Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 108 đăng ngày 2021-11-06
***
Quê Mẹ (Tình quê hương, Tình trong câu hát, Bên con đường sắt)
Tác giả: Thanh Tịnh
Nhà xuất bản Bút Việt, năm 1975
~
Tình quê hương
Tình trong câu hát
Bên con đường sắt


TÌNH QUÊ HƯƠNG

Thuyên, Đông là hai người bạn thân cùng ở một làng: làng Mỹ-lý. Sau ba tháng vào tìm việc ở Nam-kỳ, hai người mới tìm được hai việc làm tạm ở ga Gò-đen. Ga này ở giữa con đường Sàigòn - Mỹ-tho, một nơi được tiếng giàu nhất về ruộng lúa. Khách qua lại toàn là những dân quê ở hai vùng Thanh-trưu và Bá-chẩn. Công việc của Thuyên, Đồng cũng không đến nỗi vất vả lắm. Lúc còn là hai tên thất nghiệp lang thang đi tìm việc khắp Sài-gòn thì hai người ít khi nhớ đến quê hương. Nhưng lúc tìm ra việc thì tình quê hương lại dạt dào luôn trong tâm trí.

Những buổi nghỉ việc, hai người lại lững thững nắm tay nhau, đi trên con đường về làng Vạn-thọ. Vì con đường này giống với con đường chính của làng Mỹ-lý quá. Cũng hai hàng cây sầu-đông chạy thẳng giữa quãng đồng lúa chín, cũng cái miễu thánh xa xa và mấy đống rơm cao chót vót sau bụi tre già cuối xóm.

Đi trên quãng đường này, Thuyên, Đồng có cái cảm giác là sắp về nhà mình. Nhưng mỗi lúc qua khỏi cái cầu dài, hai người lại đứng nhìn nhau ngơ ngẩn. Vì trước mặt hai người, quang cảnh chung quanh đã đổi hẳn. Những cây dừa vươn mình trên dòng nước đục, hay vài cô gái miền Nam bơi thuyền giữa đám rau già, không cho hai người tưởng tượng đến làng Mỹ-lý nữa.

Thuyên vòng tay nhìn mông mênh ra xa rồi lẩm bẩm:

- Ừ uổng thật, giá đến đây không gặp con sông này thì chúng mình đã tưởng về xóm Thạch-lũy rồi.

Đồng đưa tay chỉ một nếp nhà ngói bên vệ đường rồi nói tiếp:

- Còn cái nhà xinh xắn kia là biệt thự của cô Ái-Thu làng mình.

Thuyên nhìn Đồng mỉm cười:

- Nhớ rõ ràng nhỉ, nhưng đất Nam-kỳ bốn mùa nắng gắt, có mùa thu đâu mà bảo có cô Ái-Thu.

Trên phiến đá trắng bên vệ đường, hai người lại lẳng lặng quàng vai nhau ngồi xuống. Trời càng về chiều, gió càng lạnh. Hai người dần dần ngồi khít gần lại để truyền hơi ấm cho nhau.

Bóng tối từ từ lan rộng ra trên quãng đồng lúa chín, ở về phía ga vài ngọn đèn dầu đã bắt đầu lấp lánh sau mấy hàng cây đen sẫm.

Như muốn tự dối, Thuyền vui vẻ bảo Đồng:

- Đồng ơi. Chúng ta hãy đi về ga Mỹ-lý nhanh đi chẳng tối rồi.

Không hề lộ vẻ ngạc nhiên, Đồng cất tiếng đáp:

- Ừ chúng ta về ga Mỹ-lý.

Rồi như mọi chiều, Thuyên, Đồng lại vừa đi vừa hát huyên thuyên, đầu bài bát này nối đuôi bài khác.

° ° °

Một hôm Thuyên, Đồng rủ nhau đi chơi thật xa, nhưng đến giữa trưa thì lạc mất đường về. Hai người phải ghé vào cái quán gần đấy để hỏi đường, luôn tiện để ăn cho đỡ đói. Cùng ăn trong quán ấy, có ba người nhà quê trẻ tuổi đùa bỡn với nhau luôn miệng. Nụ cười từ môi này lan qua môi khác, bầu không khí trong quán không bao lâu trở nên vui vẻ lạ thường. Lúc sắp trả tiền, Thuyên mới nhớ mình để quên ví ở nhà, Thuyên bấm nhẹ Đồng hỏi sẽ:

- Đồng có đem tiền theo đấy không?

- Không. Thế Thuyên cũng không có à?

Thuyên lắc đầu ra vẻ lo ngại:

-Thuyên bỏ nhầm quyển số con vào túi, còn cái ví thì để quên ở trong ngăn bàn.

Hai người đang nhìn xuống mặt bàn để tìm kế «tháo thân» thì bên kia bàn, người nhà quê trẻ tuổi nhất, đứng dậỵ nói với chủ quán:

- Hai thầy ngồi bên kia bàn là hai bạn thân của chúng tôi; vậy ông cứ tính chung để tôi trả tiền luôn thể.

Thuyên nghe nói cảm động quá, đứng dậy nhìn người trẻ tuổi một lát rồi ấp úng nói:

- Thật chúng tôi không biết nói gì đây để cám ơn mấy ngài....

Không để cho Thuyên nói dứt lời, người trẻ tuổi nói tiếp:

- Đáng lẽ tôi phải cám ơn hai thầy trước mới phải. Vì hai thầy đã cho tôi nghe giọng nói của mẹ tôi xưa....

Rồi hạ giọng, người ấy thì thầm như hơi thở:

- ... Vì mẹ tôi là người Trung-kỳ, và đã qua đời hơn tám năm rồi.

Nói đến đây, người trẻ tuổi lẳng lặng nhìn xuống bàn, hai môi mím chặt ra vẻ đau thương lắm. Còn Thuyên, Đồng thì bùi ngùi nhớ đến quê hương, yên lặng nhìn nhau với hai cặp mắt rớm lệ.

° ° °

Ngày ba mươi Tết năm ấy, Thuyên, Đồng nhất định không đi ăn cơm quán như mọi ngày. Hai người định mời bà Hai, người ở gần đấy, đến nấu cơm trong ga, để cúng luôn thể. Hai người cũng không biết cúng ai, nhưng thấy người ta đua nhau cúng, cũng muốn cúng cho vui.

Bàn bạc xong xuôi, Đồng đáp tàu lên Chợ-lớn mua các thức ăn trong tiệm khách. Còn Thuyên ở nhà sắp đặt lại ghế bàn để khuya cúng lễ giao thừa.

Lúc Đồng về thì trời đã gần tối. Thuyên tự thân hành qua bên nhà bà Hai để mời bà ấy qua, nhưng rủi bà ấy đã về ăn Tết ở Biên-hoà từ sáng sớm. Thuyên lủi thủi đi về kể lại cho Đồng nghe. Hai người chỉ nhìn nhau cười, nhưng trông có vẻ băn khoăn lắm. Ngay lúc ấy, bên kia căn ga có mấy người hành khách đang ngồi nói chuyện với nhau rất vui vẻ.

Thuyên mở cửa sổ bán vé tàu, chui đầu sang bên kia rồi nói lớn:

- Hôm nay không có chuyến tàu bảy giờ. Đến hai giờ sáng mới có chuyến tàu bất thường ra Bắc.

Vài ba người nghe nói thất vọng quẩy gánh ra về. Thấy trong bóng tối lờ mờ còn vài người ngồi, Thuyên dịu lời nối tiếp:

- Các ngài không ở nhà ăn Tết à? Đi đâu mà sớm thế?

Một tràng tiếng trong trẻo đáp lại:

- Chúng tôi về ăn Tết.

Nhận được tiếng nói Trung-kỳ hai người mừng rỡ lắm. Đồng đứng sau Thuyên lên tiếng hỏi với:

- Về ăn Tết sao mà chậm thế?

Sau một dịp cười thẳng thắn, tiếng nói ấy lại ngọt ngào reo lên như trước:

- Chậm còn hơn không, hai thầy ạ.

Thuyên thụt đầu vào nhìn Đồng mỉm cười.

Đồng kề miệng bên tai Thuyên nói khẽ:

- Chắc cô này biết chúng mình.

Thuyên láy Đồng xách cây đèn treo rồi hai người cùng qua bên kia căn ga.

Trên chiếc ghế dài kê khít tường, một thiếu nữ mặc theo kiểu Huế, đang ngồi giữa một giỏ cam, và hai chai rượu.

Thấy Thuyên, Đồng đi qua, thiếu nữ nhoẻn miệng cười hỏi sẽ:

- Thế hai thầy định ăn Tết ở đây à?

Thuyên xoa tay, đáp:

- Có lẽ ở đâu chúng tôi cũng không ăn Tết được.

Thiếu nữ trố mắt nhìn Thuyên ra ý hỏi.

Thuyên mỉm cười nói tiếp:

- Vì một lẽ rất giản dị là đồ ăn mua về không có ai nấu.

Thiếu nữ đưa tay che miệng cười ngặt nghẽo.

Mấy chai rượu đế trên ghế được dịp chạm với nhau nghe rất vui tai.

Cười xong thiếu nữ vuốt lại mấy sợi tóc bay loà xoà trước trán hỏi tiếp:

-Thế người nấu ăn của hai thầy đi đâu?

Đồng bấm Thuyên đi lui rồi chen tới trước đáp:

- Người ấy không đi đâu hết. Nhưng chúng tôi cũng không ăn Tết được.

Không để cho thiếu nữ ngạc nhiên, Đồng nói tiếp:

- Vì sự thật chúng tôi không có người ấy.

Nghĩ một lát, Đồng ngập ngừng nói sẽ:

-Vì vậy, nếu không làm phiền cô, vì chúng tôi biết làm thế này là phiền cô lắm, nhưng ...

Thuyên ngắt lời nói thật nhanh:

- Chúng tôi muốn nhờ cô ...

Nhưng nói đến đây, Thuyên đã ú ớ tìm không ra chữ. Thiếu nữ Huế tươi cười nói tiếp:

- Nhờ em nấu hộ cho hai thầy phải không. Nhưng tiếc em chỉ biết nấu thức ăn theo cách ở Trung-kỳ thôi.

Thuyên mừng rỡ:

-Có thức ăn Trung-kỳ để ăn ... Tết, thật chúng tôi không muốn gì hơn nữa.

° ° °

Nói là cúng chơi, nhưng lúc khói trầm toả lên khắp nhà và mấy ngọn đèn nến chập chờn trong bóng tối, Thuyên, Đồng cũng cảm thấy sự đầm ấm thiêng liêng của những ngày cúng kỵ. Thuyên kính cẩn rót thêm một tuần rượu vào ly rồi nói:

-Không biết lễ vật này mình cúng cho ai nhỉ?

Thiếu nữ Huế vòng tay nhìn Thuyên đáp:

- Cho những linh hồn tha hương chứ gì.

Thuyên cười nói:

- Ô hay, nếu vậy chúng mình lại tự cúng cho chúng mình rồi à?

Thiếu nữ ra vẻ sợ sệt nói sẽ:

- Chỉ nói dại.

Sực nhớ đến những nén hương không có trên bàn thờ, Thuyên hỏi Đồng:

- Đồng có mua hương đến không?

Đồng nhìn lên bàn thờ nói:

- Ừ nhỉ! Đồng vô tình quên mua mà không nhớ!

Thiếu nữ vội vàng đến mở va-li, lấy thẻ hương ra rồi hỏi:

-Đã vô tình quên thì nhớ thế nào được. Nhưng em có sẵn đây, hai thầy lấy mà thắp.

Thuyên đem cái máy đóng vé tàu để giữa bàn thờ bỏ hương vào trong một cái lạch con rồi tươi cười nói:

- Cái lư hương trông thế mà đẹp.

Ba người nhìn nhau cố che miệng để khỏi bật tiếng cười.

Một lát sau, Thuyên quay lại nhìn thiếu nữ rồi dịu lời hỏi:

- Chút nữa tôi quên không hỏi tên cô.

Thiếu nữ vuốt mái tóc rồi hỏi:

- Tên em?

Đồng gật đầu:

- Vâng, tên cô, vì đã hơn hai năm, lần này chúng tôi mới được gặp một cô gái Trung-kỳ bước chân đến ga này.

Thiếu nữ vẫn giữ nụ cười trên môi nói tiếp:

- Tên em là Bá Xuân.

Thuyên quên mình đang đứng trước một cô con gái lạ, vỗ tay reo lên:

- Vậy qua năm mới, anh em chúng tôi đã rước được một trăm mùa Xuân vào nhà … ga.

Như hưởng ứng với lời Thuyên, một tràng pháo nổ vang lêu gần đấy.

Thiếu nữ ngây thơ nói tiếp:

- Hai anh chớ tưởng một trăm mùa Xuân mà thôi đâu. Nhiều lắm cơ, không đếm được! Vì em là Lê ... «les » Bá Xuân.

Thuyên thấy thiếu nữ nói chuyện ngây thơ, lại xưng hô thân mật thì sung sướng vô cùng.

- Nếu vậy thì hôm nay nhà chúng ta đầy nức cả mùa xuân.

Ngay lúc ấy bên quãng đồng xa, làng Tân-hiệp, một tiếng còi tàu thét lên vang trong đêm tối. Rồi tiếp đến tiếng máy đều đều của con tàu ra Bắc.

Thuyên buồn rầu cúi mặt nhìn xuống đất, rồi với một giọng đầy nước mắt, nói sẽ:

- Nhanh thật, đón được mùa xuân chưa đầy hai phút thì đã phải tiễn mùa xuân đi rồi.

Cô Xuân đến ngồi trên chiếc ghế dài, hai tay ôm đầu ra dáng cảm động lắm. Một lát sau, cô ngửng mặt nhìn Thuyên, Đồng rồi với giọng run run, nói thật sẽ:

- Xuân đi chỉ một, còn xuân ở bên hai anh thì nhiều hai anh ạ!

Rồi gượng cuời, nhưng hai mắt đã nhoà cả lệ, cô Xuân nói tiếp:

- Vì em có những Lê... «les» Bá Xuân.

➖➖➖

 

 

 

TÌNH TRONG CÂU HÁT

Một buổi chiều vàng rộng mông mênh. Trên dòng sông hẹp hai chiếc thuyền như cố theo nhau ráo riết. Chiếc trước nhỏ, dáng mảnh khảnh mình thon chỉ được một cánh buồm nâu hình tam giác. Chiếc sau trông mạnh mẽ, gỗ láng và mui cao. Phía trước hai cánh buồm uốn phồng thật cong như nuốt gió. Hai chiếc thuyền cứ thong thả lướt nhẹ trên dòng sông cách nhau chừng vài trăm thước.

Nhưng trước kia hai chiếc ấy đã cùng đi từ một bến.

Chiều hôm ấy nghe nắng đã bớt màu vàng khe khắt, và gió đông nam bắt đầu nổi sau độn cát chùa Quang, anh Đạt từ từ cho lui thuyền ra khỏi bến. Anh đã lãnh được một chuyến khoai khô chở về huyện Quảng. Giữa cảnh hỗn độn ở bến Bao-vinh, thuyền sắp ngổn ngang và lái xây đủ hướng, anh Đạt chịu khó lắm mới lần được thuyền ra giữa dòng sông. Ngay lúc ấy anh nhận thấy ở phía xa, gần bến Đá, một chiếc thuyền buồm nâu cũng từ từ quay lại. Đạt mừng thầm, vì được một chiếc thuyền đi cùng sông không khác gặp một người bạn đi cùng đường. Giữa cảnh đêm hôm họ sẽ đem câu hát ra hỏi chuyện nhau cho sông đỡ dài, đêm đỡ vắng. Đó gần như một cái lệ chung của khách thuyền bè sống trên mặt nước.

Câu hát của họ thường do sự biện bạch thật nhanh và thật sáng, tả được chuyện nhà rõ ràng và mạch lạc không kém gì chuyện bông lông. Nhưng đẹp và tươi nhất là câu chuyện tình. Vì về mặt này họ rất thạo. Họ tả một cảnh hồn nhiên, nỗi cô đơn của lòng họ. Lắm lúc họ còn mượn cảnh nước mây để câu chuyện tình thêm thanh thú. Từng ấy chuyện họ thu gọn trong câu hò mái đẩy, văng vẳng kéo dài như tiếng chuông ngàn quyến gió hay rỉ rền như tiếng nức nở của vọng phu.

Câu hát trên dòng sông đã là lối giới thiệu thầm của hai tâm hồn xa lạ, hay mẩu chuyện đời góp nhặt đổi cho nhau nghe. Lệ thường hễ nhiều con thuyền trôi trên sông vắng hay giữa phá dài, là câu hò trao qua đáp lại đã vọng vang ra theo chiều gió. Cũng có khi một chiếc thuyền cô độc lướt nhẹ theo bờ sông, khách thuyền chỉ biết vu vơ thả câu hò ra giữa bầu trời cao rộng. Rồi trên bờ vắng hay giữa sông sương, vài tiếng hò như tiếng lòng xa vội vàng đáp lại. Người ta cứ thả tiếng hò ra như để làm quen với tiếng hò khác. Và thỉnh thoảng trong bóng tối của đêm dày người ta lại được nghe tiếng hò năm trước. Tiếng hát từ đó lại đổ dồn để kể cho nhau nghe sự đổi thay của mấy năm xa cách. Và lắm lần người ta đã khóc thầm vì hy vọng của xa xưa đã tắt hẳn, hay câu hẹn hò năm trước đã bị quên lãng ở giữa cảnh chồng con. Gặp nhau trên dòng sông có khi vài ba canh tiếp, nhưng bỗng đột ngột người ta rẽ bến xa nhau. Nhưng họ cũng hy vọng chờ và mong gặp nhau trên một phương sông vô định. Ví dầu không biết mặt nhau nhưng giọng hò và điệu tứ họ đã quen nhau rất chặt. Rồi đời này qua kiếp khác, khách của mặt nước cũng chỉ biết tìm tình đời trong câu hát giữa dòng sông.

° ° °

Đạt goá vợ đã lâu, ngày tháng chỉ biết đưa thuyền để nuôi con dại. Vợ Đạt ngày xưa là một cô lái thuyền ở làng Vịnh-trị. Hôm ấy trời gió lớn và sắp nổi cơn giông, thuyền Đạt và thuyền Liên – tên vợ Đạt – phải ghé vào bờ để núp sóng. Đã quen nhau từ trước trong câu hát vẳng trên sông nên lúc gặp nhau Đạt và Liên không biết ngượng ngùng gì nữa. Câu chuyện tình liền bắt đầu thủ thỉ, trên hai con thuyền tình cờ sóng đã thúc lại gần.

Đạt mê man đưa tay qua thuyền bắt tay Liên và chực vuốt mái tóc tơ đang vờn trong gió lạnh. Liên say sưa cúi đầu nhìn mặt nước, đành câm lặng mà không nói được nên lời. Cách hai tháng sau Đạt lấy Liên và lễ cưới đã cử hành trên một nhóm thuyền kết lại. Vì thuyền đã là gia đình của họ, dòng sông là nơi họ qua về, và muôn bến chỉ là nơi ở tạm. Lễ cưới của Đạt và Liên, cũng như tất cả người người sống trên thuyền không ngờ đã đượm một tình thơ tươi sáng.

Liên với một nhóm thuyền của bạn bè và thân thích đến đậu trước ở bến nứa làng Vân. Vì chính nơi ấy xưa kia hai người đã gặp gỡ. Ba giờ sau một toán thuyền trên mười lăm chiếc về, họ hàng Đạt đến vây đậu chung quanh. Toàn thuyền buôn bán hay làm ăn cả, nhưng hôm ấy họ cũng gắng trang hoàng và dọn dẹp thật sạch sẽ. Giữa đêm họ đem đèn ra thắp chung qnanh boong và treo một ngọn đèn khá lớn trên cột buồm, xa trông như một cụm chiến thuyền của thời xa cũ. Họ bày ra ăn uống rất vui vẻ và có lệ hay hay là đổi thuyền nhau để ngồi. Thường họ thắp đèn thật nhiều chứ không đốt pháo. Vì họ cho tốn tiền và cũng không thêm gì được cuộc vui. Nói chuyện đến nửa đêm thì họ nhổ sào giải tán, chỉ để lại hai chiếc thuyền của Đạt và Liên.

Trong lúc thấy đám thuyền đèn từ từ xa bến, Đạt tự nhiên vui vẻ cất tiếng hát vọng lên như tiễn biệt, Liên đứng nép bên cạnh chồng nhìn đám thuyền trôi buồn rầu tiếp theo mấy tiếng «hò» dài nghe não nuột [1]. Bên đám thuyền kia, người của hai họ đồng cất tiếng hát vang lên một lần như đáp lại. Tiếng hát của hai bên cứ nhỏ dần, sau chỉ để nghe mơ màng như tiếng thoảng. Đám đèn xa rồi mờ mãi để lẩn dần trong cụm sao đỏ phía chân sông. Không biết nghĩ gì Liên tựa đầu trên vai chồng, nhìn dòng nước mênh mang thổn thức.

Từ đó trên dải phá Tam-giang, hai chiếc thuyền của Đạt và Liên cứ kèm nhau theo mãi. Ở với nhau gần ba năm, Liên sinh được một đứa con gái. Nhưng trong kỳ thai sản ấy, Liên bỏ mạng ở nhà thương. Đạt chôn cất vợ xong liền bồng con về sống lại cuộc đời cô quạnh. Giọng hát của Đạt từ đó lẻ bầy, nghe não nùng như oán khóc. Rồi trong khoảng mấy tháng đầu hễ có dịp chèo thuyền đi xa Đạt lại nối dây kéo thuyền của Liên đi theo. Trong thuyền ấy chỉ để độc một bát hương khói toả ra nghi ngút. Thuyền của Đạt đi đến đâu, người ta liền đổ dồn ra bờ đứng xem. Đạt vẫn thản nhiên cất giọng hò lanh lảnh, gương mặt quá đau khổ đến lạnh lùng như người chờ đám ma. Nhưng sau nghe mẹ phân phải trái, Đạt liền bán chiếc thuyền của Liên đi và giao con gái cho mẹ nuôi.

Đạt đã bớt sầu muộn và nghề làm ăn xuôi ngược đã bắt Đạt quên dần Liên. Nhưng chiều hôm ấy, lúc cho thuyền rời khỏi bến, Đạt tình cờ sống lại một cảnh của thời xưa. Trước mặt Đạt một chiếc thuyền ai đang rẽ nước giống hệt với thuyền Liên. Lòng Đạt bồi hồi một cách lạ. Đạt kéo thêm một buồm nữa để đuổi theo và chính Đạt cũng không biết để làm gì. Nhưng thuyền Đạt, mũi lún và đầy khoai nên không thể nào lướt nhanh hơn được. Trái lại chiếc thuyền trước chạy như bay, thấp thoáng trong chiều sương trông như bóng mộng.

Đạt liệu bề không theo kịp liền cất tiếng hát hỏi thăm:

Thuyền ai trôi trước

Cho tôi lướt đến cùng

Chiều đã về trời đất mung lung,

Phải duyên thì xích lại

cho đỡ não nùng tiếng sương.

Giọng hát cất lên thật cao rồi hạ xuống từ từ như than vãn như kể lể. Trên lái thuyền đi trước bỗng nổi bật bóng một thiếu nữ mặc áo nối dài quay đầu nhìn phía sau một lát rồi đáp:

Trời một vùng đêm dài không hạn,

Mượn gió chiều hỏi bạn ngàn sông,

Thân em là gái chưa chồng,

Tơ duyên có chắc như dòng nước không?

Đạt giật mình tưởng như tiếng hò của Liên ngày trước. Vì cũng một giọng hò trong trẻo và hơi dài, câu dứt gọn và đưa xinh như sương tỏa. Đạt nghĩ ngay đến mấy cô lái thuyền làng Vịnh-trị, người cùng làng với Liên. Vì tuy khác tiếng khác câu nhưng mỗi làng có một cách hò riêng không sao lẫn lầm được. Và cũng riêng câu hò ở mặt phá là rộng và lan dài, chứ lối hát ở dòng sông là câu điệu nghe mùi chớ không thanh thoát. Đạt đã sống nhiều năm ở mặt phá nên phân biệt giọng hò thạo lắm. Đạt còn biết làng nào ở khúc phá hẹp là giọng hò làng ấy ngắn và trong. Còn những khoảng phá rộng lại un đúc được giọng hò nghe trầm và mạnh.

Chiều này Đạt thao thức trước giọng hò Vịnh-trị vì lòng Đạt bàng boàng nhớ đến Liên. Đồng áng chung quanh tuy đổi màu hay thay nét, nhưng cũng vẫn cảnh cũ đã làm chứng cho cuộc tình xưa. Chiều đã phai bớt màu lam và dần dần tối sẫm. Nhưng giữa mặt sông trời còn sáng hơn làng mạc. Vài ba ngọn đèn dầu thấp thoáng trong hàng cây đen. Thấy bóng thuyền lướt trên sông, một con chó đứng trên bờ nhìn theo sủa lớn.

Hai giờ sau, hai con thuyền đã ra đến phá. Trăng đã lên cao sau đồi cát trắng. Hơi nước tỏa ra mằn mặn bốc trong gió mát thổi vi vu. Mặt phá rộng mênh mông lấp loáng ánh trăng vàng trông rất đẹp.

Hai con thuyền vẫn đuổi nhau như cũ, xa trông như cặp nhạn lướt trên hồ. Đạt có vẻ thất vọng nên giọng hát thoang thoảng đưa ra như tiếng thở. Tiếng đáp của cô lái thuyền phía trước có vẻ quyến luyến và ý vị hơn. Đạt kéo dây lèo cho buồm thật căng để lướt nhanh hơn trước.

Qua làng Thế-chi, gà xa xa đã eo óc gáy canh tư. Giữa vùng trời bảng lảng, lòng Đạt và cô lái không quen đã bắt đầu gặp gỡ. Câu hát đã đổi ra tình tứ, điệu trầm và cảm nghe như tiếng suối vẳng rừng khuya.

Dòng phá đến làng Kế-môn dần dần thu hẹp lại để sau cùng chia hẳn khúc ba sông. Đạt đang hồi hộp lo sợ thì chiếc thuyền trước đã quay mũi về phía Kim-long. Đạt buồn rầu nhìn cánh buồm nâu nghiêng mình theo chiều sông như cánh én. Đạt lưỡng lự một chút nhưng bỗng đưa tay đẩy mạnh đòn bánh lái cho thuyền xuôi về Đại-lược. Từ thuyền trước một câu hò chia biệt vẳng lên không:

Tình về Đại-lược,

Duyên ngược Kim-long,

Đến đây là chỗ rẽ của lòng,

Gặp nhau còn biết trên sông bến nào.

Đạt muốn hò đáp lại, nhưng tự nhiên thấy nghẹn ngào trước cảnh biệt ly. Nhớ đến Liên, đến người bạn mới trong đêm, Đạt gục đầu ôm mặt khóc rưng rức.

Trong đám sương mờ óng ả trăng, hai chiếc thuyền lẳng lặng cách và xa gần như rẽ quạt.

----------------------

[1] Lệ trong câu hò mái đẩy thì một người hát, còn mấy người khác chỉ đưa tiếng «hò».

➖➖➖

 

 

 

BÊN CON ĐƯỜNG SẮT

Đường từ huyện Sơn-hải về làng Mỹ-lý có hai ba ngả. Ngả tiện và gần nhất là con đường mòn đi băng qua làng Thanh-ý. Con đường này đi qua một cánh đồng ruộng mênh mông rồi lẩn lút trong đám tre xanh chừng nửa dặm trước khi vươn mình qua sông Phù-mỹ. Qua khỏi sông thì gặp ngay con đường sắt chắn ngang nên con đường mòn lại nhập với con đường lớn đi thẳng về làng Mỹ-lý.

Bên con đường mòn, dưới bóng một cây bàng cao lớn, một cái quán tranh đã điểm một chấm đen bên lưng đồi sỏi trắng. Cái quán ấy trở mặt nhìn con đường sắt cách xa đấy không đầy một trăm thước.

Ba năm về trước, người ta có dựng lên ở vùng này một cái ga tạm. Nhưng sau nhận thấy khách lên xuống ở ga ấy ít quá nên lại bỏ đi. Thật ra lúc mới dựng ga thì quang cảnh chung quanh không đến nổi lạnh lùng quá.

Lúc nào khách bộ hành cũng qua lại tấp nập, và bao nhiêu đường ở làng Mỹ-lý đều quay đầu về ga ấy hết.

Dân trong làng thấy ở địa phận mình có cái ga ấy thì vui thích lắm. Họ thường lên xuống để xem tàu chạy và để nhìn những dân mấy làng bên cạnh qua lại ở làng mình. Được thấy những người lạ mặt ấy họ vui mừng và sung sướng vì họ cho là điềm thịnh vượng của dân cư và sự vẻ vang của làng nước.

Hồi ấy trong làng có một cô gái bán gạo trông xinh tươi và thùy mị. Cô ta ở một mình với người em trai vì cha mẹ cô qua đời lúc cô mới mười bốn tuổi, cô ta bán gạo để nuôi em đi học và để trả những món nợ của cha mẹ để lại. Thấy cách bán gạo kiếm tiền không được mấy, nên cô ta dọn một cái quán gần bên ga.

Nghỉ bán gạo ba hôm, cô Duyên – cô ấy tên Duyên – đã dời được cái nhà của cô đem ở khít bên đồi sỏi trắng. Mấy tháng đầu, cô ta buôn bán thịnh vượng lắm. Cô chỉ chuyên bán cơm quán cho những khách lên xuống tàu nên quán cô ta lúc nào cũng tấp nập người ra kẻ vào.

Tiếng mõ đầu làng mới trở canh ba, cô Duyên đã phải dậy nấu cơm để cho những người đi chuyến tàu bốn giờ sáng. Ngày đêm cô ta chỉ lấy những chuyến tàu qua lại để làm chừng.

Cô ta tiếp đón khách qua đường vui vẻ và chân thật nên ai cũng bằng lòng. Riêng các cô gái trong làng thì không ai ưa tính tình thẳng thắn của cô Duyên. Họ quen ra vào trong những nếp nhà nghi lễ gắt gao nên họ cho lối tiếp khách của cô Duyên trông không được đứng đắn lắm. Gặp nhau trên con đường đi xuống chợ hay giữa quãng đồng lúa chín, họ thường khúc khích cười rồi bảo thầm với nhau những câu rất khó chịu:

- Được duyên số như cô Duyên thì thà chịu phận hẫm duyên hờn còn hơn.

Một cô khác lấy nón che miệng cười, nói tiếp:

- Các chị em chớ nói đùa! Trong chị em mình chị nào ế chồng thì lên quán cô Duyên cô sẽ chia bớt chồng cho. Vì quán cô Duyên thì đa nhân duyên lắm đấy!

Mỗi lần những tiếng ấy đến tai cô Duyên thì cô chỉ mỉm cười rồi lật đật đi tìm việc để làm chứ không bao giờ cô chịu bận lòng để ý đến.

Một hôm trời chưa tảng sáng, ở trước quán cô có người gọi cửa. Cô lật đật ngồi nhỏm dậy rồi đưa hai chân xuống giường sờ soạng tìm đôi guốc. Tiếng gõ cửa càng nghe càng manh hơn trước. Cô Duyên vừa lấy diêm thắp đèn vừa tươi cười hỏi bỡn:

– Quí khách nào đấy?

Ở bên ngoài có tiếng đáp:

- Quí khách đến mở hàng cho cô đây.

- Vâng cháu sắp mở cửa. Ngài cần dùng gì?

Tiếng ở ngoài nghe the thé và có vẻ gắt gỏng khó chịu:

– Cần dùng ngủ lại với chủ quán một đêm.

Nhận được tiếng cô Lân, một người bạn gái xưa kia cùng ở một xóm, cô Duyên mừng lắm:

- Cô Lân đấy phải không? Đi đâu mà khuya thế?

Tiếng bên ngoài lần này đổi ra giọng mỉa mai:

-Vâng, con Lân đây, nhưng làm trò gì ở trong lại để tôi phải gọi rát cả cổ. Hay chị bảo tôi là khách đàn bà... nên chị không tiếp.

Dứt tìếng nói thì tiếp đến tiếng guốc kéo thiệt nhanh đi về phía ga rồi im bặt sau hàng thông cao vút.

Cô Duyên biết cô Lân nói mỉa mình nhưng cô cũng không buồn cãi lại. Vì cô chán biết không ai muốn tin đến tấm lòng nhi nữ đã ẩn được thanh bạch trong túp lều tranh mục nát. Nhưng lúc cô vừa đặt mình xuống giường thì tự nhiên hai mắt cô lại chan hoà cả nước mắt. Lần này cô tủi vì đời cô không có người che chở.

Người thường đi lại quán cô ta nhiều bận nhất là thầy xếp ga. Thầy này cứ ngày hai buổi đến ăn cơm ở quán cô Duyên, còn đêm thì ngủ lại trong ga tạm. Thầy ta tên Trưu, tính tình lúc nào cũng vui vẻ và hiền từ. Đến mấy bận ở quán cô Duyên, thầy đã đem lại cho cô quản trẻ tuổi lắm ý kiến hay và sáng suốt. Thày Trưu khuyên cô Duyên nên cho người em trai đi học chữ Pháp vì Hán-văn đã mất hết vẻ thông dụng của thời xưa rồi. Cô Duyên lúc nào cũng sẵn sàng nghe lời thầy Trưu vì những ý kiến tươi sáng của thầy ta lúc nào cũng kèm theo những ý kiến xa xuôi về cuộc nhân duyên tình ái.

Lửa ái ân của hai ngựời mới bắt đầu nhóm thì một chuyện không hay bất ngờ xảy ra.

Cách ga tạm ở làng Mỹ-lý ba cây số, có một cái ga lớn ở chính giữa làng Kỳ-lâm. Dân vùng quê thường tính lợi hại từng li từng tí nên họ không chịu lên tầu ở ga Mỹ-lý nữa. Vì chịu khó đi đến ga Kỳ-Lâm thì họ được lợi bốn xu. Vì vậy mà ga tạm ở làng Mỹ-lý trở nên hẻo lánh và quang cảnh chung quanh cũng mất vẻ sầm uất. Một vài cái quán nước gần ga đã bắt dầu dời đi nơi khác.

Qua mùa đông năm ấy, thầy Trưu được giấy bổ vào Nha-trang. Nhà ga tạm Mỹ-lý từ đấy trở nên chỗ trú ngụ của bọn dân nghèo khổ. Quán cơm cô Duyên cũng vì thế mà trở nên buồn tẻ.

Nhưng cô Duyên nhứt định không chịu dỡ quán đem về làng. Cô ta đoán biết trước những vẻ mặt khinh khỉnh, những lời nói mỉa mai của lắm người không ưa cô ta ngày trước.

Khách bộ hành càng ngày càng thưa thớt dần, nhưng cũng may những người làm ruộng thường ghé lại quán mua nước hay khoai nên nghề buôn bán của cô Duyên cũng tạm gọi là sống được. Rồi ngày hai buổi, lúc nghe tiếng còi tàu văng vẳng bên đồng xa, cô Duyên lại lững thững đi lên trước sân ga tạm cũ để nhìn tàu chạy. Tiếng máy chạy đều đều của con tàu từ phương xa đi lại đã hoà nhịp với tiếng đập mạah của quả tim cô. Lần nào cô ta cũng hy vọng thầy Trưu sẽ trở về với cô, với cái quán tranh tựa bên đồi sỏi trắng. Nhưng lúc không nhận thấy một mặt nào quen trên chiếc tàu đang vùn vụt chay, cô ta lại buồn rầu nhìn xuống đất để âm thầm tự hứa sẽ lên ga đón chiếc tàu sắp đến. Trong lúc ấy thì sau lũy tre già, con tàu ngạo nghễ phụt vài lớp khói lên không và thét lên một chuỗi tiếng dài để ra oai với quãng đường muôn dặm.

Qua mùa đông năm sau, giữa một đêm mưa gió dầm dề, cô Duyên chợt tỉnh nghe bên ngoài có tiếng gọi. Cô ta đưa hai tay dụi mắt rồi sờ soạng trong bóng tối để tìm lối đi.

- Cô Duyên ơi! Cô còn thức hay ngủ?

Nhận được tiếng thầy Trưu, cô Duyên mừng quá run cả người. Cô ta phải vịn vào cột để giữ hơi thở mạnh và để lấy giọng điềm nhiên trả lời:

- Thày Trưu đấy phải không?

Bên ngoài tiếng thầy Trưu đáp lại hơi run run:

- Phải tôi đây, cô mở cửa nhanh cho tôi vào với.

Tấm cửa tranh vừa mới hé mở thì thầy Trưu nhanh nhẹn bước chân vào. Một luồng gió tràn vào mạnh đã làm tắt cây đèn để trên ngựa. Cô Duyên loay loay đi tìm diêm để thắp lại. Cây diêm đã kề ngọn lửa bên bấc, nhưng vì tay cô Duyên run quá nên cây đèn vẫn chưa chịu đỏ.

Lúc ánh sáng lù mù đã toả ra khắp nhà, thầy Trưu mới đến vắt cái áo tơi trên lưng ghế, rồi đăm đăm đứng nhìn cô Duyên không chớp mắt. Gương mặt cô Duyên tuy không tươi bằng trước, nhưng cái duyên xưa, cái duyên mộc mạc trên đôi môi hồng thắm, trên cặp má núng đồng liền vẫn còn mơn mởn như đoá hoa hồng buổi sáng. Thấy đồ đạc trong nhà ngổn ngang và đầy bụi bặm, thầy Trưu cũng đủ biết cảnh nhà cô Duyên ra thế nào rồi. Biết cô Duyên ngượng vì mình đứng nhìn quá lâu, thầy Trưu đưa tay phủi bụi mưa trên cái mũ dạ để tìm vài câu hỏi.

Sau một lúc đứng yên, thầy Trưu ngập ngừng lên tiếng trước:

- Độ này cô làm ăn có khá không?

Được nhịp ngẫng đầu lên, cô Duyên đưa cặp mắt nhung nhìn thầy Trưu từ đầu xuống chân, rồi e dè sẽ đáp:

- Làm gì mà khá bằng trước được.

Thầy Trưu cũng biết mình đã hỏi một câu thừa nên đứng yên không hỏi nữa. Thấy bút nghiên chữ Hán để bên cây đèn, thầy Trưu sực nhớ đến người em trai của cô Duyên nên vội hỏi:

- Em Nhàn năm nay lên lớp mấy rồi?

- Em Nhàn đã trở lại học chữ Hán mấy tháng nay.

Ngạc nhiên thầy Trưu hỏi dằn từng tiếng:

- Học chữ Hán?

- Vâng, vì sách học chữ Pháp bán đắt tiền quá, nhà nghèo em mua không nổi.

Nhận thấy cảnh túng bấn của cô Duyên, thầy Trưu ngậm ngùi thở dài, yên lặng.

Biết mình vô tình để thầy Trưu đứng lâu quá, cô Duyên xoa tay tươi cười nói:

- Mời thầy ghé ngồi tạm đã.

Như người tỉnh mộng, thầy Trưu giật mình đưa trái cánh tay nhìn đồng hồ rồi nhìn cô Duyên nói khẽ:

- Cô Duyên ạ, tôi cũng không ngờ đêm hôm nay lại gặp được cô. Vì hôm qua được giấy đổi ra Vinh, tôi phải đáp chuyến tàu suốt đi liền. Nhưng gần đến trước ga tạm Mỹ-lý, con tàu lại bị chết máy. Thừa dịp ấy tôi vội vàng xuống thăm cô. Thật tôi không ngờ quán của cô lại còn ở đây.

Cô Duyên nghẹn ngào nhìn thầy Trưu. Cô đang thầm cảm ơn Trời Đất đã bắt con tàu chết máy, thì văng vẳng ở bên đồng xa, tiếng còi tàu lại thét lên trong đêm vắng.

Thầy Trưu giật mình cúi xuống vớ cái áo tơi rồi tiến đến nắm tay cô Duyên cúi đầu sẽ nói:

- Máy tàu họ đã chữa được rồi. Thôi xin chào cô, ngày gặp gỡ trăm năm xin chờ hôm khác.

Nói xong thầy Trưu quay lưng đi ra cửa thật nhanh để dấu hai hàng lệ đã tràn trề trên má, trong lúc cô Duyên đứng chơi vơi nhìn theo với cặp mắt đẫm lệ và với tấm lòng tan nát.

Ngoài trời hạt mưa đêm vẫn còn rì rào trong bụi tre gần bên quán.

Từ đấy về sau, mỗi lần chuyến tầu đêm đi qua trước sân ga Mỹ-lý, cô Duyên lại tưởng trái tim cô ngừng đập. Vì lúc nào cô ta cũng tưởng tượng đến ở máy tàu ngừng kêu, và bên ngoài có tiếng người gọi cửa.

Nhưng sự thật thì con tàu vẫn vùn vụt đi qua giữa những cảnh đồng hoang vắng, giữa những đêm mưa gió dầm dề, lạnh lùng và mãnh liệt.

➖➖➖