
Chương IX
Trong chiếc hũ, một đêm...
Ngọn đèn xe đu dưới tay bạn tôi như một con đom đóm vật vờ. Trèo qua một con đê cao chừng năm thước ta, chúng tôi đi xuống một cái vực sâu, tối om như một cái mả.
Dãy đèn điện đường Đồn Thủy, không còn trông thấy nữa. Bị dải đê dài che lấp, nó tỏa ra trên đầu chúng tôi một vầng phớt sáng, buồn ghê...
Theo bước chân bạn, tôi cũng bước một, lần đi. Trời không sao. Quanh mình tôi vang rầm những tiếng chẫu chuộc, ĩnh ương, giun, dế.
Bãi Cơ Xá Nam đó!
Cái tổ của một bọn người nghèo khổ. Cái sọt rách chứa đầy rác rưởi dưới chân những dinh thự nguy nga!
Không một ánh sáng. Không một vết xe. Ánh sáng văn minh rọi đến đây đã bị cái tường đất ngăn đi.
Bánh xe tiến hóa lăn đến đây cũng bị dải đê dài cản lại.
Thế mà có một giống đã vượt qua, vào nổi!
Con ma thuốc phiện nó chắp trên lưng hai cái cánh màu hung đỏ đồi mồi. Cô ả phù dung, cái tên đẹp, người ta thường quen gọi.
Thì đêm ấy, tôi đã thấy ả phù dung nằm đấy, trong một gian nhà lá vách xiêu cột vẹo, chật như cái hũ, chứa đến chục người.
Tôi khom lưng xuống, chui qua một khung cửa cao không hơn một thước tây. Bạn tôi trỏ tôi cho anh Tư S., người nằm cạnh cái khay đèn, rồi vừa cởi chiếc áo xanh mặc ngoài vừa nói:
- Đây, người này muốn ngủ đỗ ở đây.
Tôi gật đầu chào, đưa hai đồng xu vừa móc ra khỏi túi.
Người nằm bên khay đèn ngóc cổ giơ tay đỡ lấy, nín thinh, lạnh lẽo, không buồn nói lấy nửa lời.
Anh ta chừng 40 tuổi, xanh mà gầy. Hai mắt trũng sâu, hai cánh tay như ống sậy. Mảnh quần nâu vén lên quá gối để phô ra hai cẳng chân cũng chẳng béo gì hơn hai cánh tay.
Chẳng được một tiếng mời, tôi cũng cứ ghé vào chiếc giường giát anh ta nằm hút thuốc phiện, mà ngồi.
Thử hết một hơi khói dài, người ấy ngồi lên, đưa hai đầu gối lên khỏi mang tai, tháo cái lọ ở chiếc xe ra, phanh ngực, vén tay áo lên đến vai, nạo xái.
Góc đàng này, trên một tấm chiếu manh, mấy người khác, toàn đàn ông, người mặc áo, người cởi trần, đang châu đầu quanh một ngọn đèn bốc khói. Rầm rầm những tiếng: Rút! Lật! Bất! Mẹ nó, cha mày.
Họ quây quần nhau đánh bất, đánh đố mười.
Phu xe bóc lột phu xe; gà què ăn quẩn cối!
Một mụ đàn bà ôm con nằm trên chiếc võng khuất trong bóng tối, chốc chốc lại ngoái cổ ra, dài mồm mà hỏi:
- Anh Cá gỗ được, haaay aiii?
Người bạn xe kéo của tôi, lúc ấy cũng đã sà vào đám rút bất rồi. Còn lại một mình với anh Tư, thừa dịp, tôi tỉ tê, hỏi:
- Một ngày, ông hút hết bao nhiêu cả thảy?
Lắp xong chiếc lọ, anh ta ngẩng lên nhìn tôi:
- Bác này, dễ mới đến đây có lần này?
- Phải, hôm nay tôi mới đến đây vì có bác xe vừa rồi đưa lại.
- Tôi trông bác như người đã ở Hà Nội lâu thì phải.
- Không, tôi mới ở Thái xuôi được vài buổi nay.
Với chiếc điếu cày dựng ở chân chõng, anh Tư cầm rít một hơi dài. Chẳng để thì giờ cho anh ta xét đoán tôi, tôi lại hỏi:
- Một ngày, ông hút hết bao nhiêu cả thảy?
Nghiêng mình nằm xuống, anh Tư mời tôi cùng nằm chơi. Xọc mũi tiêm vào viên xái hơ lên đèn, anh Tư vừa xọc tiêm vừa nói:
- Hai hào một bữa, một ngày tôi chỉ hút một bữa về đêm thôi. Thuốc ngang hút được nhiều mà bền xái.
- Hút như thế này thì ông đánh đến xái mấy?
- Xái ba, cũng có khi cả xái tư, chứ xái xảm thì hại mà sức tôi cũng không kéo nổi.
- Hai hào, mỗi tháng ông cũng mất đến sáu, bảy đồng vào đấy.
- Không đến, xái tôi còn nấu lại, mỗi tháng cũng đỡ được vài đồng cân.
- Hút thế này, chắc ông phải nghỉ làm đêm?
- Không, tôi chỉ mua lại xe, kéo đêm. Ban ngày nắng nôi, vất vả lắm.
- Kéo đêm thì còn lúc nào hút được?
- Hai giờ sáng đem xe trả. Tôi cũng vừa về đây trước bác được một lúc. Hút từ giờ đến sáng. Ăn xong, ngủ đến năm giờ chiều, dậy ăn bữa nữa rồi đi làm.
- Tiền thuế, tiền hút, lại tiền ăn; kéo có bảy, tám tiếng đồng hồ, ông kiếm đủ làm sao được?
Tôi hỏi chuyện, anh ta thì vừa hút vừa đáp. Cái vẻ lạnh lẽo lúc này đã mất hẳn. Nghe tôi hỏi câu ấy, anh ta chỉ cười mà không trả lời.
Thấy tôi không hỏi nữa, anh Tư đưa mắt sang bên tôi. Cạnh ngọn đèn thuốc phiện, có lẽ tôi đã lộ một vài phần chân tướng rồi vì lần này, tôi nghe rõ anh ta hỏi:
- Tôi trông người bác không đến nỗi làm cái nghề này thì phải. Bác ra làm xe đã được mấy hôm nay?
Chẳng sợ bị anh ta lột mặt nạ, tôi cứ điềm nhiên, làm ra bộ thật thà, trả lời:
- Phải? Người tôi như thế này, ai bảo tôi đến nỗi phải long đong, vất vả. Ở trên Thái, nhà tôi trước cũng có. Thủa bé, được cha mẹ nuông, tôi chẳng học hành gì cả. Nhớn lên, chơi bời vung phí, rượu chè thuốc xái, cửa nhà sa sút, cha mẹ giận mà từ. Về Hà Nội, tôi định kiếm một nghề. Nhưng chữ nghĩa không có, dở ông dở thằng, chẳng kiếm được nghề gì. Đói, đầu gối phải bò. Người ta bảo tôi đi làm xe. Tôi nghĩ dở dang như tôi, cũng chẳng còn nghề nào khác.
Đám rút bất đã tan. Trời đã gần về sáng.
Trên mấy chiếc giường tre ọp ẹp, hơn mười người xe sát phạt nhau lúc nãy cũng đã nằm lăn ra như chết, làm mồi cho đám muỗi cỏ nó bu lại đầy mình.
Bên chiếc khay đèn khốn nạn, nằm tiêm thuốc cho anh Tư hút, tôi đã thành ra một bạn thân của anh.
Qua những tiếng trẻ khóc, những tiếng ngáy ran của lũ chết giả ở giường bên, chúng tôi vẫn nhỏ to câu tâm sự.
Suốt đêm ấy, tôi không ngủ.
Nhân thấy hỏi về bước đời hơn mười năm trời làm nghề xe kéo, vui chuyện, anh Tư cũng kể cho tôi nghe:
‘‘Đã mười hai năm nay, bấy giờ…’’
Chương X
Cái năm hai mươi tám của anh Tư
Đã mười hai năm nay, bấy giờ tôi cũng như bác bây giờ, bỏ cửa bỏ nhà, đi vã bộ từ Thái Bình lên đây mất ba hôm, định bụng tìm lấy một nghề mà làm để lần hồi cho qua bữa.
"Bỏ cửa bỏ nhà! - Thật ra thì nhà cửa nhà tôi bấy giờ bị người ta cướp mất cả rồi, còn đâu nữa!
''Thầy tôi xưa làm ông đồ dạy chúng tôi học chữ nho ở ngay Tân Đệ. Sau vì phạm vào tội khắc con dấu giả, bị nhà nước bắt đày đi ở Sơn La rồi chết ở trên đó. Tôi, con một, nhà còn có mẹ. Mẹ tôi thương thầy tôi quá, tuổi đã già mà đêm nào cũng khóc lóc, sau cả hai mắt đến lòa. Bấy giờ nhà cửa còn vật gì, tôi đem bán lao bành cờ hiệu cả đi để lấy tiền chữa chạy cho mẹ.
''Tiền hết mà mẹ tôi, mù vẫn hoàn mù.
''Năm ấy, thật tôi điêu đứng quá, trên đẫu còn được có một nếp nhà. Tạng con nhà học trò trói chẳng nổi con gà, còn biết làm gì nuôi mẹ. Học trò của thầy tôi, bấy giờ cũng tan nát mỗi người một ngả. Cùng kế, tôi lên tỉnh, lĩnh một chiếc xe về kéo lần hồi cho qua.
''Kéo xe ở các phủ huyện, bấy giờ không như bây giờ. Đi làm xe mà vẫn mặc áo thâm dài vắt vạt lên gài vào thắt lưng, đầu lại chít khăn, đội nón sơn tử tế. Xe mình lĩnh, người ta cũng cho mình trả tiền dần rồi lấy hẳn về. Hồi ấy, ở nhà quê, người nào có được một cái xe kéo cũng không khác người có một chiếc đò. Chở đò thế nào thì kéo xe cũng thế, làm ăn tuy vất vả nhưng chẳng ai cười chê, nhất mình lại là con nhà học trò, gặp bước đường cùng, ai người ta cũng rõ.
''Hai năm kéo xe nuôi mẹ, tôi dành ra số tiền góp, cũng lĩnh được hẳn chiếc xe về. Thấy mẹ già được ấm no, tôi cũng chẳng quản gì vất vả.
''Nhưng, thật là cái số, bác ạ. Một hôm lính Đoan về khám rượu, chẳng biết thế nào lại bắt được thúng cơm bã ở sau vườn nhà. Thế là tôi bị bắt luôn đi, mà lớp nhà lá ba gian với chiếc xe cũng bị tịch ký cả.
''Tình cảnh mẹ tôi bấy giờ thế nào, lúc đi rồi, tôi không được rõ.
''Bị giam ở lao tỉnh mất ba tháng, lúc được tha về nhà thăm mẹ thì nhà đã người khác ở, mà mẹ cũng đã chết từ bao giờ.
''Hỏi bà cụ hàng nước ở ngay bến thì bà kể cho nghe: nhà tôi, chức dịch trong làng rao bán, ông Lý Cựu đã mua; còn mẹ tôi thấy tôi vướng vào cảnh tội tù, mới xa tôi được năm, sáu hôm thì chết. Làng xóm thương tình, mua cho cỗ ván gạo tống táng, còn họ hàng thì lảng xa hết, lại tiếng bấc tiếng chì.
''Tôi hỏi thăm đến chỗ chôn mẹ, rồi ngay hôm ấy, gạt nước mắt, xách khăn gói ra đi, bấy giờ bốn bể không nhà, còn biết cậy vào ai mà ăn, trông vào đâu mà ở.
“Từ Tân Đệ lên Nam, ngủ vạ ngủ vật ở ngoài đường một đêm, tảng sáng hôm sau, tôi lại đổ bộ lên Phủ Lý. Ngủ Phủ Lý một đêm ở nhà trọ, tiền ăn không có, tôi phải lạy van nhà hàng xin gán áo lại mới được người ta buông tha cho đi.
''Nghĩ chuyện trước, tôi còn xấu hổ đến bây giờ. Khốn nạn, chỉ vì ba bát cơm hẩm với mấy ngọn rau muống không đáng năm xu mà người ta chửi bới đến tiên tổ nhà mình, lại bắt cái áo thâm dài bán rẻ cũng còn được dăm hào chỉ.
''Tôi nghĩ thương thân, muốn khóc mà không còn nước mắt nữa.
''Hai mươi tám tuổi đầu!..."
... Không thấy anh Tư nói nữa, tôi ngừng tiêm lại, trông theo. Trong cặp mắt sâu hoắm như hai cái lỗ đáo ở chiếc đầu lâu, anh ta để rơi xuống mấy giọt nước mắt khô khan như pha lẫn máu.
Tôi cũng lặng thinh không nói, lại lăn tròn điếu xái trên ngọn lửa lạnh lẽo chiếc đèn dầu.
Anh Tư thì ngồi lên, xỉ mũi vào chiếc khăn tay nâu, uống xong hớp nước lại ghé nằm, chờ hút điếu xái bao tôi đang xoe vào nhĩ lọ.
Chương XI
Ngựa tìm đường cũ
Như thế, ông ở Phủ Lý đi, trong lưng chắc chỉ còn chiếc thẻ?
- Một chiếc thẻ cũ, ngay hôm đến Hà Nội đã phải đưa cho cai xe giữ. Mà may còn chiếc thẻ, không thì đã chết đói bấy giờ.
... Thoạt tiên, ông cũng đi làm xe?
- Chẳng làm xe còn làm gì! Hơn trước được cái làm xe cao su, lại được đổi bộ quần áo nâu lấy bộ quần áo lơ lành lặn.
‘‘Bấy giờ thuế xe còn nhẹ: hai hào rưỡi, ba hào một buổi từ bốn giờ sáng đến một giờ chiều; bốn hào, bốn hào rưỡi từ một giờ chiều suốt đến ba giờ sáng.
‘‘Gặp được khách luôn, kể kiếm ăn cũng dễ, nhưng phải cái vất vả lắm, khó nhọc hơn ở Thái Bình. Chịu chạy vần vật suốt ngày, có tiền ăn, lại có được năm ba xu hay hào bạc để dành riêng; còn không gặp khách hay ngại nhọc mà đủng đỉnh không chịu làm thì cũng có hôm phải bỏ tiền riêng bù vào tiền thuế, không có cai nó cũng lột quần lột áo, hôm nào mình có tiền trả đủ, nó mới cho chuộc về".
... Cai xe là những người nhà của chủ xe hay người đi làm thuê?
- "Chẳng người nhà hay làm thuê gì cả, họ chỉ được cái du côn, đầu bò đứng xin nhận với chủ xe cho thuê xe rồi ăn vào lưng cánh cu li, chứ họ, ít khi được chủ xe chi cho công xá.
‘‘Như bây giờ, suốt ngày đêm, họ lấy của cu li đồng mốt bạc thuế, buổi ngày năm hào, buổi tối sáu hào, mà mỗi chiếc xe, họ chỉ nộp thuế cho chủ xe có bảy hào, còn bốn hào thừa, họ đút túi cả. Chủ xe cũng biết thế, cu li xe cũng biết thế, nhưng vẫn phải cần đến họ vì chủ xe không thể ngày nào cũng đi lùng bắt những cu li thiếu thuế, mà cu li thì không đủ tin để chủ xe có thể giao thẳng xe cho.
‘‘Trước đã có hiệu tự chủ xe đứng lấy cho thuê, sau bị cu li trốn thuế nhiều, bỏ xe ở đường không kéo xe về; đi lùng bắt thì mất thì giờ, lại không du côn như cai xe nên cu li họ không sợ. Sau, thấy mất mát nhiều, chủ xe lại phải dùng đến cai xe, chịu để họ đứng nhận cho".
... Cu li thiếu thuế, cai xe cũng phải trả bù cho chủ ư?
- "Sao lại không phải trả, nhưng có mấy khi cai xe nó chịu thiệt bao giờ. Giờ trả xe, nó giở sổ, thấy cái nào hơi chậm về là phóng xe lết (xe đạp) đi lùng khắp phố, gặp anh nào còn chàng màng là nó túm đánh cho bỏ mẹ, rồi lại nắn lưng ngay giữa phố, vét cho đủ thuế mới thúc về. Vô phúc anh nào còn thiếu độ dăm ba xu; nó cứ quả đấm mà thoi, bất cứ vào mặt, vào ngực, vào sườn, hay vào mạng mỡ, rồi nhảy lên xe lết, kèm về cho đến tận nhà.
‘‘Người ta đã có câu ví: ác như những quân cai xe!
‘‘Chẳng ác mà chúng nó chỉ thượng sỉ hạ đạn, trông vào bát mồ hôi nước mắt của người ta mà cũng có của tậu ruộng tậu nhà; có thằng lập nổi dinh cơ, nuôi tám, chín vợ trong nhà, bố mẹ chết, ma chay to hơn ma Tổng đốc.
‘‘Thật chúng nó tàn nhẫn. Ăn cướp cơm chim, sống bám vào những người khố rách. Những thằng thế mà giời vẫn cho mát mặt, chẳng bù với mình, đầu tắt mặt tối, ngày nắng đêm sương..."
... Để mặc anh Tư chửi bới cho hả giận, tôi vắt tay lên trán, mơ màng nằm nghĩ một mình.
Ngoài trời, ngàn dâu đã xanh ngắt bên sông...
Câu chuyện trong túp lều tranh suốt một đêm trường cũng đã tàn theo với ngọn đèn nha phiến.
Chương XII
Bài học vỡ lòng trong chiếc hến
Ông kéo xe trong mười hai năm giời mà sống được thì tôi chắc tôi có làm nghề này cũng không đến nỗi chết. Hôm nay còn mệt lắm mà tiền ăn cũng chưa cần phải kiếm, tôi muốn nghỉ một buổi ở nhà với ông. Đây, lúc ở Thái xuôi, trừ tiền ô tô, quà bánh, còn thừa hai đồng. Tôi muốn hút chơi vài điếu cho lại người, tiền đây, ông bảo ai đi mua thuốc.
Tôi đưa ra cho anh Tư một tờ giấy bạc.
Đỡ lấy tiền, anh ta vắt chiếc khăn mặt nâu lên vai, co ro từ trên giường bước xuống, tay vơ ở khay đèn chiếc hến, miệng cất giọng nói khàn khàn:
- Bác ở nhà sửa lại bấc đèn, để tôi phải đi mua lấy mới được thứ thuốc tốt.
.. Ngang hay hộp?
- Ngang nhưng bền lắm, xái tư còn con ong.
... Nhân thể, ông xem còn dầu không?
- Phải, mà tí nữa quên, bác với cho tôi cái lọ ở chân chõng.
Nửa giờ sau, anh ta đem về một lọ dầu, một hến thuốc với một gói đến hai chục chiếc kẹo bột.
- Phiện say mà hãm cái này thì phải biết! Bác xem tích nước còn nóng không.
Tôi cầm ấm tích, mở chiếc nắp sắt tây - cái nắp hộp sữa bột Nestlé - dốc ra, chỉ còn được vài giọt nước đỏ lòm.
- Hết rồi à? Để tôi đi đun. Bác đổ chỗ nước vừa rót vào, cốt còn đặc chán!
Anh ta bệ chiếc hỏa lò cụt với mấy thanh đóm nứa để ngay lên trên chõng. Nứa tươi, lửa khó bén, khói om.
Tôi rót dầu vào chiếc phao sắt tây gỉ, rồi đánh lửa châm đèn. Lắp lọ, bắt thử đầu xe trên vành môi thâm, anh ta khen cái vấu của anh ta tuy xấu mã nhưng kín mà nhiều cao lắm.
Bây giờ, tôi với anh Tư cùng vén đùi, nằm tréo kheo mỗi người một bên khay đèn thuốc phiện.
Trên lửa đèn, que thuốc nở như quả táo nướng; bên hến thuốc, câu chuyện của anh Tư cũng nở như gạo rang.
- Làm nghề xe kéo, suốt ngày vất vả, ăn uống cũng lật đật, chỉ có lúc nằm bên bàn đèn thuốc phiện là được nhàn.
Rồi anh ta nheo má lại mà cười:
- Cũng là kéo xe sao kéo xe lọ thì khoan khoái nhẹ nhàng, mà kéo xe người thì ê chề, trầy trật!
Anh ta ra ý hả lắm. Tiêm xong điếu thuốc mời anh ta lấy trước, tôi làm bộ dớ dan, phàn nàn:
... Tôi mới kéo có một buổi hôm qua mà khắp mình đau như dần. Đâu xương đầu cốt như sai khớp bong gân, nhất là hai bụng chân, đến bây giờ vẫn còn nhức buốt.
- Mới đi kéo lần đầu, ai giữ khỏi đau được. Nhưng biết cách kéo, biết xoa bóp, cũng đỡ được nhiều.
... Thế làm như thế nào? Ông bảo cho tôi theo.
- Bác cứ yên tâm, ở đây với tôi không bao lâu là bác thạo.
... Mình mẩy tôi bây giờ nhức nhối lắm, ông bảo làm thế nào thì đỡ đau!
- Bác cứ tiêm nốt điêu ấy đi nào! Tôi đã có cách, không phải bảo.
Hút luôn một chập chừng mươi điếu, anh Tư đứng dậy, đi ra sau.
Lúc lên, anh ta cầm cái mảnh nồi, trong có một chất gì như bã nâu, xâm xấp nước. Đặt mảnh nồi lên hỏa lò, anh ta cầm que đóm lửa hơ hơ dưới đít. Chất kia bốc hơi, xông lên một mùi khang khảng, khai mà hắc như mùi cặn nước tiểu pha lẫn với hồng hoàng.
Đổ cái bã ấy vào một mảnh vải bẩn, anh ta đưa cho tôi, bảo cầm túm lại, xát mạnh vào những chỗ đau và hai ống chân.
Tôi cũng theo như thế mà làm, vừa xát vừa hỏi dò môn thuốc.
- Chỉ trong nửa giờ đồng hồ, rồi bác thấy mình mẩy dãn dần ra hết. Thứ thuốc bóp ấy, ai làm cũng được. Đẽo ít vỏ cây gạo giã nhỏ ra, đổ nước tiểu vào rồi đem sao lên. Mỏi gân mỏi cốt hay bị đánh đòn, cứ đem xoa là khỏi tất!
... Chỉ thế thôi?
- Nếu uống được nước lá tre thì càng hay. Bứt ít lá tre nõn đem phơi. Thấy lá đã hơi héo rồi thì rửa sạch cho vào cấp siêu sắc lên, uống lấy độ vài bát.
Vặn mình bẻ khục rồi, tôi lại ghé đầu, nằm xuống.
Tiêm luôn thuốc cho anh Tư hút, tôi hỏi luôn về cách kéo xe.
- "Kéo xe cũng là một nghề. Đã đành cầm đến cái tay gỗ thì ai cũng kéo, ai cũng đi, nhưng phải kéo làm sao, đi làm sao cho đỡ vất vả.
"Tôi chắc bác chạy một cuốc xong, thế nào bác cũng phải thở dốc một hồi, lúc mới buông hai chiếc tay xe ra. Thế là không biết kéo rồi, người kéo thạo tuy cũng thở, nhưng không phải thở dốc ra như thế.
"Làm cái nghề chạy quanh năm suốt ngày này, người đã không thể nhớn lên được, cứ cọc dần đi, nếu không biết chạy mà lần nào cũng thở hồng hộc như bò thì phổi mình phải yếu dần đi, rồi đến mắc ho mắc suyễn. Ăn đã chẳng có gì béo bổ, ở cũng ở chui ở rúc, lại còn dãi gió dầm mưa, phơi sương phơi nắng, đến đá cũng phải ốm, đừng nói là người. Nhưng giời đã đày vào kiếp ấy, cũng chẳng chống lại được với giời! Biết giữ được phần nào, hãy cứ hay phần ấy".
Nói đến đấy, chẳng biết cảm động thế nào mà anh Tư nhỏm dậy, cầm tích nước, tu thẳng một hơi.
Bây giờ thì anh ta ngồi, nhón chiếc kẹo bỏ vào mồm, nhai rau ráu rồi lại nói:
- "Cầm hai chiếc tay xe lên, phải liệu xem khách ngồi chiều nào, định trước cho cân rồi hãy chạy. Người ta ngồi ngả vào đệm dựa, thì phải cầm dài; ngồi giữa đệm thì cầm giữa càng; ngồi tì đệm tai (hai cái đệm con để tựa khuỷu tay) thì cầm ngắn. Trước khi chạy phải dún càng xe lấy mực rồi hãy bước. Cầm tay xe, không nên cầm tay dài tay ngắn vì lúc chạy ngoắt đường này sang đường khác, đà xe đang mạnh, mình giữ không vững, xe phải lật nghiêng. Không nên ăn no, phải thắt chặt dây lưng; thắt lưng không chặt thì ruột vặn từ rốn đưa lên; ngon miệng ăn no thì bụng xóc. Lúc chạy phải mím môi lại, chỉ được thở bẳng mũi, đừng thở bằng miệng. Cầm hơi như thế, sức bao giờ cũng mạnh, hễ há hốc luôn miệng mà thở là thấy mệt liền. Giữ như thế cho đến lúc thật tức hơi thì há mồm thở phào ra một cái thật mạnh rồi lại phải mím miệng lại liền; lấy hơi vào, phải thở luôn bằng mũi.
"Xe dừng lại, khách xuống rồi, bấy giờ tha hồ mà thở, nhưng không nên ngồi nghỉ ngay. Phải bước một mà đi cho chân khỏi chồn, lúc thuận chân hãy ngồi nghỉ lại. Quạt cho ráo mồ hôi rồi hãy uống nước; uống nước vội đã chẳng đỡ khát, lại thêm mồ hôi..."
Bài học vỡ lòng ấy, anh Tư giảng giải cho tôi nghe làm nhiều đoạn, nhiều hồi.
Mỗi điếu thuốc là một cái chấm xuống dòng! Mỗi chiếc kẹo là một cái chấm phẩy!
Nhưng, nó khô khan làm sao! Suốt năm sáu mươi dòng chữ mà không có một cái chấm hỏi (?) hay cái chấm tình (!).
Trong chiếc hến, anh Tư đã xếp cho tôi một bài học vỡ lòng.
Thuộc bài đầu rồi, tôi còn được học thêm nhiều bài khác khó hơn... trong nhiều chiếc hến khác...
➖➖➖