful crowd of dog-busters and mushers. Then three or four western bad men aspired to clean out the town, were riddled like pepper-boxes for their pains, and public interest turned to other idols. Next came official orders. François called Buck to him, threw his arms around him, wept over him. And that was the last of François and Perrault. Like other men, they passed out of Buck’s life for good.

A Scotch half-breed took charge of him and his mates, and in company with a dozen other dog-teams he started back over the weary trail to Dawson. It was no light running now, nor record time, but heavy toil each day, with a heavy load behind; for this was the mail train, carrying word from the world to the men who sought gold under the shadow of the Pole.

Buck did not like it, but he bore up well to the work, taking pride in it after the manner of Dave and Sol-leks, and seeing that his mates, whether they prided in it or not, did their fair share. It was a monotonous life, operating with machine-like regularity. One day was very like another. At a certain time each morning the cooks turned out, fires were built, and breakfast was eaten. Then, while some broke camp, others harnessed the dogs, and they were under way an hour or so before the darkness fell which gave warning of dawn. At night, camp was made. Some pitched the flies, others cut firewood and pine boughs for the beds, and still others carried water or ice for the cooks. Also, the dogs were fed. To them, this was the one feature of the day, though it was good to loaf around, after the fish was eaten, for an hour or so with the other dogs, of which there were fivescore and odd. There were fierce fighters among them, but three battles with the fiercest brought Buck to mastery, so that when he bristled and showed his teeth they got out of his way.

Best of all, perhaps, he loved to lie near the fire, hind legs crouched under him, fore legs stretched out in front, head raised, and eyes blinking dreamily at the flames. Sometimes he thought of Judge Miller’s big house in the sun-kissed Santa Clara Valley, and of the cement swimming-tank, and Ysabel, the Mexican hairless, and Toots, the Japanese pug; but oftener he remembered the man in the red sweater, the death of Curly, the great fight with Spitz, and the good things he had eaten or would like to eat. He was not homesick. The Sunland was very dim and distant, and such memories had no power over him. Far more potent were the memories of his heredity that gave things he had never seen before a seeming familiarity; the instincts (which were but the memories of his ancestors become habits) which had lapsed in later days, and still later, in him, quickened and become alive again.

Sometimes as he crouched there, blinking dreamily at the flames, it seemed that the flames were of another fire, and that as he crouched by this other fire he saw another and different man from the half-breed cook before him. This other man was shorter of leg and longer of arm, with muscles that were stringy and knotty rather than rounded and swelling. The hair of this man was long and matted, and his head slanted back under it from the eyes. He uttered strange sounds, and seemed very much afraid of the darkness, into which he peered continually, clutching in his hand, which hung midway between knee and foot, a stick with a heavy stone made fast to the end. He was all but naked, a ragged and fire-scorched skin hanging part way down his back, but on his body there was much hair. In some places, across the chest and shoulders and down the outside of the arms and thighs, it was matted into almost a thick fur. He did not stand erect, but with trunk inclined forward from the hips, on legs that bent at the knees. About his body there was a peculiar springiness, or resiliency, almost catlike, and a quick alertness as of one who lived in perpetual fear of things seen and unseen.

At other times this hairy man squatted by the fire with head between his legs and slept. On such occasions his elbows were on his knees, his hands clasped above his head as though to shed rain by the hairy arms. And beyond that fire, in the circling darkness, Buck could see many gleaming coals, two by two, always two by two, which he knew to be the eyes of great beasts of prey. And he could hear the crashing of their bodies through the undergrowth, and the noises they made in the night. And dreaming there by the Yukon bank, with lazy eyes blinking at the fire, these sounds and sights of another world would make the hair to rise along his back and stand on end across his shoulders and up his neck, till he whimpered low and suppressedly, or growled softly, and the half-breed cook shouted at him, “Hey, you Buck, wake up!” Whereupon the other world would vanish and the real world come into his eyes, and he would get up and yawn and stretch as though he had been asleep.

It was a hard trip, with the mail behind them, and the heavy work wore them down. They were short of weight and in poor condition when they made Dawson, and should have had a ten days’ or a week’s rest at least. But in two days’ time they dropped down the Yukon bank from the Barracks, loaded with letters for the outside. The dogs were tired, the drivers grumbling, and to make matters worse, it snowed every day. This meant a soft trail, greater friction on the runners, and heavier pulling for the dogs; yet the drivers were fair through it all, and did their best for the animals.

Each night the dogs were attended to first. They ate before the drivers ate, and no man sought his sleeping-robe till he had seen to the feet of the dogs he drove. Still, their strength went down. Since the beginning of the winter they had travelled eighteen hundred miles, dragging sleds the whole weary distance; and eighteen hundred miles will tell upon life of the toughest. Buck stood it, keeping his mates up to their work and maintaining discipline, though he, too, was very tired. Billee cried and whimpered regularly in his sleep each night. Joe was sourer than ever, and Sol-leks was unapproachable, blind side or other side.

But it was Dave who suffered most of all. Something had gone wrong with him. He became more morose and irritable, and when camp was pitched at once made his nest, where his driver fed him. Once out of the harness and down, he did not get on his feet again till harness-up time in the morning. Sometimes, in the traces, when jerked by a sudden stoppage of the sled, or by straining to start it, he would cry out with pain. The driver examined him, but could find nothing. All the drivers became interested in his case. They talked it over at meal-time, and over their last pipes before going to bed, and one night they held a consultation. He was brought from his nest to the fire and was pressed and prodded till he cried out many times. Something was wrong inside, but they could locate no broken bones, could not make it out.

By the time Cassiar Bar was reached, he was so weak that he was falling repeatedly in the traces. The Scotch half-breed called a halt and took him out of the team, making the next dog, Sol-leks, fast to the sled. His intention was to rest Dave, letting him run free behind the sled. Sick as he was, Dave resented being taken out, grunting and growling while the traces were unfastened, and whimpering broken-heartedly when he saw Sol-leks in the position he had held and served so long. For the pride of trace and trail was his, and, sick unto death, he could not bear that another dog should do his work.

When the sled started, he floundered in the soft snow alongside the beaten trail, attacking Sol-leks with his teeth, rushing against him and trying to thrust him off into the soft snow on the other side, striving to leap inside his traces and get between him and the sled, and all the while whining and yelping and crying with grief and pain. The half-breed tried to drive him away with the whip; but he paid no heed to the stinging lash, and the man had not the heart to strike harder. Dave refused to run quietly on the trail behind the sled, where the going was easy, but continued to flounder alongside in the soft snow, where the going was most difficult, till exhausted. Then he fell, and lay where he fell, howling lugubriously as the long train of sleds churned by.

With the last remnant of his strength he managed to stagger along behind till the train made another stop, when he floundered past the sleds to his own, where he stood alongside Sol-leks. His driver lingered a moment to get a light for his pipe from the man behind. Then he returned and started his dogs. They swung out on the trail with remarkable lack of exertion, turned their heads uneasily, and stopped in surprise. The driver was surprised, too; the sled had not moved. He called his comrades to witness the sight. Dave had bitten through both of Sol-leks’s traces, and was standing directly in front of the sled in his proper place.

He pleaded with his eyes to remain there. The driver was perplexed. His comrades talked of how a dog could break its heart through being denied the work that killed it, and recalled instances they had known, where dogs, too old for the toil, or injured, had died because they were cut out of the traces. Also, they held it a mercy, since Dave was to die anyway, that he should die in the traces, heart-easy and content. So he was harnessed in again, and proudly he pulled as of old, though more than once he cried out involuntarily from the bite of his inward hurt. Several times he fell down and was dragged in the traces, and once the sled ran upon him so that he limped thereafter in one of his hind legs.

But he held out till camp was reached, when his driver made a place for him by the fire. Morning found him too weak to travel. At harness-up time he tried to crawl to his driver. By convulsive efforts he got on his feet, staggered, and fell. Then he wormed his way forward slowly toward where the harnesses were being put on his mates. He would advance his fore legs and drag up his body with a sort of hitching movement, when he would advance his fore legs and hitch ahead again for a few more inches. His strength left him, and the last his mates saw of him he lay gasping in the snow and yearning toward them. But they could hear him mournfully howling till they passed out of sight behind a belt of river timber.

Here the train was halted. The Scotch half-breed slowly retraced his steps to the camp they had left. The men ceased talking. A revolver-shot rang out. The man came back hurriedly. The whips snapped, the bells tinkled merrily, the sleds churned along the trail; but Buck knew, and every dog knew, what had taken place behind the belt of river trees.

➖➖➖