Tiểu thuyết chiều thứ Bảy

  1. Trang chủ
  2. Danh mục
  3. Hỏi - Đáp

 
 
Tiểu thuyết chiều thứ Bảy, Số 107 đăng ngày 2021-10-30
***
Quê Mẹ (Con ông Hoàng, Quê bạn, Một làng chết)
Tác giả: Thanh Tịnh
Nhà xuất bản Bút Việt, năm 1975
~
Con ông Hoàng
Quê bạn
Một làng chết


CON ÔNG HOÀNG

Ở chính giữa làng Mỹ-lý và đối diện với đình làng Mây bên kia sông, là cái Phủ nguy nga của ông Hoàng Thiên-Ý. Ông Hoàng này oai quyền hống hách một thời xưa. Ông Hoàng qua đời đã lâu, con cháu ông ta không có mấy, nên cảnh Phủ càng ngày càng tiêu điều.

Lúc còn nhỏ tôi biết được ông Hậu là con ông Hoàng và anh Vân là con ông Hậu. Anh Vân học với tôi một lớp, người xanh xao và yểu điệu như con gái. Anh ta thường dẫn tôi về Phủ chơi luôn. Ông Hậu năm ấy đã trên năm mươi tuổi, người lùn, trán hói, và đầu tóc bạc phơ. Ông tử tế lắm. Mỗi lần thấy tôi đến chơi ông niềm nở hỏi han như con cháu trong nhà. Trước sân Phủ có mấy cây ổi lớn nên tôi nhớ lại thăm anh Vân luôn.

Phủ tuy cao rộng thênh thang nhưng lúc nào cũng tối tăm và ảm đạm. Những cảnh cửa trước tiền đường không mấy khi thấy mở. Bầu không khí ở trong vì vậy trở nên nặng nề khó thở.

Trước kia tôi thấy trong Phủ có lắm vật cổ quí giá và đẹp mắt lắm. Nhất là những chiếc lư hương bằng ngọc hay là những cành hoa bằng bạc chạm. Nhưng bao nhiêu vật báu ấy dần dần biến đi đâu mất. Tôi hỏi anh Vân thì anh lúng túng đỏ cả mặt. Tôi hiểu ý nên không hỏi nữa. Tuy vậy trước sân nhà ông Hậu lúc nào cũng thấy đầy hoa tươi cỏ đẹp. Ông ta phong lưu lắm. Có lúc tôi gặp ông ngồi uống rượu dưới giàn hoa lý hay chép vần thơ trên một ngọn lá đào.

Cả ngày ông ta không làm gì hết. Ông ta chỉ đi tỉa hoa hay vác cần ra ngồi câu bên bờ sông Hà-nội. Tôi nghe ông ta có ăn lương tháng nhưng không biết bao nhiêu.

Thỉnh thoảng tôi có gặp ông ta đi chơi trong các lối xóm. Ông đi đứng ra chiều nhàn hạ lắm. Đi ra ngoài thì ông ta thường mặc áo gấm, bịt khăn điều, và cầm gậy tre bịt bạc. Nhưng ở nhà thì ông ta mặc giản dị hơn. Một hôm tôi đã thấy trên áo ông ta có chữ thêu. Tôi tưỏng là áo gấm nhưng nhìn kỹ tôi mới biết đó là bức trướng thêu thường treo giữa nhà.

Anh Vân thì lúc nào cũng thấy mặc cái áo đen dài bạc màu. Một hôm tôi đến gọi anh đi học thì thấy anh ta đang ngồi vá áo. Ông Hậu thấy tôi vào thì giả vờ mắng anh Vân:

- Thật tánh thằng con lạ quá. Áo quần để đầy rương mà không đem ra mặc cứ bo bo giữ lấy cái áo đen đã cũ nát.

Anh Vân đứng dậy rũ áo không vá nữa. Anh nhìn tôi mỉm cười nhưng tôi thấy hai má anh đỏ gắt.

Lúc sắp đi học, ông Hậu liền gọi anh Vân đến gần nói lớn:

- Chiều đi học về con nhớ ghé lại nhà ông Huyện Phong mời ông ta đến đánh cờ với chú nhé.

Anh Vân cúi đầu dạ rồi cùng tôi đi đến trường.

Nhưng lúc bãi học tôi cũng không thấy anh Vân ghé lại nhà ông Huyện. Và lúc tôi với anh về Phủ, tôi cũng không nghe ông Hậu nói gì hết.

Cảnh Phủ càng ngày càng tiêu điều, còn phía trong thì càng thấy rộng thêm mãi. Bát lư hương sành đến thế bát lư hương ngọc, và cách vài tháng sau tôi chỉ còn thấy bát lư hương gỗ. Bao nhiêu cột trong Phủ đã thấy trống trơn và cũ nát, vì chung quanh thân cột không có vật gì bám váo để bận mắt nữa.

Qua năm sau lên lớp nhất, Vân thường vắng mặt lắm giờ sử ký. Thầy trách anh Vân biếng học nhưng tôi thì hiểu anh ta lắm. Anh ta không có tiền mua quyển sách sử ký.

Một buổi trưa chủ nhật đến nhà anh Vân chơi, tôi thấy ông Hậu đang sai đứa ở đi bắt gà. Tôi cũng cởi áo đi theo anh Vân chận bắt mấy con gà ấy. Sau hai giờ chạy quanh vườn, chui qua bụi chúng tôi mời nhốt được bốn con gà trống tía vào trong lồng. Hôm ấy tôi ở lại chơi với anh Vân gần tối mới về.

Tôi ngạc nhiên hết sức lúc thấy bốn con gà trống tía của ông Hậu lại ở trong chuồng gà nhà tôi. Tôi hỏi thì mẹ tôi bảo gà của ông Hậu đem lại biếu. Tôi đang phân vân chưa hiểu thì mẹ tôi mỉm cười nói tiếp:

- Rồi nhà mình biếu lại ông ta một thúng gạo.

Tôi thấy cảnh nhà anh Vân túng thiếu nên thương hại vô cùng. Nhưng ông Hậu lúc nào cũng thấy nhàn hạ và say sưa trọn ngày. Ông thường cười nói vang nhà hay hát những câu «Tẩu Mã» đã quên lửng đi nhiều đoạn.

Dầu ông Hậu đã hết lòng giấu kín, nhưng sự túng bấn ở nhà ông đã dần dần lộ ra ngoài. Người ta biết ông Hậu sở dĩ muốn tươi tỉnh là để giữ thể diện.

Có lúc ông Hậu đã hào hiệp đến quên cả mình.

Người lính hầu cận của ông Hoàng ngày xưa một hôm đến thăm ông Hậu và đem đến biếu một cân mứt và hai lượng trà. Ông Hậu nhất định từ chối, không chịu lấy, người lính không nản chí kêu nài mãi:

- Nhờ ơn đức ông xưa con mới lên làm được phó quản, ơn ấy con xem như trời như biển. Nếu ngài không nhận chút lễ mọn này thì con không bao giờ dám đến thăm ngài nữa.

Để người ta ép nài quá nghe cũng chướng, ông Hậu dịu lời đáp:

- Hay tính thế này thì hơn. Anh đã có lòng cho tôi xin nhận và xin hết lòng cám ơn anh. Nhưng anh phải nhận lại vật này để cho mấy cháu nhà anh mới được.

Nói xong ông Hậu móc túi lấy ra hai đồng đưa cho người lính. Biết từ chối cũng không được, viên phó quản đành cúi đầu đưa hai tay nhận lấy.

Bắt đầu từ hôm ấy mỗi lần đến Phủ chơi, tôi đều thấy ông Hậu ngồi nhắm mứt với nước trà. Theo anh Vân thì đó là buổi cơm hàng ngày của nhà anh, vì số tiền cuối cùng ông Hậu đã đưa cho viên phó quản hết.

Nhưng ông Hậu vẫn không thôi cho người ngoài biết nhà ông vẫn còn sung túc.

Lệ hàng năm cứ đến gần Tết là ông Hậu bỏ nhà đi đâu hơn vài tuần.

Chính anh Vân cũng không biết ông đi đâu. Có người nói ông ta đi thăm rể và con gái ở Qui-nhơn. Người khác lại nói ông ta lên tỉnh để sắm đồ Tết.

Mấy ngày trước Tết năm ấy tôi được đi với mẹ tôi lên tỉnh. Tỉnh thành xa làng Mỹ-lý hơn ba mươi cây số và phải đi qua năm sáu chuyến đò. Ba bốn năm tôi mới được đi một lần.

Ngày ấy cảnh tỉnh thành đối với tôi tươi sáng quá. Tôi đi xem ngót nửa ngày mà không thấy mỏi chân.

Trước thềm một căn phố bán giấy hoa, tôi bỗng chú ý đến một cụ già đang ngồi viết chữ thuê. Một bọn trẻ đứng vây chung quanh nhìn ông ta viết một cách lơ đãng. Chữ ông ta viết đẹp lắm tuy lúc viết bàn tay hơi run run. Viết xong ông ta lại ngồi nhìn mấy câu liễn hay lấy ít viên sạn chận lên trên.

Tôi bỗng giật mình lúc thấy ông ta đứng dậy uốn lưng cho đỡ mỏi. Tôi vội vàng đi thật nhanh vì sợ ông ta lại nhận thấy được lôi. Vì ông ta là ông Hậu...

➖➖➖

 

 

 

QUÊ BẠN

Hết mùa tót rã rơm khô

Bạn về quê bạn biết mô mà tìm.

(CA DAO)

Ở vùng quê, một đêm trăng. Gió thổi đều đều qua ngọn cây và lay nhẹ những tàu lá xám. Trăng sáng, và trời không mây.

Hương ngồi nấu chè trong bếp, lắng tai nghe những câu hò tình tứ của Mẫn ở ngoài sân. Hương lùa một nắm rơm khô vào bếp rồi đưa chiếc que gạt tro tàn ra, làm đều đặn như cái máy.

Hơn ba hôm nay giọng hò của Mẫn đã quyến luyến Hương và làm lòng Hương xao xuyến. Hương tự nhiên thấy buồn buồn khó tả.

Mỗi lần giọng hò của Mẫn ngân lên không, như tiếng chuông rền bay tản mác ra xa như dòng hương cuộn, Hương lại thổn thức và có cái cảm giác hơi lạ là chừng đã sống với Mẫn đâu từ kiếp xa xưa.

Ban đầu Hương mê giọng hò của Mẫn nhưng sau Hương cũng không biết Hương đã mê chính người con trai ấy hay chỉ mê riêng giọng hò. Hương cố phân biệt để xem nhưng mỗi lần nghĩ đến Mẫn, Hương lại thèn thẹn và không dám nghĩ lâu.

Hương là con gái đầu của ông cả Lai, một điền chủ giàu nhất ở làng Mỹ-lý. Lúc còn nhỏ Hương học đến lớp ba nhưng qua năm sau mẹ mất, Hương phải xin thôi học. Từ đó Hương lại giúp cha trong nghề làm ruộng. Ông Cả càng ngày càng già, nên bao nhiêu việc ruộng nương đều do tay Hương cai quản.

Hương người đều đặn nở nang, khuôn mặt tròn và cặp mắt lúc nào cũng mở lớn như ngạc nhiên. Hương lại còn có cái đặc điểm là vui tính và hiền lành. Hương ít giận ai và cũng không làm ai mất lòng. Cũng nhờ tính vô tâm, nên đã ngoài hai mươi tuổi mà Hương vẫn giữ được sự mềm mỏng và nét dịu dàng của tuổi ngây thơ.

° ° °

Năm ấy ông cả Lai xem lịch thấy thời tiết khá nên mời trai bạn ở các làng đến làm hơn ba mươi mẫu ruộng.

Trai bạn là bọn trai tráng ở các làng chung quanh vùng, có khi xa, xa lắm. Họ ở những nơi đất kém, ruộng khô, hay những vùng năng lụt lội. Họ kéo nhau đi từng đoàn trên hai mươi người, đó là những nơi nào cần đến công việc của họ.

Họ là người bốn phương, nhưng họ gặp và hiểu nhau trong một cảnh ngộ. Họ sống với nhau trong những ngày cầy cấy, gặt hái, rồi lại tản mác ra như những mảnh mây ngàn.

Xa nhau họ còn nuôi hy vọng sang năm gặp nữa. Nhưng sang năm gặp nhau là một chuyện khó. Vì quê hương của họ cách nhau xa lắm. Vả trước kia họ gặp nhau trong cảnh đồng hoang hay trong quán vắng, chứ có ai biết nhà ai đâu. Vì thế mỗi lần hẹn sang năm gặp nhau thì lòng họ đã đón trước những nỗi buồn vĩnh biệt.

Nhưng không gặp đoàn này thì họ gặp bọn người khác. Vì hàng năm cảnh làm ăn đã kéo họ ra khỏi nhà và bắt họ đi tha phương. Đời họ mỗi năm mỗi khác như rừng cây mỗi năm có một lần lá mới.

° ° °

Mẫn ở làng Lộc-giang, huyện Bình-hải cách làng Mỹ-lý hơn bốn ngày đường. Mẫn xưa kia có theo học chữ nho nhưng lỡ thời. Ban đầu Mẫn định mở trường dạy học trong làng nhưng thấy chữ nho không ai dùng nữa nên nhập với bọn trai bạn đi làm ăn. Mẫn đi xa làng lần đầu và cũng lần đầu Mẫn nếm qua cái đời trai bạn.

Mấy hôm theo chúng bạn ra đồng gặt lúa hay về nhà xây độn rơm, Mẫn thấy lòng vui vẻ và ăn cơm ngon miệng. Cũng có khi giữa buổi làm việc Mẫn tự nhiên thấy nhọc lả người và hai hên thái dương lùng bùng như bị cảm gió. Mẫn lại ngồi trên bờ ruộng để tìm nước uống.

Mùi lúa chín và hơi gió nhẹ dần dần làm Mẫn khoan khoái và tỉnh tảo như trước. Mẫn lại cất giọng hò lanh lảnh hay vui miệng nói đùa để chọc cho người chung quanh bật cười. Mẫn đi đến đâu là trận cười đi theo đến đó.

Hương lắm lúc muốn làm mặt nghiêm nhưng cũng khó nhịn cười trước lắm câu khôi hài ý vị của Mẫn. Nhờ tài khéo pha trò, Mẫn đã dần dần quen thân với cô con gái nhà chủ. Những lối hài hước của Mẫn làm Hương cười thì giọng hò của Mẫn lại làm Hương buồn thắm thía.

Một thứ cảm tình đằm thắm gây nên từ đó. Hương mỗi ngày mỗi quí mến Mẫn hơn lên.

Đêm ấy trời có trăng. Mẫn cho trâu đạp lúa ngoài sân với trai bạn. Giờ càng khuya giọng hò của Mẫn nghe càng thâm trầm bi thiết. Hương nấu chè xong sai đứa ở múc vào chén rồi đem ra sân. Giũa sân đã có ba chiếc chõng tre trải chiếu sạch sẽ. Hương đứng nhìn mấy mâm chè đã để hẳn hoi trên chiếu giữa sân nói lớn:

-Thôi mời anh em nghỉ tay vào ăn chè.

Mẫn tự nhiên ngừng bặt giọng hát, hỏi:

-Cô Hương nấu chè gì đấy?

Hương mỉm cười khôi hài:

-Chè để ăn.

Mẫn nói liếp:

– Chẳng lẽ nấu chè lại để uống à?

Hương đưa cánh tay che miệng cười:

- Ô hay! Anh Mẫn quên rồi à! Nấu nước chè tàu chẳng để uống thì để làm gì?

Một người bạn đứng đằng xa tinh nghịch:

– Để uống trong tiệc cưới đấy!

Hương bẽn lẻn nhìn xuống đất, Mẫn nói chữa ngượng:

– Thôi ăn với uống cũng như nhau, miễn no bụng là được.

Nhưng Hương vẫn chưa chịu thua:

- Uống thì no bụng thế nào được. Ăn mới no thôi chứ.

Nói xong thi Hương cười nức nở. Mẫn cũng cười theo. Mấy người khác biếng cười nên lẳng lặng đến bên mấy mâm chè khói bay lên thơm phức. Họ đua nhau ăn ồ ạt và vui vẻ.

Trời càng khuya trăng càng tỏ. Tiếng nói qua lại dịu dần cho đến lúc câu chuyện thành nhạt nhẽo vô duyên thì ai nấy đều im tiếng. Cảnh vật của trời đêm lặng lẽ bao vây giấc ngủ say sưa của mọi người.

° ° °

Hôm sau trên dòng sông Viêm hơn mười chiếc thuyền chở đầy lúa trôi nhanh về làng Mỹ-lý. Trên mỗi thuyền có năm người chèo. Họ đặt ra cuộc đua tài, thách nhau thuyền nào về trước thì được giải. Giải đơn sơ lắm: chỉ có một chai rượu trắng và hai con mực khô. Những trai bạn cũng vui lòng đua; họ cốt lấy tiếng. Nhất là hôm ấy cô Hương đi theo nên họ không muốn mất giá trị trước một cô chủ trẻ tuổi.

Người cố gắng sức hơn hết là Mẫn. Mẫn đứng cầm lái và không dám để lơi một mái chèo. Dòng sông hẹp, mười chiếc thuyền cứ đuổi nhau, chạm vào nhau thành nhũng tiếng mạnh và ngắn.

Họ vừa chèo vừa hát làm vang động cả một dòng sông. Hai hên bờ sông người làng ra đứng xem đông nghịt và trong số đó một bọn người lớn tiếng hát theo để phấn khởi bọn trai tráng dưới thuyền.

Thuyền của Mẫn chiều hôm ấy giật giải nhất. Hương vui vẻ đến đứng bên Mẫn rồi ấp úng nói sẽ:

-Anh được giải, thật em bằng lòng anh lắm.

Mẫn tươi cười:

-Cô bằng lòng tôi thật à?

Hương biết mình nói hớ nên hai má đỏ bừng. Một lát sau Hương cúi đầu thì thầm:

– Thôi anh vào ăn cơm chẳng đói.

Mẫn có ý khoe khoang. Anh chàng kiêu hãnh một cách ngây thơ và nói một câu rất mộc mạc:

-Tôi còn đi ăn giải đã chứ.

Hương nhìn Mẫn có vẻ không hiểu. Mẫn nói tiếp:

-Nghĩa là tôi ăn con mực và uống chai rượu người ta thưởng cho ấy mà.

Hương làm bộ nũng nịu:

– Em không bằng lòng anh uống rượu đâu.

Mẫn híp mắt lại cười:

– Thế sao hồi nãy cô bảo cô bằng lòng tôi!

Những lời trao qua đổi lại toàn là những câu khôi hài nhạt nhẽo nhưng lòng Hương thì tưng bừng như ánh trời buổi sáng. Hương sung sướng được Mẫn để ý đến mình và xem mình như bạn thiết. Hương không e lệ nữa, cô đã can đảm nói một câu mà tưởng không bao giờ cô dám nói ra.

-Em bằng lòng anh thật, nhưng anh uống rượu thì không.

Mẫn làm ra vẻ bung hăng một cách khôi hài

-Không bằng lòng mà được à, tôi thì cứ ...

Hương ngước mắt nhìn Mẩn:

– Tôi làm gì?

-Tôi không uống rượu nữa.

Hai người nhìn nhau cười chúm chím, trong lòng nao nức vui.

° ° °

Qua tháng sau rơm đã thành độn, lúa đã nằm yên trong vựa, và trai bạn sau một bữa cơm ngon lành do ông Cả thết đãi, đã từ giã làng Mỹ-lý ra đi.

Ban đầu họ nối chân nhau đi thành một đoàn dài, nhưng qua mỗi làng, lại có một đôi người rẽ đường đi về quê hương của họ.

Hôm thấy trai bạn cất hái lên vai sắp đi, Hương chạy ra sau bụi chuối đứng khóc. Mẫn đứng sau đống rơm thấy Hương khóc cũng tấm tức khóc theo.

...Và từ đấy dòng sông Viêm phẳng lặng, đồng làng Mỹ-lý vắng teo, trai bạn đi, lòng Hương bơ phờ như cảnh vườn hoang chờ gió lạ.

➖➖➖

 

 

MỘT LÀNG CHẾT

Tâm đi giữa hai hàng tre cao vút và dẫm chân lên bóng mình đang in dài trước mặt. Tâm thấy hay hay và vui chân dẫm lên mãi. Tâm thấy đi cách ấy thì quên đường xa và ngỡ mình đang nện gót nhịp nhàng theo tiếng kèn binh tưởng tượng. Thỉnh thoảng Tâm lại đổi chiếc va-li sang tay cho đỡ mỏi.

Thấy đường đi bằng bùn khô mặt láng và trơn, Tâm muốn tuột đôi giầy để đi chân trần cho mát. Nhưng tưởng cử chỉ ấy sẽ làm người qua đường bật cười, nên Tâm không nghĩ đến nữa. Nhưng mỗi lần thấy vài người vùng quê đi chân không trên mặt đường mát rượi, Tâm lại thèm thèm như được trông ai ăn quả chua.

Được mấy ngày nghỉ, Tâm định về quê thăm thầy mẹ. Nhưng chuyến xe hơi Tâm đi lại chết máy ngay giữa quãng đồng Hoa-lai. Tâm cho xe còn vượt thêm mười cây số nữa mới đến làng Mỹ-lý. Các hành khách khác đều tìm bóng cây để núp nắng và chờ họ chữa máy xe. Nhưng Tâm không hy vọng gì về sự chữa chạy ấy. Tâm nhận thấy máy xe hỏng nặng lắm và chữa nhanh nhất cũng đến chiều tối mới xong.

Tâm trả tiền xe lấy cớ đi thăm người bà con ở gần đấy. Kỳ thật Tâm muốn qua thăm làng Đồng-yên, một làng vừa rộng lớn vừa phồn thịnh nhất ở vùng ấy.

Năm lên tám tuổi, Tâm đã đến ở trong làng này hai năm lúc bà ngoại của Tâm còn sống và có mấy sở nhà ngói cho thuê ngay trước chợ. Cách tám năm tiếp, Tâm chưa tìm ra được dịp nào để trở về thăm quê ngoại. Một phần tại bà của Tâm đã qua đời, phần khác nhà cửa của bà Tâm ở Đồng-yên đều bán cho người ta hết.

Nhưng lòng Tâm thì ao ước trở về quê ngoại mãi. Vì ở đấy Tâm được một bà ngoại hiền từ nâng niu và đã thấy những cảnh náo nhiệt tưng hừng mà chính làng Tâm không có. Tâm còn nhớ rõ ràng cái rạp hát bộ thênh thang dựng trên bờ sông và mấy cái quán ngói huênh hoang che hai mặt chợ. Cứ đến tối, tiếng trống chầu lại nổi lên tản mác vọng ra xa nghe như sóng dội. Một vài tiệm khách đã chưng đèn măng-xông, ánh sáng toả ra tươi và dịu. Đèn ấy đã quyến được nhiều con thiêu thân cũng như đã kéo lại lắm người vùng quê tò mò hay ngơ ngác. Tối nào Tâm cũng đến xem có khi khuya quá bà ngoại Tâm đến kêu mới chịu về.

Mỗi lần nhớ đến quãng đời thơ ấu ấy, Tâm lại cúi đầu mỉm cười, hai má đỏ lên và thèn thẹn.

Hôm nay tình cờ Tâm lại nắm được dịp về làng Đồng-yên mà Tâm chắc là sầm uất hơn trước nhiều. Tâm định ở lại trong làng vài giờ để thăm vài nhà quen và luôn đường lên ga gần đấy đợi chuyến tàu về Mỹ-lý.

Trời sắp đứng trưa, bóng của Tâm in trên đường đi đã ngắn dần. Qua khỏi miếu Thần Đá làng Triêu, Tâm liền rẽ về con đường mòn tăm tắp chạy dọc theo bờ sống Vực.

Từ đó Tâm không dẫm chân lên bóng mình nữa. Vì chính cái bóng của Tâm cũng đã bổ chênh về một bên. Tâm vừa đi vừa nhìn vơ vẩn mấy túp lều tranh bên kia sông hay dõi theo dáng điệu uyển chuyển của mấy cô gánh gạo ở chợ xa về.

Vừa tầm tay, Tâm ngắt một đoá hoa lài vươn ra ngoài bụi hóp. Nhưng đi một quãng xa, Tâm lại vui tay gắm trên đầu một chiếc gai tre.

Quá một giờ trưa. Tâm mới về đến làng Đồng-yên. Qua khỏi cổng làng, Tâm giật mình đứng dừng lại. Tâm hơi ngạc nhiên và không tin ở cặp mắt mình. Mấy hàng tre bao quanh đình không còn vẻ tươi tốt của thời xưa nữa. Chính cái đình cũng bị hư nát và sập đi một mái. Tâm chắc lưỡi thở dài băn khoăn như người thấy chính nhà mình hư hại. Đường đi hê hủng nhiều đoạn và không rộng rãi như trước. Cỏ đã lan ra chiếm cả mặt đường. Và xa xa Tâm thấy mấy cụm nhà đen ngòm in dưới mấy hàng cây rậm lá. Phía ấy trước kia là chợ, nơi ấy tấp nập nhất ở làng. Tâm lẳng lặng cất bước về phía ấy lòng hồi hộp như sợ những cảnh điêu tàn sắp phơi ra trước mắt. Tâm mong gặp một người qua đường để hỏi chuyện. Nhưng Tâm đã lạc vào cảnh không người và chính người Tâm lại như người ma hiện về trong gió chết. Thỉnh thoảng sau đình lại đưa vội ra vài tiếng cú như cắt đứt bầu trời yên lặng ra nhiều quãng. Tâm cảm thấy lòng mình như nặng trĩu. Trời đất có vẻ u ám và nắng vàng như đọng lại trên tàn cây.

Tâm đi chậm rãi ngửa mặt đón gió mát cho lòng đỡ nặng. Nhưng không may, Tâm chỉ đón thêm những nỗi buồn. Càng về phía chợ, Tâm càng thấy lòng u uất. Phố sá hai bên đường đều hư sập, đen điu và đầy bụi bặm. Không khí ở đây nặng nề quá gần như không thở nổi. Cái đình chợ đã biến thành một đống vôi gạch đầy rêu cao ụ sụ. Cái rạp hát bằng tranh sập khum khum giữa vườn chuối héo, xa trông như một cụ già gắng bò ra bờ sông uống nước, nhưng không bao giờ dậy nổi. Gió như đứng lại, nước không trôi và vẻ sống chung quanh đã từ lâu ngừng trệ. Nỗi buồn cứ nhè nhẹ đi sâu vào lòng Tâm.

Trước cảnh hoang phế, Tâm muôn quên hẳn những cảnh tươi xưa và không dám đem ra so sánh. Nhưng trí Tâm cứ vẩn vơ nghĩ đến mãi

Mặt trời đã cạn dần ánh sáng. Tiếng động bắt đầu rì rầm trên quãng mây xa. Vòm trời hạ thấp xuống và không khí dày đặc thêm lên.

Cảnh chung quanh đã đen tối sẵn lại nặng nề u uất hơn. Tâm lững thững đi lên phía ga để đợi chuyến tàu chiều. Mới rẽ qua con đường cái, Tâm liền gặp ngay một cụ già từ xóm nứa chống gậy đi ra. Tâm mừng rỡ tiến lại đứng bên cạnh chào hỏi:

– Thưa cụ, có biết tại sao làng Đồug-yên lại tiêu điều đến thế không?

Cụ già ngẩng mặt nhìn Tâm có vẻ kinh ngạc rồi dịu giọng đáp:

– Vì phần nhiều người làng Đồng-yên là dân đến ở ngụ. Cách đây hai năm, đậu trời tràn ra khắp làng và giết hại không biết bao nhiêu nhân mạng. Họ lần lượt kéo nhau đi ở nơi khác nhất là về mạn Thường-sơn.

Cụ già nhìn lên trời rồi với giọng ái ngại nói tiếp:

– Trời sắp mưa rồi đấy, ông đi nhanh chẳng ướt.

Tâm chào cụ già rồi gấp bước đi lên ga Đồng-yên. Tuy bước nhanh, Tâm vẫn cảm thấy nặng cả lòng và như có sức mạnh gì cản lại. Đã biết không có mồ hôi trên trán, Tâm vẫn đưa chiếc khăn tay lên lau. Những ý nghĩ lờ mờ không đâu cứ lần lượt hiện lên rồi tự xoá nhoà trong trí Tâm. Một luồng gió mát từ phía ruộng đưa lên sực nức cả mùi hoa dại. Tâm ưỡn ngực hít dài và thấy tâm hồn như bớt nặng.

Trên con đường dốc lên ga, Tâm đạp đùa trên những ngọn lá bàng khô nghe rôm rốp. Tâm nghi ngờ như tiếng vỡ của chính lòng Tâm.

Mới đến trước sân ga, Tâm đã rùng mình dừng lại. Nhà ga chừng đã bỏ phế từ lâu và mấy buồng giấy cỏ mọc lên um tùm như bụi rậm. Chung quanh ga, mấy nền nhà cũ lộ hẳn lên như bàn cờ giữa vùng cỏ may thấp ngọn. Trời bắt đầu mưa, giọt rơi đều và nhẹ. Tâm díu mày lại và cảm thấy ươn ướt trên hàng mi.

Như bắt được hơi mưa, một bầy kiến cánh tự trong nhà ga là đà bay ra sân. Nhưng chỉ được một quãng, nước mưa đã thấm ướt cánh và đàn kiến thất vọng rơi nhào xuống đất.

Dưới hiên ga hoang vắng, Tâm ngao ngán nhìn về làng Đồng-yên qua màn mưa chiều rỉ rả.

➖➖➖