
Chương V
Cái "cuốc" từ Đồn Thủy lên Yên Phụ
Phía sau chiếc xe bị xô mạnh, tôi cũng văng mình đi. Ngẩng nhìn lên, ánh cây đèn giữa phố đã rọi sáng xuống vỉa hè một con đường vắng tanh vắng ngắt.
Trước mắt tôi lù lù một người đứng.
Chẳng kịp để tôi dụi mắt, người ấy đã nhảy lên xe, gieo mạnh đít xuống đệm, rồi nện gót giày xuống sân xe, mà thét:
- A lê! Đi mao leen!
Tôi tất tả chụp nón vào đầu, nâng cao càng gỗ hi hoay quay xe ra đường. Tại sao tôi lại chịu, kéo người? Thật lúc đó, chính tôi, tôi cũng không biết.
Máu trong người tôi, bấy giờ hình như luân chuyển hăng lắm. Cắm cổ đưa hai khuỷu tay lên khỏi lưng như hai chiếc càng châu chấu rồi xoạc chân bước bước thứ nhất, tôi tưởng chừng như có thể nuốt nổi được một lúc mấy dặm đường.
Nhưng sự thật nó khác hẳn với bụng nghĩ của mình.
Chạy đến bước thứ ba, tôi đã thấy như mất hết thịt ở hai gót chân, chỉ còn trơ có cái xương nhói buốt. Người tôi, vốn mập. Cái bụng bấy giờ, tôi thấy như chảy xệ thêm ra mà đưa lủng lẳng như bụng lợn dưới cái khung xương sườn.
- Mao leen! A lê, mao leen!
Mỗi cái gót giày nện vào sân xe như đánh thẳng lên gáy tôi cho gục xuống. Chân tôi, ngày thường vẫn đi chữ bát, lúc ấy hình như đi vòng kiềng. Ruột thì như vặn từ dưới rốn đưa lên, cổ thì nóng như cái ống gang, đưa hơi lửa ra không kịp.
Ì ạch mãi, rồi tôi cũng tha được ông khách của tôi đến đầu Cầu Đất... Miệng thở, mũi thở, rồi đến cả tai cũng thở, mồ hôi thì toát ra như mồ hôi chõ, tôi thấy tôi không phải là người nữa, chỉ là một cái... nồi sốt de.
Từ Cột Đồng Hồ trở đi, bước chân tôi chạy đã thuần, nhưng miệng tôi vẫn há hốc ra mà thở; cũng như hai bánh cao su tuy vẫn quay vòng trên con đường nhựa mà chiếc xe thì cứ bập bềnh như muốn đưa tôi lên khỏi mặt đất, hay dúi tôi ngã khuỵu xuống rãnh hè.
Ai chẳng bảo tôi đã khiến nổi hai tay xe. Tôi thì tôi bảo: làm thân người phu xe tay là tự nguyện cúi đầu dưới quyền sai khiến của hai cánh tay gỗ!
Dãy đèn điện đường Bờ Sông, mọi tối, tôi trông chẳng sáng là bao, mà đêm ấy như đèn pha ô tô cả. Bóng trăm rưởi nến sáng như bóng ba trăm nến, chiếu hết những đường chỉ áo cho đến những sợi lông của cập giò.
Dọc đường, những tiếng ồn ào, huyên náo, tôi nghe thấy hết mà không nghe thấy gì; mỗi lần có chiếc ô-tô tung bụi vút qua, tôi lại thấy khách qua đường, trong đó có cả người quen, đang chỉ trỏ tôi mà phỉ nhổ. Ngang dọc, quanh tôi có không biết bao nhiêu xe! Xe ấy kéo những ai? Người quen biết tôi cả! Rồi một sức mạnh như vít ngang lấy cổ. Mặt tôi cúi sấp xuống. Chân tôi chạy rảo đi.
- Ếp!
Người qua đường không tránh, có lẽ vì tôi kêu nhỏ tiếng quá, chớ không phải người ta lơ đễnh không nghe.
- Mù! Chạy thế à?
Một đầu càng xe tôi kéo đã thích vào vai anh ta, anh ta còn bị người Cai Tây ngồi trên xe tôi sừng sộ.
Qua gầm cầu, qua bến ô-tô, qua nhà Máy nước nóng... qua nhà Thuốc lá cũ.
Miệng tôi thử lửa, cằm tôi đổ tong tỏng những dòng mồ hôi xuống như chiếc ống máng cụt đổ nước hôm trời mưa.
- Tôôi! Assez!
Lại một cái gót giày nữa đánh mạnh xuống sân xe.
Tôi ghé đỗ trước một tòa nhà ngoài hiên có một người đàn bà An Nam quần trắng sơ mi đen, nằm duỗi dài trên ghế.
Hất chiếc áo xanh tụt xuống nửa lưng, cầm nón quạt, tôi ngồi phịch xuống vỉa hè, ngay chỗ xe đỗ. Giá lúc đó người bồi không mang đồng hào con ra trả, tôi cũng quên bẵng cái việc: còn phải đợi khách cho tiền xe.
- Bác vào nói hộ ông ấy cho thêm chứ. Một cuốc từ Đồn Thủy về!
Người bồi chưa bước vào, một cái mũi lõ thô lố hai mắt đã thò ra:
- Qué qu’il y a? Qué qu’il y a? - Dồn mấy tiếng.
- Lúc điếc bẩy-dề ăng-co.
- Dix sous et encore pas content?
Tôi đứng lên, chìa đồng hào người bồi vừa trao tay xong:
- Tu veux encore des cadouilles? Sale vache!
Miệng nói, tay anh ta cởi chiếc thắt lưng da đóng đai ngoài bụng, nhấp nhoáng một chiếc khóa đồng.
Lúc ấy tôi mới nhận biết ông khách của tôi là một ông Cai mắt xanh, tóc quăn. Nghe người ta chửi vào mặt đã xong, tôi còn muốn được thêm một trận đòn, phải cứ làm ra mặt bướng:
- Bẩy-dề ăng-co, moa ba con-nét.
Quả nhiên tôi không đỡ kịp một quả đấm, vùng chạy kêu ầm lên:
- Ối ông Đội xếp! Ối Cập tên! (capitaine = quan ba)
Phố vắng, mà người đổ ra xem đông.
Tôi nghe rõ một tiếng đàn bà:
- Ối, còn chuyện gì, lại cu li xe vòi tiền, bị nó đánh!
Đội xếp, Cập tên, rồi cũng không ông nào đến! Hàng phố, rồi họ cũng mặc!
Cho cả đến cái bà cóc xê quần trắng cũng vẫn ung dung nằm duỗi dài trên ghế như thường.
Tôi quay lại, cầm hai càng xe lên.
Một ông quần nẹp trắng ngồi bó gối bên chiếc xe dưới gốc đèn nói một câu bâng quơ:
- Lạ gì các "bố Vườn rau" 1 còn không biết!
--------------------------------
1 Dãy nhà ở mé ngoài phố Trúc Lạc, bên trên trường học Yên Phụ cũ, làm cạnh một vườn trồng rau, là chỗ có đông cai Tây, đội Tây ở. Những người Tây ấy, bọn phu xe quen gọi là Tây Vườn Rau.
Chương VI
Nhớ đến ông già ba năm trước
Gió hồ Trúc Bạch hây hây quạt mát.
Đường Cổ Ngư tấp nập những xe nhà gọng đồng sáng nhoáng, những torpédo với limousine của các khách thừa lương.
Được tắm gội bằng luồng gió mát, người họ chắc nhẹ như chiếc lông hồng.
Cùng ngọn gió hồ, cùng cảnh mặt nước gọn trăng mà tôi thì thấy như bứt rứt.
Cái đấm bị ở vai, không đau bằng xương sườn, xương gáy với xương ống chân mỏi rức. Rức xương lại chưa bằng rức óc. Mà lúc ấy thì tôi mỏi rức cả óc lẫn xương.
Cái óc bảo cái xương: "Mày cũng như tao, đang đau rức", rồi lại bảo cái mắt: "Chúng mày hãy trông trên đường".
Trên đường có cái gì?
Một anh chàng béo như con trâu trương với bốn đứa con - thiếu chị vợ để họp thành cả một gia đình - cùng ngồi trên chiếc xe, một người kéo đi bước một.
Đổi địa vị, bây giờ cho người này ngồi lên, người kia bước xuống. Kéo được ba bước, người kia rồi phải trỏ vào mặt người này mà nghiến hai hàm răng thật chặt:
- Chúng mày tàn nhẫn lắm, quân bất lương!
Những buổi tối mùa hè người ta thường nghe những tiếng:
- Mày đánh xe kéo mợ đi chơi mát!
- Mười lăm xu một giờ, có đi không?
Rồi, ngang dọc, khắp đường, người ta thấy những gái đã năm con còn phấn đắp như trát, ngồi lấy bộ cho đẹp trên những chiếc xe sơn đỏ, sơn đen; thằng xe thì kéo bở hơi tai, ống chân phải bó xà cạp để tỏ cho người biết bà chủ nó là nhà sang trọng. Lại những thằng vai so đầu mướt, to lớn như ông Hộ pháp, nằm sóng sượt trên những chiếc xe đi giờ, miệng phì phào hơi thuốc Ăng-lê, hai mắt như mắt Long thần, hết nhìn ngang lại nhìn dọc...
- Mười lăm xu một giờ, có đi không?
- Mày kéo mợ đi chơi mát!
Mười lăm xu một giờ. Ba đồng một tháng. Bát mồ hôi pha máu của người, họ đánh giá không được một đồng kẽm. Thật quân bất lương!
Ngồi nghĩ ngợi lan man sau khi đã mặc bộ quần áo phu xe, nghe người ta mắng chửi, chịu người ta đánh đòn, tôi lại sực nhớ đến một ông già tôi gặp khoảng ba năm trước.
- Kéo xe đôi, - Bạn tôi với tôi - ông già chạy chậm.
Bạn tôi gắt:
- Chạy nhanh lên chứ, khéo khỉ lắm!
Ông già vừa thở vừa đáp:
- Các thầy có kéo xe như tôi, các thầy mới biết.
Bạn tôi nhảy xuống xe toan đánh thằng xe hỗn, nếu tôi không tốt can.
Chuyện ấy, đã ba năm.
Bây giờ, chắc ông già ấy đã chết.
Mà làm cái nghề này, sống lâu làm sao được? Chạy suốt ngày. Ăn không đủ. Tấm thân lại dầm mưa dãi nắng...
Người ta nói:
- Quả ở xứ nóng, quả chín sớm.
Tôi bảo:
- Người làm cu li xe kéo, người chết non!
Chương VII
Một đồng hào trong nẹp gấu quần
Tôi cũng trả xe cùng phố anh, nhưng anh có đủ thuế không?
- Kéo từ trưa được bảy hào, giả thuế sáu hào, tôi chỉ còn thừa có một hào bạc.
- Được, bây giờ cũng đã đến hai giờ sáng. Thủng thỉnh, chúng mình về cũng vừa. Anh theo tôi, tôi trỏ chỗ cho mà ăn, ăn xong, ta cùng về chỗ trọ.
Càng xe quắp nách, sóng đôi với người bạn mới, tôi cũng bước một, theo đi. Đường vắng canh khuya, tôi chẳng quên hỏi bạn những câu chuyện nhỏ:
- Một hào chỉ, cả ăn lẫn trọ thì làm thế nào cho đủ?
- Anh có nghiện rượu không?
- Tôi không uống bao giờ cả.
- Bảy xu cơm, hai xu trọ, cả thảy chín xu. Thêm một trinh bát nước chè tươi, anh còn thừa một trinh lẻ. Mà quên, còn diêm thuốc chưa kể.
- Không, tôi không hút được thuốc lào.
- Như thế thì lo gì nữa!
Đồng hồ trong phố đánh hai giờ sáng. Chúng tôi về đến chỗ trả xe.
Qua mảnh sân con vào đến hiên trong, dưới ánh sáng lù mù một ngọn đèn Hoa Kỳ, tôi lại thấy mặt thằng cha bận áo nòng nọc buổi trưa, chừng là người phụ việc cho cai xe ở đó.
Người cai không có đấy, nhưng trên chiếc ghế vải anh ta ngồi lúc trước, tôi thấy có một người đàn bà. Mụ này cởi trần, người to lớn, đang rũ tóc quạt phành phạch như người quạt hỏa lò. Dưới mảnh yếm rộng không hơn chiếc mù soa, thỗn thện cặp vú sọ dừa to như hai chiếc ấm giỏ.
Cạnh đấy, trên một tấm giường gỗ trần, mấy thằng vén đùi nằm xen vào nhau, ngủ như chết giả.
Tiếng ngáy, tiếng mê sảng lẫn với mấy tiếng ho.
Tôi lấy trong túi áo, đưa sáu hào ra.
- Xe 102 phải không?
Thằng cha bận áo nòng nọc, mặt gân guốc mà đầu bò, vừa hỏi vừa giở sổ.
- Phải, bác giả lại thẻ cho tôi.
- Xe có thiếu gì không?
- Đủ cả.
- Hãy đợi đấy để còn ra soát lại đã.
Cùng lúc đó, một người phu xe khác bước vào:
- Bác làm phúc, hôm nay cháu thiếu mất hai hầu.
- Phúc với đức gì, không đủ thuế thì gán áo.
- Bác để cho đến mai, cháu kéo...
Không đợi người này nói hết, mụ đàn bà the thé nói vào:
- Mai mấy kia gì, áo nó đâu, bắt lấy!
- Cháu chỉ còn có một cái quần... Xe ế, nhỡ phải một hôm, bà trông lại...
Lần này thằng áo nòng nọc không nói, cúi rút chiếc càng bắt ốc trong gậm, sấn lại đánh vào lưng người kia ba cái luôn tay.
- Ôi giời ôi!
- Mày thiếu thuế còn bướng có phải không?
- Nó nỏ mồm, đánh bỏ mẹ nó đi cho bà... quai thêm cho nó mấy cái.
Mụ đàn bà búi tóc ngược, sấn sổ đứng dậy. Túm đầu người kia dìm xuống, mụ vừa tát vừa lên gối, chửi rủa một hồi.
Trên bục, mấy người nọ - chừng là phu xe cả - vẫn ngủ say.
Một thằng tỉnh ngủ hơn, ngóc cổ lên nhìn, rồi lại nằm ngủ lại.
- Mày nắn lưng nó cho bà.
Bỏ chiếc càng bắt ốc xe, thằng áo nòng nọc lần người khốn nạn ấy từ đầu xuống đến gối.
Lúc này, người ấy run lên như cầy sấy, thì vừa lúc thằng kia vừa nắn đến hai gấu quần:
- Nó giấu đồng hào trong này, có gớm không!
Vừa nói, thằng áo nòng nọc vừa giơ lên một đồng hào con, rồi thoi vào mặt người ấy một quả đấm:
- Cái gì đây? Tiên sư đồ ăn cắp!
Mụ đàn bà lại vít đầu người ấy xuống:
- Bà đánh cho mày biết, từ rày thì chừa những thói ăn gian.
Nhận trên mình chừng hơn chục chiếc càng, người khốn nạn kia ngoắt tay ôm lấy lưng, rồi gục xuống. Máu ở lỗ mũi anh ta ồng ộc đổ ra như hai vòi nước, đọng thành vũng trên gạch sân.
Tôi rùng mình....
Quay lưng lại, tôi bảo với thằng áo nòng nọc:
- Người ta thiếu có hai hào bạc!
Chương VIII
Tôi nếm món xáo bò lần thứ nhất
Chừng ba giờ sáng.
Chui vào một hàng cơm tối mà thấp như cái hang chuột, tôi với người bạn dọc đường lúc nãy cùng ghé ngồi xuống một tấm ghế dọc kê sát một chiếc bàn. Cái bàn mộc cáu ghét với mỡ đã lâu năm, trên có một ống đũa tre rỉ nước ròng ròng, hai cái vỏ cút rượu ti con, với một cái vịt đã cụt nửa vòi, chừng là vịt nước mắm.
Tôi thở trong một bầu không khí đầy những mùi hôi tanh nồng nặc. Cái mùi ấy gọi là mùi thớt cũng chỉ hơi đúng vì ngoài những hơi mỡ ôi, cá ươn, thịt thiu, hành sống và trăm thức đồ ăn khác, nếu phân chất kỹ, còn có cả mùi cứt gián với mùi mồ hôi kinh niên.
Con bé nhà hàng bưng đến cho tôi hai chiếc bát đàn úp một, trong có ba xu cơm.
Tôi lật chiếc bát úp, lấy đôi đũa tre trong ống sẻ đôi chỗ cơm, vừa được đầy hai bát.
Trước mặt tôi, một bát canh xáo bò bốc khói lên ngùn ngụt. Nóng sốt như thế mà tôi đoán chừng nó chẳng ngon lành gì cho lắm, vì trong bát canh đục ngầu như nước cống, mấy khoanh lòng bò lều bều nổi như những xác chết đuối dưới mấy đám hành răm. Cạnh đấy, một đĩa lòng giá trông cũng chẳng ngon gì hơn.
Ít tiền, làm gì được miếng ngon! Hai xu xáo lòng! Hai xu lòng giá!
Cầm bát cơm, chan nước xáo, và... tôi thấy dạ dày tôi nó đi một mạch từ bụng lên đến cổ. Có lẽ món ruột già nhà hàng làm không kỹ, nên và xong một miếng, tôi tưởng như tôi đã nuỗt phải cả một bãi phân bò.
Ngồi đối diện, bạn tôi vẫn chén rượu khè khà:
- Anh không uống được rượu thì ăn đi.
Cầm bát canh húp soàn soạt rầm nhà, anh ta tấm tắc khen:
- Món xáo bò ngon quá!
Tôi đành ngồi chống đũa.
Xáo ấy, lòng ấy, lại thêm cơm thổi bằng thứ gạo hẩm đã hết cả nhựa, nước mắm thì là thứ nước hàng pha với muối mặn ăn cho đỡ tốn, tôi dù có cố nuốt, rồi cũng đến phải trả hết ra.
Ngồi chờ bạn, tôi nhìn đến gác mâng-giê để ngay ngoài nhà. Trong tấm lưới sắt thưa, một chậu thịt - thịt bạc nhạc đẽo ở xương ra - còn nằm chờ bỏ vào nồi để làm món giả cầy bán sáng.
Ba con cá diếc nhỏ bằng hai ngón tay chéo, chẳng biết rán từ năm nào mà đét lại như những con mắm nướng. Chừng nó ngã qua vào chảo mỡ cạn, rồi nhảy lên đĩa nằm chờ mãi đó mà chưa gặp được ông khách hàng. Một khúc dồi lợn buộc trên sợi dây lạt, lòng thòng như một quan tiền. Mấy bìa đậu phụ rán tự hôm kia đã sắp đổi màu vàng ra màu đất.
Bên cửa vào, trên một mảnh ván bám vào tường xếp hàng dài một dãy những chai rượu ti lớn. Trong nhà, một rổ bát ướt rườn rượt đút dưới gậm một chiếc bục, trên có manh chiếu bẩn gài chiếc màn sô cháo lòng.
Đồ ăn, thức đựng, màn, chiếu, tất cả chừng ấy cái đều như phơi dưới ánh sáng hai cây đèn búp măng. Hai chiếc thông phong buồn tình làm việc thâu đêm, thở khói lên ngụt ngụt.
Tôi nghĩ: trong cái hoàn cảnh này, còn có người cầm nổi được bát cơm mà nuốt, lại nuốt trôi một cách ngon miệng, mà nào đồ ăn thức uống có phải ngon lành? Toàn những cái đầu thừa đuôi thẹo mới đến hàng cơm: trứng ung, thịt ôi, cá ươn, gà toi... chó ốm! Đó là chưa kể những món thịt súp ở các hàng cơm Tây họ đã ninh lấy nước, hay những món khoai thừa họ đã bỏ vào nồi nước gạo rồi lại được cái bàn tay của những đứa tham lợi mò lên.
Tôi thấy tôi lợm lòng.
Ngẩng nhìn lên thì bạn tôi vẫn còn sì sụp với bát canh, mà lần này, mặt đã đỏ như vang, coi bộ khoan khoái lắm!
Ăn để sống?
Sống để ăn?
➖➖➖